“PHÁP LỆNH TÔN GIÁO CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” (Ma. 18:20) “Nơi nào có hai, ba người nhân danh Ta nhóm nhau lại, thì Ta ở giữa họ.” (Ma. 18:20) Là Cơ Đốc Nhân, một mặt, chúng ta đã được Đức Chúa Trời kêu gọi ra khỏi thế gian là nơi chúng ta đang “Ở trọ”; đây là nơi kế thừa và tích tụ “Sự ăn ở không ra chi” theo sự nhìn nhận của Ngài (1Phi 1:17, 18). Mặt khác, chúng ta vẫn đang hiện hữu giữa thế gian này là nơi mà Ðức Chúa Jêsus đã thay cho chúng ta thưa với Đức Chúa Cha rằng “Con chẳng cầu Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ cho khỏi điều ác”, và rằng “Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha là lẽ thật” (Gi. 17:15, 17). Ngày nào chúng ta còn ở trong thế gian thì ngày ấy chúng ta vẫn còn phải làm công dân của các Chính Phủ của thế gian này, tức phải chấp hành các luật lệ, qui định của thế gian. Dầu vậy, đối với chúng ta, phận sự Thiên Đàng là tối cao. Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta sống là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời chứ không phải để chìu lòng thế gian! Vì thế, trên tất cả mọi phương diện, khuôn vàng, thước ngọc cho hành vi của chúng ta là Lời Đức Chúa Trời qua Kinh Thánh. Trong mọi trường hợp, sự chấp hành luật lệ của chúng ta đều nhằm hoàn thành “Ý muốn tốt lành, đẹp lòng, và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2). Đối với vấn đề đức tin, Đức Chúa Trời không muốn chúng ta bị rơi vào các bẫy lưới của thế gian, Ngài có sẵn “Pháp Lệnh Tôn Giáo” cho chúng ta thi hành để giữ được đức tin sự sống hầu cho khỏi mất sự sống đời đời là chính Ngài: “Nơi nào có hai, ba người nhân danh Ta nhóm nhau lại, thì Ta ở giữa họ” (Ma. 18:20). Dầu rất ngắn gọn, “Pháp Lệnh Tôn Giáo”của Đức Chúa Trời - được bày tỏ qua lời phán của Đức Chúa Jêsus - có những chương mục rất rõ ràng! I. NGÀI QUI ĐỊNH VỀ QUAN HỆ TÔN GIÁO “Thì Ta ở giữa họ” (Ma. 18:20) Qui định về quan hệ tôn giáo của các hiến chế của loài người vốn chủ yếu xây dựng trên ý thức hệ chính trị, chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa cục bộ, và thay đổi theo thời gian. Trái lại, cách qui định về quan hệ tôn giáo của Đức Chúa Trời là bất biến và nhằm “Làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định” (Rô. 8:28). 1. Lợi ích của “Pháp Lệnh Tôn Giáo” của Đức Chúa Trời là để bảo đảm và duy trì sự hiện diện của Ngài trong đời sống Dân Ngài. Loài người là tạo vật đã được Đức Chúa Trời tạo dựng một cách thiêng liêng và trực tiếp (Sv. Sáng. 1:27). Dầu vậy, những người chưa được cứu là nạn nhân của Satan, họ còn đang ở trong sự mù tối thuộc linh (Sv. Công. 26:18). Chúng ta không ngạc nhiên khi các sản phẩm tôn giáo và có liên quan đến tôn giáo của thế gian đều có tác dụng làm cho con người trôi giạt xa Đức Chúa Trời, vì họ đang “Chết vì lầm lỗi và tội ác mình”, đang “Làm theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung…” (Êph. 2:1, 2). Như vậy, chúng ta hiểu được lợi ích đích thực của tôn giáo: Lợi ích đích thực của tôn giáo chân chính là sự bảo đảm và duy trì được sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đời sống người tin. Đức Chúa Trời muốn chúng ta được sống trong sự hiện diện của Ngài (Sv. Gi. 17:22-24). Tất cả những sự ràng buộc nào khiến cho chúng ta phải rời xa Đức Chúa Trời đều phải được khước từ vì “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” (Công. 5:29). 2. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời giữa vòng Dân Ngài là điều thế gian không thể hiểu và tin được. Người chưa được cứu không thể nào hiểu và tin được sự hiện diện của Đức Chúa Trời “21Vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm sáng danh Ngài là Đức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ lầm lạc trong ý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm. 22Họ tự xưng mình là khôn ngoan mà trở nên điên dại; 23họ đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng” (Rô. 21-23). Trông mong có được sự hỗ trợ thuận lợi của các định chế của thế gian đối với đức tin sự sống đặt nơi Đức Chúa Trời là một sự hy vọng hão huyền vì “Hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ” (2Ti. 3:12). 3. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời giữa vòng Dân Ngài là một tất yếu siêu nhiên và hiển nhiên. “Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu” là một lời hứa làm ấm lòng Cơ Đốc Nhân của mọi thời đại. Lời hứa ấy của Đức Chúa Trời khiến cho chúng ta tin quyết được rằng “Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết._Người đời làm chi tôi được?” (Hê. 13:5, 6). Là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus hiện diện khắp mọi nơi; vả lại, Ngài đã quyết định ở cùng chúng ta trong mọi không gian và thời điểm: “Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma 28:20). Đức tin đặt vào lời hứa của Đức Chúa Trời làm cho chúng ta nhận biết sự hiện diện của Ngài trong đời sống của chúng ta một cách cá nhân và thực hành, bằng cách đó, chúng ta bước đi trong mối thông công cùng Ngài: “Tôi hằng để Đức Giêhôva đứng ở trước mặt tôi;_Tôi chẳng hề bị rúng động, vì Ngài ở bên hữu tôi” (Thi. 16:8). Có điều gì khiến ngăn trở việc chúng ta để cho Đức Chúa Trời đứng ở vị trí điều khiển toàn bộ đời sống của chúng ta không? Có điều gì khiến ngăn trở mối quan hệ mật thiết giữa chúng ta với Đức Chúa Trời không? Nếu có điều gì hoặc người nào khiến dẫn đến những hậu quả hiểm nghèo ấy, chúng ta phải biết trả lời như các Sứ Đồ Phierơ và Giăng rằng “Chính các ông hãy suy xét, trước mặt Đức Chúa Trời có nên vâng lời các ông hơn là vâng lời Đức Chúa Trời chăng?” (Công. 4:19). II. NGÀI QUI ĐỊNH VỀ SINH HOẠT TÔN GIÁO “… Nhân danh Ta nhóm nhau lại” (Ma. 18:20) Các chế độ xã hội trong thế gian có những cách qui định sinh hoạt tôn giáo khác nhau tùy theo cách hiểu và lợi ích riêng của mình. Thế nhưng, theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, một sự sinh hoạt tôn giáo xứng hiệp phải hoàn toàn khác với các cách qui định của thế gian: “Ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối Ta” (Ês. 55:8). 1. Phạm vi đề cập của “Pháp Lệnh Tôn Giáo” của Đức Chúa Trời là Danh Ngài. Vì “Danh” của Đức Chúa Trời tiêu biểu cho bản thể và công việc của Ngài nên việc nhân danh Ngài nhóm lại là một sự qui định cần phải được thượng tôn. Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, sự nhóm lại sẽ bị kể là bất chính nếu thuộc tính và chương trình trên thế gian của Ngài không được quan tâm đầy đủ và thỏa đáng “Để Cha được sáng danh nơi Con” (Gi. 14:13). Sự nhóm lại cũng sẽ không được ích lợi gì nếu chúng ta không thực hiện “Theo ý muốn Ngài” (Sv. 1Gi. 5:14). Để sự nhóm lại được kể là “Nhân danh” Chúa, chúng ta cũng cần phải biết để cho Lời Đức Chúa Trời được neo chặt trong lòng chúng ta và điều khiển đời sống chúng ta (Sv. Côl. 3:16). Đức Chúa Trời đã truyền cho chúng ta “Chẳng theo mưu kế của kẻ dữ,_chẳng đứng trong đường tội nhân,_Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng”, tại sao việc nhóm lại của chúng ta lại phải tuân theo những khuôn khổ đi ngược lại sự dạy dỗ của Ngài? Phải chăng chúng ta cần phải quyết định “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” để độc tôn Danh thánh của Đức Chúa Trời và giữ được mối thông công với chính Ngài? 2. Nhân danh Đức Chúa Trời nhóm nhau lại chính là thông công với Ngài. Việc nhóm lại nhân danh Đức Chúa Trời có bản chất của sự liên hiệp với Đức Chúa Jêsus hầu cho chúng ta “Được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài” (Phil. 3:10). Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời đối với chúng ta thật rõ ràng: “Nếu có ai vì làm tín đồ Đấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn; thà hãy vì Danh ấy ngợi khen Đức Chúa Trời là hơn” (1Phi. 4:16). Trong “Danh” Đức Chúa Jêsus, chúng ta đã được cứu khỏi nợ tội, án tội, và ách tội (Sv. Công. 2:21). Trong “Danh” Đức Chúa Jêsus, chúng ta cũng đã được nhận lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh (Sv. Công. 2:38). Chúng ta không được phép hèn, kém hơn người què ở Cửa Đẹp mà Sứ Đồ Phierơ đã chữa lành theo đức tin của người ấy nơi “Danh” Đức Chúa Jêsus. “Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài” (1Phi. 2:21). Khi chúng ta thông công với Cứu Chúa yêu dấu của chúng ta bằng sự nhóm lại, nhất định chúng ta phải gặp sự làm khó của thế gian vì câu hỏi muôn thuở của họ vẫn cứ là “Bởi quyền phép nào hay là nhân danh ai mà các ngươi làm điều nầy?” (Công. 4:7). Dầu vậy, chúng ta phải “Thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng, và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” vì chúng ta đã được cứu thoát khỏi sự mù tối thuộc linh và “Đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời” (1Phi. 1:23). Câu hỏi mà chúng ta phải sẵn sàng dùng để đối đáp là “Chính các ông hãy suy xét, trước mặt Đức Chúa Trời có nên vâng lời các ông hơn là vâng lời Đức Chúa Trời chăng?”. 3. Mọi sự phá vỡ mối thông công với Đức Chúa Trời đều là tội lỗi, và nghĩa vụ tối cao của Cơ Đốc Nhân là phải làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời để bảo toàn mối thông công ấy. Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải “Phục theo mọi phép tắc loài người lập lên” (1Phi. 2:13; Sv. Rô. 13:1-7) nhưng một khi các phép tắc ấy nhắm đến việc ngăn trở hay phá vỡ mối thông công giữa con người với Đức Chúa Trời thì chúng ta được quyền “Hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín” (1Phi. 4:19). “Làm lành” được nói đến ở đây chính là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời; là vâng theo sự bày tỏ của Ngài trong Kinh Thánh, được hiểu một cách hợp Kinh Thánh. Giữ vững mối thông công với Đức Chúa Trời bằng sự nhóm lại chính là “Làm lành”: “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (Hê. 10:25). Giữ vững mối thông công với Đức Chúa Trời bằng sự nhóm lại cũng còn là yêu thương, là góp phần xóa bỏ đau thương trên thế gian này vì “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Công. 4:12). Gương sáng cho chúng ta noi theo là các vị Sứ Đồ, họ đã “41Hớn hở về mình đã được kể là xứng đáng chịu nhục về Danh Đức Chúa Jêsus. 42Ngày nào cũng vậy, tại trong Đền Thờ hoặc từng nhà, Sứ Đồ cứ dạy dỗ rao truyền mãi về Tin Lành của Đức Chúa Jêsus, tức là Đấng Christ” (Công. 5:41-42). Như vậy, thái độ “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” chính là phẩm hạnh của mọi phẩm hạnh mà chỉ các Cơ Đốc Nhân mới có thể có được. III. NGÀI QUI ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC TÔN GIÁO “Nơi nào có hai, ba người” (Ma. 18:20) Thế gian vẫn thường “Nghịch với Đức Thánh Linh hoài”, họ luôn luôn muốn “Làm hư đường thẳng của Chúa” (Công. 7:51; 13:10) bằng các qui định về sự tổ chức tôn giáo nhiều khi rất ngang ngược. Đối với Đức Chúa Trời, qui định về tổ chức tôn giáo của Ngài lấy sự hiệp một làm xuất phát điểm và cũng là đích điểm. 1. Xuất phát điểm của “Pháp Lệnh Tôn Giáo” của Đức Chúa Trời là ở đức tin hiệp một của Dân Ngài. Không thể tìm thấy sự hiệp một đích thực giữa vòng những người chưa được cứu, có chăng chỉ là những sự liên minh tạm thời. Đức tin hiệp một đúng nghĩa chỉ có thể có giữa vòng những người có sự ở cùng của Đức Thánh Linh “Tức là Thần Lẽ Thật, mà thế gian không nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài” (Gi. 14:17). Đức tin sự sống đặt nơi Đức Chúa Jêsus Christ không có được nhờ trí khôn của loài người mà là bởi ơn của Đức Chúa Trời (Sv. Ma. 16:17). Sự hiện diện thuộc linh của Đức Chúa Trời chỉ hiển thị giữa vòng những chủ thể thuộc linh (Sv. Gi. 4:24) là những con người có quyền năng Thánh Linh mà lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho họ là “Hễ điều gì các ngươi buộc ở dưới đất thì cũng sẽ buộc ở trên trời, và điều gì mà các ngươi mở ở dưới đất thì cũng sẽ mở ở trên trời” (Ma. 18:18; Sv. Ma. 16:19). Bất cứ khi nào số lượng của những người như thế nhiều hơn một người thì họ được kể là Hội Thánh mà ý định đời đời của Đức Chúa Trời là “Các cửa Âm Phủ chẳng thắng được Hội đó” (Ma. 16:18). Đức Chúa Trời nhấn mạnh về sự hiệp một bằng cách đòi hỏi phải có hai ba, người “Nhân danh” Ngài nhóm nhau lại. Đức Chúa Trời không hề đòi hỏi số lượng vì Ngài chỉ phán rằng “Nơi nào có hai, ba người” nhân danh Ngài nhóm nhau lại thì Ngài hiện diện cùng họ. Nếu số lượng không phải là sự quan tâm trước hết của Đức Chúa Trời, và - theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời - nếu yêu cầu duy nhất để thành lập Hội Thánh là đức tin hiệp một đặt nơi Ngài; tại sao Hội Thánh của Đức Chúa Trời phải chịu những sự ràng buộc về số lượng, trụ sở, thủ tục,… theo kiểu các đoàn thể thế gian do con người đặt ra và lập lên? Há chẳng phải chúng ta “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” hay sao? 2. Đích điểm của “Pháp Lệnh Tôn Giáo” của Đức Chúa Trời là giữ cho Dân Ngài được ở trong sự liên hiệp với Ngài. Ý muốn giữ mọi kẻ tin trong sự liên hiệp với Đức Chúa Trời được tìm thấy rất rõ trong lời cầu nguyện của Đức Chúa Jêsus trước khi rời thế gian để trở lại Thiên Đàng: “24Cha ôi, Con muốn Con ở đâu thì những kẻ Cha đã giao cho Con cũng ở đó với Con…26Con đã tỏ Danh Cha ra cho họ, Con lại sẽ tỏ ra nữa, để cho tình yêu thương của Cha dùng yêu thương Con ở trong họ, và chính mình Con cũng ở trong họ nữa” (Gi. 17: 24, 26). Đức Chúa Jêsus cũng hứa với chúng ta rằng “Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Gi. 14:3). Ngài cũng không để chúng ta phải bơ vơ giữa khi Ngài tạm biệt thế gian với lúc Ngài tái lâm: “16Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên Ủi khác, để ở với các ngươi đời đời… 18Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu…” (Gi. 14:16, 18). Chừng nào chúng ta còn biết chấp nhận giá phải trả để bảo đảm và duy trì sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đời sống của chúng ta qua việc giữ vững sự nhóm lại nhân danh Ngài thì chúng ta vẫn cứ còn là “con có cha” chứ không phải là “con mồ côi”, vẫn không ai có thể ức hiếp chúng ta vượt quá giới hạn cho phép của Cha Thiên Thượng được (Sv. Hê 13:6). Đức Chúa Trời muốn những người tin theo Ngài có nhau, và trong khi họ có nhau, họ cũng có được Ngài, ngay cả khi hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt! Đó chính là điều mà các bạn của Đaniên đã kinh nghiệm. Đó cũng là điều khiến cho một kẻ chống nghịch Đức Chúa Trời thuộc loại thượng hạng như vua Nêbucátnếtsa đã phải nhìn nhận rằng “Nầy, ta thấy bốn người không có bị trói, bước đi giữa lửa mà chẳng bị thương; và hình dung của người thứ tư giống như một con trai của các thần”, và rồi đã phải ra quyết định rằng “Bất kỳ dân nào, nước nào, thứ tiếng nào, hễ có người nói xấu đến Đức Chúa Trời của Sađơrắc, Mêsác, và AbếtNêgô, thì sẽ bị phân thây, nhà nó sẽ phải thành ra đống phân, vì không có thần nào khác có thể giải cứu được thể nầy” (Đa. 3:25, 29). Vì nước của các Cơ Đốc Nhân “Chẳng phải thuộc thế gian này” (Gi. 18:36) nên các hiến chế của thế gian không sao phù hợp với lợi ích tôn giáo của chúng ta được. Chúng ta không lấy làm lạ khi phải đối diện với các qui định ngang ngược của thế gian nhằm ràng buộc đức tin của chúng ta. Dầu vô thức hay hữu thức, tất cả những ràng buộc ấy đều là sự bộc lộ của lòng thù hận của Satan cùng những kẻ mà nó đang cầm tù nhắm vào Đức Chúa Trời và Dân Ngài. Chính vì thế mà Đức Chúa Jêsus đã bảo trước cho chúng ta rằng “Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và Ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi” (Gi. 15:19). Dầu vậy, Đức Chúa Jêsus không muốn chúng ta bị rúng động; Ngài phán: “Ta bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong Ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, Ta đã thắng thế gian rồi!” (Gi. 16:33). Đức Chúa Jêsus “Đã thắng thế gian rồi” nên nhờ đó chúng ta cũng sẽ thắng thế gian nữa “Vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta” (1Gi. 5:4). Chúng ta chỉ thực sự có đức tin nếu trong mọi hoàn cảnh chúng ta biết chấp nhận giá phải trả để thực hiện “Pháp Lệnh Tôn Giáo” của Đức Chúa Trời hầu bảo đảm mối quan hệ với Ngài, duy trì sinh hoạt mà Ngài đòi hỏi, và giữ vững Hội Thánh của Ngài. Đối với bất cứ điều gì đi ngược lại “Pháp Lệnh Tôn Giáo” của Đức Chúa Trời, nguyên tắc hành động của chúng ta là “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta”. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“VƯỜN XUÂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” (Nhã. 4:16) “Hỡi gió Bắc, hãy nổi dậy, hỡi gió Nam, hãy thổi đến;_Hãy thổi trong Vườn tôi, hầu cho các mùi thơm nó bay ra! _Nguyện Lương Nhân tôi vào trong Vườn Người,_Và ăn các trái ngọt ngon của Người.” (Nhã. 4:16) Vườn Xuân luôn luôn là một hình ảnh đẹp trong văn học cũng như trong thực tiễn. Sinh thái vườn là một loại hình sinh thái rất được ưa chuộng hiện nay. Vườn có khả năng giúp đem con người đến gần với thiên nhiên, cảm nhận được chân giá trị của tạo vật, chiêm nghiệm được ý nghĩa thuộc linh cũng như tinh thần của cuộc sống… Ngôn ngữ Kinh Thánh vẫn thường dùng hình ảnh “Vườn” để làm biểu tượng cho Hội Thánh của Đức Chúa Trời: “Hỡi gió Bắc, hãy nổi dậy, hỡi gió Nam, hãy thổi đến;_Hãy thổi trong Vườn tôi, hầu cho các mùi thơm nó bay ra!_Nguyện Lương Nhân tôi vào trong Vườn Người,_Và ăn các trái ngọt ngon của Người” (Nhã. 4:16). Một khi Kinh Thánh so sánh Hội Thánh của Đức Chúa Trời với “Vườn” thì Cơ Đốc Nhân sẽ là “Cây” trong “Vườn”, và các phẩm chất thuộc linh, tinh thần trong đời sống của Cơ Đốc Nhân sẽ được đồng hóa với “Trái” (Sv. Gal. 5:22-23). Cách nhìn nhận này của Đức Chúa Trời đòi hỏi ở Cơ Đốc Nhân một sự ngưỡng vọng tương ứng. I. PHẢI NGƯỠNG VỌNG NƠI ĐÂU? Tùy theo thái độ đáp ứng, Nhã. 4:16 có thể là một lời mời gọi reo vui, nhưng cũng có thể là lời tự tình trăn trở của một tâm hồn còn nhiều vướn bận đối với việc đáp ứng theo ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus. Trong mọi trường hợp, tất cả đều phải nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời; và trong mọi trường hợp, một tâm hồn chân chính phải biết cất tiếng mời gọi: “Hỡi gió Bắc… hỡi gió Nam…” (C. 16a) Dầu thuận, dầu nghịch, mục vụ của Đức Thánh Linh vẫn luôn vận hành giữa vòng Hội Thánh của Ngài. “Vườn” là Hội Thánh của Đức Chúa Trời để sanh bông trái với các hương hoa theo ý muốn Ngài. Các loại “Cây” trong “Vườn” của Đức Chúa Trời rất đa dạng và phong phú theo chương trình hoàn hảo của Ngài. “Vườn” của Đức Chúa Trời không bao giờ là hoang mạc mạc cả. Trong “Vườn” của Đức Chúa Trời, có thể là các loại cây không đồng đều nhau nhưng điều chắc chắn là “Vườn” Ngài không hề thiếu Ân Điển của Ngài! Trong “Vườn” của Đức Chúa Trời, luôn luôn có các ân tứ Thiên Đàng của nắng, mưa, sương, gió,… từ quyền phép và ý chỉ đời đời của Ngài. Đây là lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho Cơ Đốc Nhân chân thực: “Đức Giêhôva sẽ cứ dắt đưa ngươi, làm cho ngươi no lòng giữa nơi khô hạn lớn; làm cho cứng mạnh các xương ngươi, ngươi sẽ như vườn năng tưới, như nước chẳng hề khô vậy” (Ês. 58:12). Tuy nhiên, bởi ý định tốt đẹp của Đức Chúa Trời, không phải chúng ta luôn luôn thấy được sự hiện diện của các kết quả của Ân Điển Ngài trong Hội Thánh. Mùi hương trong “Vườn” của Đức Chúa Trời vẫn chưa phải là hoàn toàn có khả năng làm ngất ngây, quyến rũ. Trong “Vườn” của Đức Chúa Trời vẫn thấy “Trái” lác đác khắp đó đây nhưng không phải tất cả đều mượt mà và đã đã chín mùi. Thực tế cho chúng ta thấy rằng trong Hội Thánh, các linh hồn vẫn đang sống, nhưng không phải tất cả đều tỏa sáng (Sv. Ma. 5:14). Hội Thánh vẫn có sự sống của mình, nhưng không phải luôn luôn là một sự sống dư dật (Sv. Gi. 10:10). “Gió” là một trong các biểu tượng của Đức Thánh Linh và về công việc của Đức Thánh Linh. Người có đức tin nơi quyền năng của Đức Chúa Trời không được phép bi quan mà phải tin tưởng vào chương trình “tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2). Cơ Đốc Nhân chân chính không nên có thái độ kiêu ngạo thuộc linh mà phải hạ mình, khiêm nhường, luôn luôn biết nương cậy vào Ân Điển Thiên Thượng. Nắng mưa là việc của Đức Chúa Trời, sống thuận theo mưa nắng mới là việc của người tin theo Ngài. Mọi tín hữu trong Hội Thánh phải biết đặt mình dưới Ân Điển của Đức Chúa Trời, nhạy bén trong việc để cho quyền năng của Ngài biến đổi mình. Trong Hội Thánh, không có cá nhân nào có thể tạo ra các loại “gió” cần thiết để có thể thổi tan các yếu tố làm trở ngại cho sự tỏa hương giữa vòng Bầy Chiên của Đức Chúa Trời. Các chương trình, các biện pháp, các kỹ thuật,… là do con người thực hiện nhưng sự tác động và kết quả là duy nhất thuộc về Đức Chúa Trời (Sv. 1Cô. 5:3-8). Cơ Đốc Nhân chân chính phải biết gọi “Gió” và đón “Gió” để biến đổi đời sống thuộc linh của mình. II. PHẢI NGƯỠNG VỌNG NHƯ THẾ NÀO? “Hỡi gió Bắc, hãy nổi dậy, hỡi gió Nam, hãy thổi đến;_Hãy thổi trong Vườn tôi, hầu cho các mùi thơm nó bay ra!...” (C. 16a-b) Thật bất ngờ! Cả gió Bắc và gió Nam đều khắc nghiệt như nhau. Gió Bắc thường đem đến giá rét và lụt lội, rất khắc nghiệt đối với mùa màng, là tác nhân của tai họa (Sv. Gióp 38:22-23; Châm. 25:23). Tương tự như thế, gió Nam thường đi cặp với bão (Sv. Gióp 37:9), làm cho đời sống trở nên khó khăn, bất cập… Dầu vậy, cả gió Bắc và gió Nam được mời gọi đến với “Vườn” của Đức Chúa Trời, đến với Hội Thánh của Ngài! Cầu khẩn cho có gió Bắc, gió Nam đồng nghĩa với cầu khẩn cho có tai họa. Linh hồn của Cơ Đốc Nhân, nếu quả thật là Cơ Đốc Nhân chân chính, phải biết sẵn sàng đón nhận bất cứ điều gì mà Đức Chúa Trời đẹp ý gửi đến trong đời sống mình; phải biết xem tai ương, thử thách cũng vẫn là một bộ phận trong toàn bộ chương trình tốt đẹp của Đức Chúa Trời dành cho đời sống của kẻ tin cậy, kính yêu Ngài: “Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn” (Gia. 1:2). “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định” (Rô. 8:28). Valais ở Thụy Sĩ là một vùng núi rất đẹp, hàng năm đều thu hút được một lượng khách du lịch rất lớn đến với nơi này. Valais được tạo thành bởi nhiều hẽm núi liên thông nhau, và nổi tiếng là có bầu không khí rất trong lành, ai cũng thích đến để thưởng thức, nhất là từ mùa Xuân sang mùa Hè. Tuy nhiên, điều mà người dân vùng này trông mong nhất là những cơn gió Bắc dữ dội của mùa Đông. Kinh nghiệm cho người dân ở đây biết rằng nếu thiếu những cơn gió Bắc ấy sơn lam, chướng khí tích tụ trong các hẽm núi sẽ không bị trục xuất hết, và rồi khi mùa Xuân về, không khí không thể trong lành như mong muốn được. Thử thách, tai ương, hoạn nạn trong đời sống cá nhân là cơ hội cho mỗi người nương cậy quyền năng Đức Chúa Trời để tự rèn luyện cho mình mạnh hơn, nhanh hơn, cao hơn, hiệu quả hơn cho Đức Chúa Trời. Bất đồng, trục trặc, ngay cả bất hòa, xung đột xảy ra trong Hội Thánh cũng không phải là một điều luôn luôn xấu. Đó chính là những cơn gió Bắc, gió Nam được phép xảy ra trong sự tể trị của Đức Chúa Trời để Dân Ngài tập sống theo ý muốn của Ngài. Vấn đề không phải ở chỗ nan đề là gì, điều mà Đức Chúa Trời quan tâm là việc Dân Ngài xử lý các nan đề ra sao và họ kết quả như thế nào cho sự vinh hiển của Ngài. Các trục trặc, thử thách trong đời sống thuộc linh cá nhân và Hội Thánh là những cơn gió Bắc, gió Nam phải có; thế nhưng ảnh hưởng êm dịu, ngọt ngào từ sự dạy dỗ của Lời Kinh Thánh cũng là điều không thể thiếu. Chỉ khi nào ảnh hưởng của Ân Điển Thiên Thượng tạo ra sự thịnh vượng thuộc linh trên đời sống người tin thì sự thịnh vượng ấy mới được bền vững. Chỉ khi nào sự khát khao của người tin ấp ủ được những gì Đức Chúa Trời chọn lựa thì sự thịnh vượng thuộc linh của họ mới đúng hướng theo cách nhìn nhận của Ngài. Gió Bắc, gió Nam đến với đời sống người tin làm dấy lên nhu cần về sự hiện diện thường xuyên của một lực điều chỉnh cho đời sống thuộc linh của họ. Lực ấy phải hành động như những qui luật thuộc linh; phải thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra, điều khiển, thúc ép cho ý nghĩ, lời nói, hành động của người tin phù hợp theo sự dạy dỗ của Lời Kinh Thánh. Khó khăn trên bước đường theo Chúa là điều không sao tránh khỏi nhưng đắc thắng trong Ngài để đời sống thuộc linh thăng hoa, tỏa hương là điều được Đức Chúa Trời đòi hỏi và người tin phải biết mong đợi: “14Song tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài làm cho chúng tôi được thắng trong Đấng Christ luôn luôn, và bởi chúng tôi, Ngài rải mùi thơm về sự nhận biết Ngài khắp chốn!15Vì chúng tôi ở trước mặt Đức Chúa Trời là mùi thơm của Đấng Christ, ở giữa kẻ được cứu, và ở giữa kẻ bị hư mất: 16Cho kẻ nầy, mùi của sự chết làm cho chết; cho kẻ kia, mùi của sự sống làm cho sống. Ai xứng đáng cho những sự nầy?” (2Cô. 2:14-16). III. PHẢI NGƯỠNG VỌNG ĐIỀU GÌ? Tỏa ngát hương thơm về tình yêu cứu chuộc của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ bằng bông trái trong đời sống cá nhân của mình để được Ngài chuẩn thuận là điều mà mọi Cơ Đốc Nhân chân chính không bao giờ được phép quên: “Nguyện Lương Nhân tôi vào trong Vườn Người,_Và ăn các trái ngọt ngon của Người” (16c). Niềm khát khao tột độ mà Cơ Đốc Nhân cần phải có là được Đức Chúa Jêsus chuẩn thuận. Đối với người thực sự đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Jêsus, không có gì cao cả và ưu tiên hơn là sống làm đẹp ý Đức Chúa Trời: “6Vậy, chúng ta hằng đầy lòng tin cậy, và biết rằng khi chúng ta đang ở trong thân thể nầy thì cách xa Chúa 7- vì chúng ta bước đi bởi đức tin chứ chẳng phải bởi mắt thấy. - 8Vậy tôi nói, chúng ta đầy lòng tin cậy, muốn lìa bỏ thân thể nầy đặng ở cùng Chúa thì hay hơn. 9Cho nên chúng ta dầu ở trong thân thể nầy, dầu ra khỏi, cũng làm hết sức để được đẹp lòng Chúa. 10Bởi vì chúng ta thảy đều phải ứng hầu trước Tòa Án Đấng Christ, hầu cho mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt” (2Cô. 5:6-10). Đó là sự thật và là một hoài bão chân chính! Đối với một tấm lòng đã thực sự được đổi mới, người ta sẽ không còn thấy cần thiết phải có được sự hoan nghênh của bất cứ ai ngoài một mình Đức Chúa Trời. Được làm “trái ngọt ngon” để được Đức Chúa Trời chuẩn thuận là tất cả vấn đề, được con người “hoan hô” hay bị “đả đảo” chỉ còn là chuyện nhỏ: “3Về phần tôi, hoặc bị anh em xử đoán, hoặc bị tòa án nào của loài người xử đoán, tôi cũng chẳng lấy làm quan hệ gì. Chính tôi chẳng tự xử đoán mình nữa; 4vì tôi chẳng thấy mình có điều gì đáng tội, nhưng tôi cũng không nhờ sự đó mà được xưng là công bình: Đấng xử đoán tôi, ấy là Chúa” (1Cô. 4:3-4). “Vườn” của chúng ta cũng chính là “Vườn” của Đức Chúa Trời vì Hội Thánh của chúng ta là Hội Thánh của Ngài. Đức Chúa Trời vẫn hằng làm những gì cần thiết cho “Vườn” của Ngài thịnh vượng. Tuy nhiên, chúng ta thấy “Vườn” của Ngài vẫn chưa xinh đẹp như điều Ngài mong mỏi. Phận sự của mỗi người chúng ta là phải biết gọi “Gió” và đón “Gió” đến từ chính Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải đặt mình dưới sự rèn tập của Đức Chúa Trời hầu cho đời sống chúng ta có thể sản sinh ra những bông trái được Ngài đẹp ý thu hoạch cho sự vinh hiển của Ngài: “Hỡi gió Bắc, hãy nổi dậy, hỡi gió Nam, hãy thổi đến;_Hãy thổi trong Vườn tôi, hầu cho các mùi thơm nó bay ra!_Nguyện Lương Nhân tôi vào trong Vườn Người,_Và ăn các trái ngọt ngon của Người” (Nhã. 4:16) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“VÌ SAO ĐIỀU XẤU LẠI XẢY RA CHO NGƯỜI TỐT” (Lu. 13:1-5) “…Nhưng nếu các ngươi chẳng ăn năn, thì hết thảy cũng sẽ bị hư mất như vậy.” (Lu. 13:5b) Chúng ta vẫn thường tự hỏi “Vì sao điều xấu lại có thể xảy ra cho người tốt?”, và có vẻ như vấn đề không thể được xử lý chỉ bằng một câu trả lời là xong. Có nhiều nguyên nhân khiến nảy sinh điều xấu … Mỗi trường hợp lại mang tính “đặc thù” của riêng nó, có nguyên nhân và tác nhân riêng của nó. Để có thể nhìn nhận vấn đề này một cách hợp Kinh Thánh, chúng ta cần phải nhờ đến sự soi rọi của Lời Kinh Thánh. I. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ VIỆC XẤU CỦA CHÍNH BẢN THÂN (Dân. 12:1-16) Chúng ta đều biết chuyện Môise lãnh đạo Dân Ysơraên rời khỏi Ai Cập qua một hành trình dài 40 năm trong sa mạc trước khi họ đến được Đất Hứa. Arôn và Miriam đã được Đức Chúa Trời sử dụng để hợp tác với Môise trong những năm gian truân ấy. Dẫu vậy, đã có một lý do nào đó khiến Miriam không còn kính trọng Môise nữa: “Miriam và Arôn nói hành Môise về việc người nữ Êthiôbi mà người đã lấy, vì người có lấy một người nữ Êthiôbi làm vợ” (Dân. 12:1) Tuy nhiên, “việc xấu” không dừng lại ở đó, Miriam tiến xa hơn qua việc đã bàn cùng anh là Arôn về những điều có liên quan đến thánh chức… “Hai người nói rằng: Đức Giêhôva há chỉ dùng một mình Môise mà phán sao? Ngài há không dùng chúng ta mà phán nữa sao? Đức Giêhôva nghe điều đó” (Dân. 12:2). “Việc xấu” không thể sinh ra điều tốt được, “việc xấu” chỉ có thể sinh ra “điều xấu”, mà thường thường lại là điều xấu hơn “việc xấu” đã có trước: “Khi trụ mây rút khỏi trên Đền Tạm, thì kìa, Miriam đã bị phung trắng như tuyết. Arôn xây lại phía Miriam, thấy người đã có bịnh phung” (Dân. 12:10). Việc Miriam phải gánh chịu “điều xấu” (của “việc xấu” của mình) do sự quở phạt của Đức Chúa Trời là một Lẽ Thật Kinh Thánh hiển nhiên. Lẽ Thật Kinh Thánh này thường dẫn đến hai sự ngộ nhận sau đây: (1) Thứ nhất, từ “việc xấu” này của Miriam người ta cho rằng Miriam là “người xấu”; (2) Thứ hai, “việc xấu” là nguyên nhân duy nhất khiến cho “điều xấu” xảy ra! Thật ra, Kinh Thánh cho thấy còn nhiều “lý do” khác khiến cho điều xấu xảy ra… II. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ VIỆC XẤU CỦA THA NHÂN (Giôna 1:1-16) Giôna là một Tiên Tri Cựu Ước, là người đã được Đức Chúa Trời sai đến thành Ninive để giảng Tin Lành cho dân thành ấy. Tuy nhiên, Ninive là Thủ Đô của người Asyri, kẻ thù của Dân Tộc Ysơraên, và theo nhận thức của Giôna, họ không đáng nhận Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Giôna đã mắc một sai lầm căn bản đối với ý chỉ của Đức Chúa Trời: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Gi. 3:16). “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết Lẽ Thật” (1Ti. 2:4). “Hãy giảng Đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (2Ti. 4:2). Theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, “kẻ dữ” cần phải được nghe Tin Lành cứu rỗi của Ngài, và đó là phận sự của đầy tớ Ngài. Ấy vậy mà Giôna đã đến Giaphô, đáp tàu đi Tarêsi “đặng trốn” mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. “Nhưng Đức Giêhôva khiến gió lớn thổi trên biển; trên biển có trận bão lớn, chiếc tàu hầu vỡ” (Giôna 1:4). Tuy nhiên, Giôna “xuống dưới lòng tàu, nằm và ngủ mê” (Giôna 1:5) còn cả tàu phải chịu tai vạ của cơn bão! Dầu vậy, nguyên nhân của “điều xấu” cũng đã được tỏ ra: Ấy là vì lỗi (“việc xấu”) của Giôna. Chính Giôna cũng biết điều ấy nữa, vì “Người trả lời rằng: Hãy bắt lấy ta, hãy ném ta xuống biển, thì biển sẽ yên lặng cho các anh; vì ta biết rằng ấy là vì cớ ta mà các anh đã gặp phải trận bão lớn này” (Giôna 1:12). “Điều xấu” đến vì “việc xấu” của người khác làm, nhưng không phải mọi trường hợp đều luôn luôn như thế… III. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ CÔNG KÍCH CỦA SATAN (Gióp 1:1-22) Các tai họa đến với Gióp đều không phải vì “việc xấu” Gióp đã làm… “Tại trong xứ Útxơ có một người tên là Gióp; người ấy vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” (Gióp 1:1). Đức Chúa Trời luôn đẹp ý về người công bình của Ngài và Satan luôn bất mãn với việc ấy. Một trong các danh xưng Kinh Thánh được biết của Satan là “Kẻ Kiện Cáo”, là “kẻ ngày đêm kiện cáo chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời” (Gk. kategoreo; Khải. 12:10). Satan kiện cáo Gióp trước mặt Đức Chúa Trời và Ngài đã đẹp ý để (ban quyền năng) cho Gióp chịu sự hại hành tột độ của Satan hầu cho sự trung tín của Gióp có cơ hội được minh thị và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời được bày tỏ… “Đức Giêhôva phán với Satan rằng: Nầy, các vật người có đều phó trong tay ngươi; nhưng chớ tra tay vào mình nó…” (Gióp 1:12). Chỉ riêng những “điều xấu” mới bắt đầu xảy đến với Gióp cũng đã đủ khủng khiếp lắm rồi (Gióp 1:13-19), nhưng đức trung tín của Gióp trước sau vẫn như một… “20Gióp bèn chỗi dậy, xé áo mình, và cạo đầu, đoạn sấp mình xuống đất mà thờ lạy, 21và nói rằng: Tôi trần truồng lọt khỏi lòng mẹ, và tôi cũng sẽ trấn truồng mà về; Đức Giêhôva đã ban cho, Đức Giêhôva lại cất đi; đáng ngợi khen danh Đức Giêhôva” (Gióp 1:20-21). “Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi Ngài;_Nhưng ta sẽ binh vực tánh hạnh ta trước mặt Ngài” (Gióp 13:15). Nhờ có một đức tin và sự kinh nghiệm Chúa như thế mà những lời Kinh Thánh phán về Gióp thật là tốt đẹp: “Trong mọi sự ấy, Gióp không phạm tội, và chẳng nói phạm thượng cùng Đức Chúa Trời” (Gióp 1:22). IV. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ RÈN TẬP CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (Thi. 66:8-12) Môise đã lãnh đạo Dân Ysơraên ra khỏi Ai Cập, nhưng cuộc hành trình đã diễn ra là hết sức lâu dài và gian nan dẫu rằng, xét trên phương diện địa lý tự nhiên, người ta hoàn toàn có khả năng thực hiện một chuyến đi ngắn hơn và dễ chịu hơn. Cuộc hành trình từ xứ nô lệ đến Đất Hứa đã không suông sẻ là vì đâu? “2Hãy nhớ trọn con đường nơi đồng vắng mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi đã dẫn ngươi đi trong bốn mươi năm nầy, để hạ ngươi xuống và thử ngươi, đặng biết điều có ở trong lòng ngươi, hoặc ngươi có gìn giữ những điều răn Ngài hay chăng. 3Vậy Ngài có hạ ngươi xuống, làm cho ngươi bị đói, đoạn cho ăn Mana mà ngươi và tổ phụ ngươi chưa hề biết, để khiến ngươi biết rằng loài người sống chẳng phải nhờ bánh mà thôi, nhưng loài người sống nhờ mọi lời bởi miệng Đức Giêhôva mà ra” (Phục. 8:2-3). Tình yêu thương và sự nhân từ của Đức Chúa Trời là quá đỗi lớn lao để luôn đem những người yêu mến Ngài đến với những điều tốt đẹp hơn trong bước đường họ theo Ngài (Rô. 8:28), tuy nhiên sự thử thách rèn tập để Dân Ngài mỗi ngày càng mạnh hơn, nhanh hơn, cao hơn cho sự vinh hiển của Ngài vẫn không được miễn trừ… “10Vì, Đức Chúa Trời ơi, Chúa đã thử thách chúng tôi,_Rèn luyện chúng tôi y như luyện bạc._11Chúa đã đem chúng tôi vào lưới,_Chất gánh nặng quá trên lưng chúng tôi._12Chúa khiến người ta cỡi trên đầu chúng tôi;_Chúng tôi đi qua lửa, qua nước;_Nhưng Chúa đem chúng tôi ra nơi giàu có” (Thi. 66:10-12). V. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ DẠY DỖ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (2Cô. 12:7-10) Sứ Đồ Phaolô vốn được xem như một Cơ Đốc Nhân “vĩ đại” nhất trong lịch sử Hội Thánh, là người đã được Đức Chúa Trời đại dụng để rao Tin Lành cho Dân Ngoại, thành lập Hội Thánh, và hoàn thành một bộ phận quan trọng của Kinh Thánh. Dầu vậy, vị Sứ Đồ này vẫn không tránh khỏi sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời qua những việc bất như ý, tức “điều xấu”: “7Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo. 8Đã ba lần tôi cầu nguyện xin Chúa cho nó lìa xa tôi. 9Nhưng Chúa phán rằng: Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối…” (2Cô. 12:7-9a). Thiên Đàng vẫn hằng trải thảm đỏ bằng quyền năng Thiên Thượng cho các thánh đồ của Đức Chúa Trời bước đi mỗi ngày trong tiến trình nên thánh của họ, chỉ có điều là họ phải giữ được sự trung tín trong việc vác Thập Tự Giá bước đi theo dấu chân của Thầy mình… “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (1Cô. 10:13). “9… Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi. 10Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cô. 12:9b-10). VI. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ ĐIỀU ĐỘNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (Sáng. 45:4-8) Tất nhiên là những “điều xấu” mà Giôsép phải chịu là hệ quả trực tiếp của những “việc xấu” của các anh Giôsép, nhưng vấn đề ở chỗ có bàn tay của Đức Chúa Trời đàng sau tất cả những “việc xấu” ấy để ý tốt của Ngài được hoàn thành: “Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của Dân Sự đông đảo” (Sáng. 50:20). Để có được một sự nhận thức như Giôsép, người ta cần phải biết đếm các phước hạnh của Đức Chúa Trời trong tai họa của mình, biết lấy kinh nghiệm theo Chúa đè nén nỗi đau cá nhân, biết lau sạch lớp bùn đen của những điều đau khổ phủ đầy trên mặt viên kim cương phước hạnh sáng lấp lánh những điều tốt hơn cho nhiều người hơn là sự lợi ích ích kỷ của bản thân… “5Bây giờ, đừng sầu não và cũng đừng tiếc chi về điều các anh đã bán tôi đặng bị dẫn đến xứ nầy; vì để giữ gìn sự sống các anh, nên Đức Chúa Trời đã sai tôi đến đây trước các anh. 6Kìa, hai năm rồi trong xứ đã bị đói kém, và còn năm năm nữa sẽ không có cày cấy chi, gặt hái chi được hết. 7Đức Chúa Trời sai tôi đến đây trước, đặng làm cho các anh còn nối dòng trên mặt đất, và nương một sự giải cứu lớn đặng giữ gìn sự sống cho anh em. 8Không, chẳng phải các anh sai tôi đến đây đâu, ấy là Đức Chúa Trời; Ngài dường đặt tôi làm cha Pharaôn, cai quản cả nhà người, và trị khắp xứ Êdíptô” (Sáng. 45:5-8). VII. ĐIỀU XẤU ĐẾN VÌ SỰ VINH HIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (Gi. 9:1-41) Những người hỏi Đức Chúa Jêsus về lý do nào mà một người đã mù từ khi mới sanh chắc phải ngạc nhiên nhiều trước sự trả lời của Ngài: “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Đó chẳng phải tại người hay cha mẹ đã phạm tội, nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người” (Gi. 9:3). Những việc nào là “việc của Đức Chúa Trời được tỏ ra” qua người mù này? “Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta đã đến thế gian đặng làm sự phán xét nầy: Hễ ai chẳng thấy thì thấy; còn ai thấy lại hóa mù” (Gi. 9:39). “Người trả lời rằng: Người tên gọi là Jêsus kia đã hòa bùn, xức mắt tôi, và nói rằng: hãy đi đến rửa nơi ao Silôê. Vậy tôi đi đến, rửa tại đó, rồi thấy được” (Gi. 9:11). “Bấy giờ chúng hỏi người mù nữa rằng: Còn ngươi, về người đã làm sáng mắt ngươi, thì ngươi nói làm sao? Người trả lời rằng: Ấy là một Đấng Tiên Tri” (Gi. 9:17). “25Người trả lời rằng: Tôi chẳng biết người có phải là kẻ có tội chăng, chỉ biết một điều, là tôi đã mù mà bây giờ lại sáng... 27… Tôi đã nói với các ông rồi, mà các ông chẳng nghe tôi. Cớ sao các ông muốn nghe lại lần nữa? Há cũng muốn làm môn đồ người chăng?... 33Nếu người nầy chẳng đến từ Đức Chúa Trời, thì không làm gì được hết” (Gi. 9:25, 27, 33). “Người thưa rằng: Lạy Chúa, tôi tin; bèn sấp mình xuống trước mặt Ngài” (Gi. 9:38). Dưới ánh sáng Lời Kinh Thánh, có khá nhiều khả năng cho điều xấu lại xảy ra cho người tốt. Các khả năng ấy có thể do chính bản thân, hoặc có liên quan đến tha nhân, hoặc Satan, hoặc Đức Chúa Trời. Cho dầu là do nguyên nhân nào, là con cái vâng phục và trung tín của Đức Chúa Trời, chúng ta phải lấy lòng vui vẻ thuận theo ý Chúa trên đời sống của chúng ta trong mọi điều. Chúng ta lại cũng phải biết xét nét cẩn thận để biết mình đang ở đâu và cần phải làm gì để được đẹp ý Đức Chúa Trời, được ở trong sự dắt dẫn của Ngài… “… Nhưng nếu các ngươi chẳng ăn năn, thì hết thảy cũng sẽ bị hư mất như vậy” (Lu. 13:5b) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“VIỆC ĐẦU PHỤC ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ CHỐNG TRẢ MA QUỈ” (Gia. 4:7-10) “Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em.” (Gia. 4:7) Khi mới bắt đầu việc xây dựng cầu Golden Gate bắc ngang qua vịnh San Francisco, người ta phải đối diện với một trở ngại bất ngờ: Sau khi có một số công nhân chết vì bị rơi xuống sông, một bầu không khí lo sợ tràn ngập khắp công trường. Tiến độ thi công trở nên chậm thấy rõ. Cuối cùng, một giải pháp kỹ thuật đã được thực hiện: Người ta mắc những chiếc lưới phía dưới vị trí các công nhân đang thi công. Những chiếc lưới an toàn này đã cứu sống tất cả những ai bị rơi, khiến cho mọi người đều trở nên tự tin, và công việc đã trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Đức Chúa Trời biết chúng ta theo Ngài là bước vào cuộc chiến đấu cho sự vinh hiển tối hậu của Ngài. Để chúng ta an toàn bước đi trên chiếc cầu sự sống bắc ngang qua cuộc đời bão tố này, tiến vào cõi đời đời, Đức Chúa Trời cũng đã mắc sẵn cho chúng ta tấm lưới an toàn của Ngài. Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết rõ mình phải làm gì để đối đầu với Satan khi chúng ta dấn thân cho Vương Quốc của Ngài. I. THEO CHÚA LÀ CHIẾN ĐẤU. Khi nghĩ đến những kế hoạch gian ác gặp phải trong sự xung đột với Satan và các quỉ của nó được Kinh Thánh Tân Ước cảnh báo, chúng ta cần phải nhận thức được rằng những điều ấy là tất yếu đối với các Cơ Đốc Nhân và là trận chiến thuộc linh mà mỗi người theo Chúa đều phải đối diện: “Vì chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy” (Êph. 5:12). Sở dĩ chúng ta bị mắc vào quá nhiều sự công kích của Ma Quỉ là vì chúng ta còn kém trong việc nhận thức những thực tại siêu việt của Đức Chúa Trời trong khi Satan biết rõ rằng nó đã bị đánh bại tại Thập Tự Giá và thời gian của nó không còn nhiều: “14Ngài đã xóa tờ khế lập nghịch cùng chúng ta, các điều khoản trái với chúng ta nữa, cùng phá hủy tờ khế đó mà đóng đinh trên cây thập tự; 15Ngài đã truất bỏ các quyền cai trị cùng các thế lực, dùng thập tự giá chiến thắng chúng nó, và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ” (Côl. 2:14-15). Khi phải đối diện với vấn đề xử lý sự tác động của Satan, chúng ta vẫn còn gặp một số chủ trương kêu gọi hãy làm ngơ đối với vấn đề Satan! Thậm chí chúng ta gặp cả những người dám nói trắng ra rằng cách tốt nhất để loại trừ Satan là hãy loại bỏ khái niệm ấy ra khỏi tâm trí như thể là một sự hoang tưởng, hay một huyền thoại mang tính thần học. Việc thụ động thờ ơ đối với sự thực hữu của Satan là một chủ trương có hại làm mất sức chiến đấu đối với một kẻ thù rành rành không thể nào không công nhận được: “8Hãy tiết độ và tỉnh thức: Kẻ thù nghịch anh em là Ma Quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được. 9Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình” (1Phi. 5:8-9). Chiến thắng được sự thách thức và cuộc chiến với Satan không phải là một phận sự dễ dàng! Satan là một danh thủ ném ám khí với một độ chính xác đáng kinh ngạc. Gióp, Giôsuê, Đaniên, Đavít, Phaolô,… là những nhân vật Kinh Thánh đã từng trải những kinh nghiệm đầy tính chất chứng giải rằng họ cũng chẳng phải là miễn nhiễm đối với các mưu ma, chước quỉ của một Satan có thật. Nếu ngay cả các anh hùng đức tin trong Kinh Thánh mà cũng không khỏi bị tổn thương bởi Satan, tại sao chúng ta lại hy vọng hão huyền rằng mình sẽ ít bị tổn hại hơn họ? Sự kiện điển hình sâu sắc nhất về sự táo tợn của Satan là việc nó cả gan dám cám dỗ Con Đức Chúa Trời Hằng Sống trong đồng vắng. Nếu như Satan đã trân tráo đến mức dám đến trước mặt Chúa Cứu Thế Jêsus để cám dỗ Ngài (Ma. 4:1-11), tại sao chúng ta lại dám nghĩ rằng Satan sẽ chừa chúng ta ra? “Ngươi chớ ngại điều mình sẽ chịu khổ. Này, Ma Quỉ sẽ quăng nhiều kẻ trong các ngươi vào ngục, hầu cho các ngươi bị thử thách; các ngươi sẽ bị hoạn nạn trong mười ngày. Khá giữ trung tín cho đến chết, rồi Ta sẽ ban cho ngươi mão triều thiên của sự sống” (Khải. 2:10). Lúc nào Satan cũng muốn khiến cho chúng ta không hoàn thành được mục đích đời sống mà Đức Chúa Trời đã định cho mỗi người. Satan không bao giờ muốn thấy chúng ta sử dụng được quyền năng của Đức Chúa Trời để thắng vượt các sự công kích của nó để rồi chúng ta cứ mãi ở trong sự thất bại, sự ràng buộc của nó. Chính đây là nguyên do khiến Satan ngày đêm công kích các Cơ Đốc Nhân, nhất là những người đang đứng ở tuyến đầu của trận chiến. II. THEO CHÚA SẼ CHIẾN THẮNG. Mặc dầu chúng ta sẽ chẳng bao giờ hoàn toàn được vô sự trước các sự công kích của Satan, vẫn có nhiều điều có thể giúp cho chúng ta tự bảo vệ mình, tránh không để bị mù mắt đứng trơ ra làm bia ngắm cho Satan bắn vào tùy thích! Có sáu điều chúng ta có thể thực hiện để nhận được sự bảo vệ Thiên Thượng trong trận chiến thuộc linh, giảm thiểu các nguy cơ bị tổn thương bởi kẻ thù này, và rồi sẽ đạt đến chiến thắng chung cuộc trong Đức Chúa Jêsus. Thứ nhất, chúng ta phải bước đi trong sự vâng lời Đức Chúa Trời: “Hãy phục Đức Chúa Trời” (C. 7a; 8a). Tiếc thay, có một số người không xem đây là sự kêu gọi dành cho chính mình. Sự vâng lời Đức Chúa Trời là điều hệ trọng nhất. Trong trận chiến thuộc linh, người ta dễ dàng bị cuốn hút vào các sự cám dỗ của Ma Quỉ, không còn tỉnh táo để nhận biết tác giả đích thực của những lôi cuốn ấy là ai. Phương cách hiệu quả nhất để khỏi bị trôi giạt vào một sự sai lạc như thế là cứ giữ mình trong sự vâng lời Đức Chúa Trời: “Đức Giêhôva há đẹp lòng của lễ thiêu và của lễ thù ân bằng sự vâng theo lời phán của Ngài ư? Vả, sự vâng lời tốt hơn của tế lễ; sự nghe theo tốt hơn mỡ chiên đực” (1Sa. 15:22). Bằng sự vâng lời, chúng ta đáp ứng được sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời. Sự vâng lời thuộc linh của chúng ta khiến cho Đức Chúa Trời hoàn thành được các mục đích của Ngài. Nhất thiết chúng ta phải bước đi trong sự vâng lời Ngài. Thứ hai, mỗi ngày chúng ta phải mặc lấy khí giới của Đức Chúa Trời để có thể chống trả lại Ma Quỉ: “Hãy chống trả Ma Quỉ” (C. 7b). Thật đáng sợ biết bao khi nhìn thấy có nhiều Cơ Đốc Nhân sống mà không hề bận tâm gì đến việc trang bị cho mình các vũ khí thuộc linh. Một phần nguyên nhân của sự hờ hững ấy là do sự yên trí rằng sự quan phòng Thiên Thượng là một sản phẩm thuần túy của Đức Chúa Trời, không hề cần phải có sự đáp ứng của con người! Vũ khí thuộc linh không phải chỉ là những món phụ tùng tùy chọn (Sv. Êph. 6:13)! Những ai dám quan niệm tùy tiện như thế là đang đùa với sự rủi ro. Sứ Đồ Phaolô cho biết rằng “Tôi chết hằng ngày” (1Cô. 15:31). Việc mặc lấy mọi khí giới thuộc linh đồng nghĩa với việc mỗi ngày dâng trọn đời sống mình cho quyền làm Chúa của Đức Chúa Jêsus: “3Chúng tôi dầu sống trong xác thịt, chớ chẳng tranh chiến theo xác thịt. 4Vả, những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy: 5Nhờ khí giới đó chúng tôi đánh đổ các lý luận, mọi sự tự cao nổi lên nghịch cùng sự hiểu biết Đức Chúa Trời, và bắt hết các ý tưởng làm tôi vâng phục Đấng Christ” (2Cô. 10:3-5). Đừng nên cố hình dung cho ra thế nào là “dây nịt lưng”, thế nào là “giáp”, thế nào là “giày dép”,… nhưng rồi không thực hành gì cả. Mỗi buổi sáng khi thức dậy, ngay từ ý nghĩ đầu tiên trong ngày, chúng ta hãy quyết tâm dâng mình cho ý muốn của Đức Chúa Trời, cứ ước nguyện vâng lời Ngài. Chúng ta “Lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời” khi mỗi ngày chúng ta biết chọn bước theo sự nhận biết về sự hiện diện và mục đích của Đức Chúa Trời trên đời sống của mình để mỗi ngày sống của chúng ta đều được bền chặt trong ý chỉ tốt đẹp của Ngài. Thứ ba, phải có trách nhiệm thuộc linh đối với đời sống mình và đối với các tín hữu khác: “Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi” (C. 8b). Một trong những thói quen có hại của các Cơ Đốc Nhân là chỉ muốn sống theo một cái gì đó dài hạn nhưng rất mơ hồ và vô tình. Chính một tinh thần như thế đã lén mở cửa cho Satan vào trú ẩn trong đời sống của người theo Chúa. Dầu rằng chúng ta được quyền sắp xếp công việc theo tầm nhìn của mình, chúng ta phải luôn luôn nhận biết rằng tầm nhìn của chúng ta rất hạn chế. Chúng ta phải biết lắng nghe các tín hữu khác, biết theo sự khuyên dạy của Hội Thánh, nhất là theo sự khuyên dạy của Lời Kinh Thánh. Nếu nhắm mắt lao theo các mục tiêu mình vạch ra mà không để ý đến những điều ấy, chúng ta rất dễ trở thành miếng mồi ngon cho Ma Quỉ. Không thể nào nhận biết mình là “có tội”, là “hai lòng” để có thể “lau tay”, “làm sạch lòng” nếu thiếu ý thức trách nhiệm thuộc linh. Chúng ta chỉ có thể duy trì được ý thức trách nhiệm thuộc linh đối với đời sống riêng của mình nếu chúng ta biết giữ mình trong mối tương liên với các tín hữu khác: “24Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành; 25chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau…” (Hê. 10:24-25a). Thứ tư, phải thiết lập một hệ thống chống đỡ bằng sự cầu nguyện: “Hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc” (C. 9a). Không thể có bất cứ điều gì có được giá trị đời đời mà thiếu sự cầu nguyện. Tất cả các sự thất bại của Cơ Đốc Nhân đều khởi đầu từ thất bại trong sự cầu nguyện: “2Anh em tham muốn mà chẳng được chi; anh em giết người và ghen ghét mà chẳng được việc gì hết; anh em có sự tranh cạnh và chiến đấu; anh em chẳng được chi vì không cầu xin. 3Anh em cầu xin mà không nhận lãnh được, vì cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục mình” (Gia. 4:2-3). Tại sao linh hồn chúng ta yếu đuối, chai cứng, không nhận biết được thực trạng của mình, không thấy được viễn cảnh Thiên Đàng? Ấy là vì linh hồn chúng ta không được luyện tập thỏa đáng. Sự cầu nguyện là sân vận động của linh hồn. Chỉ những linh hồn nào chịu bước vào đó, khổ công luyện tập thì đời sống thuộc linh mới được phát triển đầy đủ, phong phú mà thôi. Chỉ những linh hồn nào chịu bước vào đó, tra xét đến từng chi tiết của đời sống mình và chương trình của Đức Chúa Trời mới tiến dần từ chỗ “con đỏ” đến chỗ “thành nhân” để sống làm đẹp ý Đức Chúa Trời: “Hãy kêu cầu Ta, ta sẽ trả lời cho; Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và khó, là những việc ngươi chưa từng biết”(Giê. 33:3). Thứ năm, phải dám chấp nhận sự mạo hiểm trong đời sống đức tin: “Hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn” (C. 9b). Đây cũng là một bước đi bị nhiều Cơ Đốc Nhân cố tình bỏ qua vì nghĩ rằng dấn thân vào sự mạo hiểm thuộc linh là điều đáng nên tránh! Suy nghĩ như thế là sai, vì sự kêu gọi của Đức Chúa Trời đối với chúng ta là như thế này: “Hỡi anh em, về sự khôn sáng, chớ nên như trẻ con; nhưng về sự gian ác, thật hãynên như trẻ con vậy. Còn về sự khôn sáng, hãy nên như kẻ thành nhân” (1Cô. 14:20); “Vậy những kẻ chịu khổ theo ý muốn của Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín” (1Phi. 4:19). Thứ sáu, chúng ta phải hết sức khiêm nhường: “Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (C. 10a). Lời Kinh Thánh này bày tỏ cho chúng ta thấy rằng đức khiêm nhường là một sự đòi hỏi Thiên Thượng và là một đức hạnh làm cho Cơ Đốc Nhân trở nên đáng quí. Không thể nào là Cơ Đốc Nhân chân chính mà lại thiếu sự khiêm nhường: “Hỡi người! Ngài đã tỏ cho ngươi điều gì là thiện; cái điều mà Đức Giêhôva đòi hỏi ngươi há chẳng phải là làm sự công bình, ưa sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời ngươi sao?” (Mi. 6:8). Sự kiêu ngạo chính là chất độc làm chết người đã khiến cho Luxiphe đã phải từ trời sa xuống như tia chớp (Sv. Ês. 14:12-15; Lu. 10:18). Đó là lý do khiến “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Phi. 5:5). Như vậy, cần phải nhớ rằng để “Chống trả Ma Quỉ”, chúng ta phải đặt mình trong tình trạng không bị “Đức Chúa Trời chống cự” mà là được Ngài “Ban ơn”; như vậy chúng ta phải khiêm nhường. Sự khiêm nhường sẽ đến khi chúng ta biết phân biệt thế nào là Đức Chúa Trời, và thế nào là Ma Quỉ. Sự khiêm nhường sẽ đến khi chúng ta nhận thức được rằng quyền lực của Satan là điều mà không bao giờ chúng ta có thể dùng sức riêng để chống trả được. Sự khiêm nhường sẽ đến khi chúng ta nhận ra được rằng quyền năng của Đức Chúa Jêsus là điều mà Satan không bao giờ có thể kháng cự được. Sự khiêm nhường Cơ Đốc là biểu hiện thực hành của sự nhận thức về quyền làm Chúa của Đức Chúa Trời và sự vâng lời trong chức phận làm con của Cơ Đốc Nhân. Hiểu được các lẽ thật thuộc linh này sẽ giúp chúng ta tiến vững chắc đến sự chiến thắng. Sứ Đồ Giacơ cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời sẽ “Nhắc anh em lên” (C. 10b), tức là Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng ta sự chiến thắng trong Đức Chúa Jêsus. Sứ Đồ Phaolô cũng bày tỏ một cách tương tự và đầy khích lệ đối với những ai trung tín trong sự đầu phục Đức Chúa Trời, bền lòng trong việc chống trả Ma Quỉ: “19Sự anh em vâng phục thì ai ai cũng biết rồi, vậy tôi vì anh em vui mừng, mong rằng anh em khôn ngoan về điều lành, và thanh sạch đối với điều dữ. 20Đức Chúa Trời bình an sẽ kíp giày đạp Quỉ Satan dưới chân anh em. Nguyền xin Ân Điển của Đức Chúa Jêsus chúng ta ở cùng anh em!” (Rô. 16:19-20). Không có điều gì khiến cho chúng ta phải ngần ngại trong việc tực hiện mệnh lệnh “Hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ” (C. 7), hãy cứ vững vàng chấp nhận những gì không thể khước từ, và khước từ những gì không thể chấp nhận! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“TAI ƯƠNG VÀ NGHĨA CỦA TAI ƯƠNG” (Lu. 13:1-5) “…Nếu các ngươi chẳng ăn năn, thì hết thảy cũng sẽ hư mất như vậy.” (Lu. 13:5) Tại sao trên đời này ai cũng phải chịu khổ? Tại sao những nỗi khổ đau cứ mãi triền miên, bất tận? Những tai ương kinh hoàng báo cho người ta biết điều gì? Có niềm hy vọng nào không?... Người Do Thái trong thời Chúa Jêsus đã từng có một sự suy luận rất tự nhiên và thường tình về vấn đề này. Thế nhưng sự suy luận ấy của họ chưa hẳn đã là đúng đắn và khôn ngoan theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời mà chúng ta có thể học biết được qua Kinh Thánh. I. PHẢI THẤY NGUYÊN NHÂN CHÍNH (C. 1-2) “1Cũng lúc ấy, có mấy người ở đó thuật cho Đức Chúa Jêsus nghe về việc Philát giết mấy người Galilê, lấy huyết trộn lộn với của lễ họ. 2Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Các ngươi tưởng mấy người đó vì chịu khốn nạn dường ấy, có tội lỗi trọng hơn mọi người Galilê khác sao?” (Lu. 13:1-2) Khi chúng ta thấy bất cứ sự khổ đau nào, dầu đó là bệnh tật hay đau đớn của thân xác, hoặc một biến cố bất thường, chúng ta đều có thể yên tâm mà nói rằng có căn nguyên tội lỗi trong đó. 1. Tội Lỗi Luôn Luôn Dẫn Đến Khổ Đau (Gia. 1:15; Sáng. 3:17-19). Chiều hướng chung của mọi tội lỗi là dẫn đến sự khổ đau. Tội lỗi chứa trong mình nó mầm của sự yếu đuối, của suy thoái, của phân hủy. Khi tiến trình diễn biến của tội lỗi đã đầy đủ, sự chết đến: “Tội ác đã trọn, sanh ra sự chết” (Gia. 1:15; “tội ác” E Gk. hamartia, tội lỗi); Hậu quả của tội lỗi vừa nghiêm trọng, vừa toàn diện, vừa phổ cập: “17Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. 18Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; 19ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi” (Sáng. 3:17-19). Tội lỗi đem lại khổ đau, một khi tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian này rồi, không một ai tránh thoát được. Tội lỗi luôn luôn mang đến án phạt phù hợp theo bản chất của nó. Nếu không có sự can thiệp đặc biệt của Ân Điển Thiên Thượng bởi sự nhân từ của Đức Chúa Trời, hậu quả của tội lỗi nhất định sẽ phải đến vào đúng thời điểm. 2. Không Có Nỗi Khổ Đau Nào Vắng Bóng Tội Lỗi (Rô 3:23; 6:23). Sự thật hiển nhiên là không hề có một sự đau khổ hay tai ương nào vắng bóng tội lỗi. Một người nhân lành, tin kính vẫn có thể phải nếm chịu hậu quả của sự gian ác của người khác. Lắm khi sự rắc rối đến với một người mà người ta không thể nào vạch ra được một điều gì đó sai trái hay bất cẩn nơi người ấy cả. Việc một người vô can phải chịu “vạ lây” bởi hành vi tội ác của người khác không có nghĩa rằng họ đã được để cho trở thành nạn nhân. Mặt khác, việc phải mang hậu quả của tội lỗi của người khác cũng không phải là một điều bất công. Ngay trong trường hợp người ta phải chịu khổ vì hành động của người khác, người ta cũng không phải chịu đựng nhiều hơn mức họ đáng phải chịu: “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô. 3:23), và “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô. 6:23). Muốn tránh tai ương và đau khổ trong đời này là điều không thể được vì rằng“Bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết trải qua trên hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội...”(Rô. 5:12). Ai cũng phải đối diện với tai ương, đau khổ cả. Do đó, vấn đề không phải ở chỗ “tránh khỏi” mà là “vượt qua”. Đức Chúa Jêsus phán: “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, Ta đã thắng thế gian rồi” (Gi. 16:33). Người ta thường cho rằng những người gặp tai ương lớn, chịu đau khổ nhiều là những người mắc tội nặng. Có hai cơ sở để người ta rút ra kết luận ấy: 1. Sự Suy Luận Theo Lôgíc. Theo lôgíc của sự suy luận, người ta cho rằng tội nhân phải chịu khổ theo mức độ vi phạm của mình. Như vậy, sự đau khổ lớn cho thấy mức độ vi phạm nặng mà người ta đã mắc. 2. Sự Nhận Xét Theo Quan Sát. Người ta cũng còn nhận xét theo sự quan sát. Kinh nghiệm sống cho người ta thấy được rằng có những người phạm những tội cực kỳ hung ác đã phải mắc những sự đau khổ hết sức đặc biệt: Phải hứng chịu sự trút đổ căm phẫn, phải sống trong một sự dằn vặt không bao giờ nguôi, hoặc phải chịu sự trừng trị đích đáng xảy đến bất thình lình bởi sự can thiệp từ Thiên Thượng. II. PHẢI HỌC BIẾT TỪ KINH THÁNH (C. 3-4) “ 3Ta nói cùng các ngươi, không phải; song nếu các ngươi chẳng ăn năn, thì hết thảy sẽ bị hư mất như vậy. 4Hay là mười tám người bị tháp Silôê ngã xuống đè chết kia, các ngươi tưởng họ có tội lỗi trọng hơn mọi kẻ khác ở thành Giêrusalem sao?” (Lu. 13:3-4) 1. Tai Ương, Đau Khổ Hiện Tại Không Luôn Luôn Tương Xứng Với Tội Lỗi (1Ti. 2:4; Ma. 13:24-30). Sự đau khổ, tai ương xảy đến trong hiện tại không luôn luôn tương xứng với mức độ nghiêm trọng của tội lỗi. Còn có quá nhiều kẻ gian ác, độc dữ vẫn ung dung trong đường ác của mình. Đó là một sự thật hiển nhiên vì Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời chậm giận và giàu ơn, “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật” (1Ti. 2:4). Nếu quả thật Đức Chúa Trời ra tay trừng trị những kẻ gian ác bằng tai họa và khổ đau, qui mô của vấn đề sẽ không chỉ nhẹ nhàng, lẻ tẻ như thế là đủ!(Sv. Ma. 13:24-30) 2. Điều Chính Yếu Trong Hiện Tại Là Sửa Phạt Chứ Không Phải Là Trừng Trị (Lu. 9:55). Thật ra, dưới Định Kỳ Ân Điển này, trừng trị không phải là ý tưởng chính của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus đã đến thế gian, đã hy sinh đền tội thay, và đã phục sinh vinh hiển, không phải để diệt các linh hồn, mà để cứu cho (Sv. Lu. 9:51-56). Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải thận trọng khi có sự xuất hiện của ý tưởng “trừng trị” trong tâm trí mình, chúng ta đừng để Ma Quỉ xúi giục (Lu. 9:55). Mặt khác, là Cơ Đốc Nhân, chúng ta cần phải biết rằng Kỳ Phán Xét của Đức Chúa Trời trên những người chưa tin vẫn chưa đến. Về vấn đề kẻ gian ác và người công bình, Đức Chúa Jêsus phán: “Hãy để cho cả hai thứ cùng lớn lên cho đến mùa gặt; đến mùa gặt, Ta sẽ dặn con gặt rằng: Trước hết hãy nhổ cỏ lùng, bó lại từng bó mà đốt đi; song hãy thâu trữ lúa mì vào kho Ta” (Ma. 13:30; Sv. Ma. 13:36-43). Hơn nữa, trong Định Kỳ Ân Điển hiện nay, sự sửa phạt đang được dành cho chính chúng ta, những người trong gia đình của Đức Chúa Trời: “Vì thời kỳ đã đến, là khi sự phán xét sẽ khởi từ nhà Đức Chúa Trời; vả, nếu khởi từ chúng ta, thì sự cuối cùng của những kẻ chẳng vâng theo Tin Lành Đức Chúa Trời sẽ ra thế nào?” (1Phi. 4:17). III. PHẢI TỰ XÉT MÌNH (C. 5) “5Ta nói cùng các ngươi, không phải; nhưng nếu các ngươi chẳng ăn năn, thì hết thảy cũng sẽ hư mất như vậy” (Lu. 13:5) Chúng ta đang sống ra sao? Điều hiển nhiên là chúng ta thảy đều mắc tội (Rô. 3:23; 1Gi. 1:8): Lời Đức Chúa Trời đã phán như thế, lương tâm chúng ta vốn biết như thế, và những sự bày tỏ ra trước mặt mọi người trong đời sống hàng ngày của chúng ta cũng cho thấy như thế. Nếu đủ thành thật, chúng ta có thể đồng thanh với Sứ Đồ Giacơ rằng “Chúng ta thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm…” (Gia. 3:2). Từ ngữ được sử dụng trong câu Kinh Thánh này (Gk. ptaio) nói về sự vi phạm của bản thân hoặc làm cho người khác vi phạm. Đối với các Cơ Đốc Nhân, trong quá trình tăng trưởng, việc cố ý phạm tội không còn thường xuyên nữa, nhưng việc vi phạm các chuẩn mực Kinh Thánh không phải là không có! Trước đây, chúng ta đều mắc tội với Chúa, và đáng với sự định tội của Ngài, đáng chịu Ngài trừng trị. Bởi sự can thiệp nhờ Ân Điển Thiên Thượng trong và qua Chúa Cứu Thế Jêsus, chúng ta đã được tha tội. Chúng ta đã thực sự ăn năn chưa? Liệu chúng ta đã từ bỏ hẳn những hành vi ích kỷ chưa? Liệu chúng ta đã chừa bỏ hết những sự không tin kính chưa? Liệu chúng ta không còn có điều gì bị Chúa xem là bất phục tùng hay không? Liệu chúng ta đã thật sự được nghỉ yên và đắc thắng trong Ân Điển của Chúa chưa? Nếu chưa, và nếu cứ tiếp tục không ăn năn, chúng ta chắc chắn phải chịu thiệt hại, cả thuộc thể và thuộc linh, trong những chừng mực nhất định nào đó, vì “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô. 6:23). “Sự chết” (Gk. thanatos) không nhất thiết chỉ là sự chết thuộc thể như ai nấy đều biết. Theo nghĩa rộng, “sự chết” trên phương diện là hậu quả của tội lỗi, bao gồm mọi cảnh đau đớn, khổ cực xuất phát do tội lỗi, cùng với sự chết thuộc thể không thể tránh khỏi để bước vào sự phán xét: “Ai đã làm lành thì sống lại để được sống, ai đã làm dữ thì sống lại để bị xét đoán” (Gi. 5:29). Chết chưa phải đã là hết chuyện. Là Cơ Đốc Nhân, “Chúng ta không phải thuộc về ban đêm, cũng không phải thuộc về sự mờ tối. Vậy, chúng ta chớ ngủ như kẻ khác, nhưng phải tỉnh thức và dè giữ” (1Tê. 5:5-6). Sự “tỉnh thức và dè giữ” của chúng ta không phải chỉ cho riêng bản thân mình, chúng ta còn có phận sự giúp đỡ cho người khác nữa. Từ khi thâm nhập vào thế gian, tội lỗi đã làm cho “chông gai và cây tật lê” phải sanh ra. Trên một phương diện, cả thế gian này là một cánh đồng “chông gai và cây tật lê” mênh mông. Vì tội lỗi đã thâm nhập thế gian mà địa cầu này đã “bị rủa sả”, trong đó có việc phải chịu sự chi phối của định luật thoái hóa; việc các thảm họa thiên nhiên mỗi ngày một nhiều hơn và nghiêm trọng hơn là điều tất nhiên. Như vậy, các thảm họa nhân đạo cặp theo chính là tất yếu của tất yếu vì “ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng”; tai ương, đau khổ chính là những hình thái biểu hiện của tội lỗi trong thế gian. Giữa thế giới đau khổ này, “Tin Lành” cho tất cả mọi người là Chúa Cứu Thế Jêsus đã đến, Ngài đã chịu chết để trả thay án phạt của tội lỗi cho tất cả những ai biết ăn năn, chịu tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình; Ngài đã sống lại và đang sống “Hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật” (Gi. 10:10)! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỰ CỨU CHUỘC GIÁNG SINH” (Gal. 4: 4-5) “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài.” (Gal. 4: 4-5) Trong các lễ hội của Cơ Đốc Giáo, Lễ Giáng Sinh có xuất xứ muộn nhất. Tên gọi của lễ là hình thức tỉnh lược của hai từ liệu “Christ’s” (của Chúa) với “mass” (đám đông, quần chúng) thành ra “Christmas”. Tên gọi này chỉ được sử dụng vào thời Trung Cổ trở về sau mà thôi. Vào các thế kỷ đầu tiên của Cơ Đốc Giáo, các Cơ Đốc Nhân thích làm lễ kỷ niệm ngày chết của người họ kính yêu hơn là ngày sinh. Từ rất sớm, lịch sử Hội Thánh cho thấy đã có việc kỷ niệm hàng năm ngày chịu chết của Đức Chúa Jêsus, và ngày tử đạo của một số thánh đồ. Dầu vậy, từ trước thế kỷ thứ tư, các Hội Thánh ở Đông Aicập, Tiểu Á, và ở Antiốt đều đã biết kỷ niệm ngày Đức Chúa Trời hiển minh cho thế gian khi Đức Chúa Jêsus chịu Báptem dưới sông Giôđanh (Epiphany, Ma. 3:16-17). Tuy nhiên, việc kỷ niệm ngày Đức Chúa Trời hiển minh cho thế gian khi Đức Chúa Jêsus chịu Báptem dưới sông Giôđanh về sau đã được liên kết với việc kỷ niệm ngày Đức Chúa Jêsus hiển minh cho các Bác Sĩ đến từ Đông Phương (Ma. 2:1-12), và sau đó là với ngày Ngài giáng sinh ở Bếtlêhem (Lu. 2:1-12) để chỉ còn là ngày kỷ niệm Đức Chúa Jêsus giáng sinh, hay Lễ Giáng Sinh, mà thôi. Dấu vết cổ của ngày lễ này còn thấy trong một nghi lễ của Anh Quốc Giáo: Cứ đến ngày 06 Tháng Giêng hàng năm, Quốc Vương Anh Quốc thực hiện lễ dâng Vàng, Nhũ Hương, và Một Dược trong Nhà Thờ Hoàng Gia. Vào tiền bán thế kỷ thứ tư, các Cơ Đốc Nhân ở Rôma đã bắt đầu kỷ niệm ngày Đức Chúa Jêsus giáng sinh. Tập tục ấy phát triển nhanh chóng đến mức vào cuối hậu bán thế kỷ thứ tư phần lớn các nơi trên thế giới đều có Lễ Giáng Sinh. Có một sự kiện làm cho Lễ Giáng Sinh được nhấn mạnh ở thế kỷ thứ tư là cuộc tranh luận về bản chất của Đức Chúa Jêsus. Câu hỏi được đặt ra là “Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời nhập thể thành người hay cũng chỉ là loài thọ tạo?”. Từ đó, giáo lý nhập thể được đề cao: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha” (Gi. 1:14). Có vẻ như Lễ Giáng Sinh đã được sử dụng như một phương thức cấp thiết cho việc xác lập giáo lý Kinh Thánh ấy. Không hề có một bằng chứng xác thực nào cho biết rằng ngày Đức Chúa Jêsus giáng sinh là ngày 25 Tháng Mười Hai. Ngày 25 Tháng Mười Hai đã được chọn có lẽ là do các nguyên nhân phong tục chứ không phải theo lý lẽ thần học. Khắp các miền thuộc đế quốc La Mã, có nhiều cuộc lễ gắn liền với tiết Đông Chí là ngày mà sau đó mặt trời sẽ tiến gần hơn về địa cầu, khí hậu trở nên ấm dần lên. Tại Rôma, xưa kia có ngày lễ Nhật Hưng (Unconquerable Sun) nhằm 25 Tháng Chạp, kỷ niệm “ngày trở lại của mặt trời” sau mùa Đông giá băng. Có lẽ khi Cơ Đốc Giáo trở thành quốc giáo của đế quốc La Mã (Công Giáo La Mã), Nhà Nước đã cho bãi bỏ ngày lễ ấy hoặc cho biến cải ngày lễ ấy thánh Lễ Giáng Sinh. Quả thật là rất phù hợp nếu chọn tiết Đông Chí làm ngày kỷ niệm Đức Chúa Jêsus giáng sinh: Ngài là Mặt Trời Chân Lý, đem đến Ánh Sáng Sự Sống, xua tan đêm Đông tội lỗi trên thế gian này. Lễ Giáng Sinh nhằm vào một thời điểm khí hậu ấm lên để xua đi mùa Đông giá băng. Trên phương diện thuộc linh, Lễ Giáng Sinh nhắc nhở về sự cứu chuộc Thiên Thượng giáng sinh xuống thế gian đang đắm chìm trong Đông dài tội lỗi. Sự sống mùa Đông chỉ là sự tiềm sinh thoi thóp, đó chính là sự chịu đựng chứ không phải là sự sống động. Không gian Mùa Đông là một không gian im lặng… I. THỜI ĐIỂM HOÀN HẢO “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn…” (Gal. 4:4a) Trong dòng lịch sử nhân loại cũng có một thời kỳ im lặng kéo dài 400 năm giữa Cựu Ước với Tân Ước. Trong khoảng thời gian này, không hề có lấy một nhà Tiên Tri nào nói tiên tri, cũng không có lấy một lời Kinh Thánh nào được viết thêm. Thiên Đàng trông có vẻ chẳng có một hoạt động nào, nhưng thật ra là Đức Chúa Trời đang chuẩn bị thế gian cho Con Ngài giáng sinh. Đức Chúa Trời là Đấng khôn ngoan. Ngài đã chuẩn bị thế gian sao cho khi Con Ngài đến thì Tin Lành về Con Ngài có phương tiện truyền bá được khắp nơi cho muôn dân. Trong 400 năm ấy, Đức Chúa Trời đã làm cho các điều kiện văn hóa - xã hội - tôn giáo sẵn sàng để đón nhận Tin Lành. Alécxanđơ đại đế đã chinh phục được đế quốc Batư và bởi đó cai trị trên người Do Thái vào khoảng năm 333 TC. Khác với ngày xưa, tại tháp Babên, Đức Chúa Trời đã làm cho tiếng nói của con người trở nên dị biệt để cất bỏ tham vọng ngông cuồng của họ (Sáng. 11:1-9); khi Đức Chúa Trời cho phép đế quốc Hylạp dấy lên, Ngài có vẻ như muốn dùng một thứ ngôn ngữ phổ cập để rao truyền Tin Lành về sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus: Tiếng Hylạp. Thật vậy, khi đế quốc Hylạp chinh phục được thế giới, Tiếng Hylạp đã trở thành thứ tiếng phổ cập hầu như đối với mọi nền văn minh. Mọi nước đều đọc và viết Tiếng Hylạp, mọi văn bản pháp qui đều được thực hiện bằng Tiếng Hylạp. Khi xử đóng đinh Đức Chúa Jêsus trên thập tự giá, Philát cho đề bảng ở trên đầu Ngài rằng “Người Này Là Jêsus, Vua Dân Giuđa” (Ma. 27:37) có cả bằng Tiếng Hylạp cho mọi người đều biết, vì ai nấy đều có thể đọc được Tiếng Hylạp. Vì tính chất phổ cập của Tiếng Hylạp, Đức Chúa Trời đã cho phép Kinh Thánh Tân Ước được viết bằng thứ tiếng ấy hầu cho Tin Lành được truyền bá rộng rãi khắp nơi. Không có sự phổ cập của Tiếng Hylạp, các môn đồ của Đức Chúa Jêsus sẽ ít thuận lợi hơn trong việc đem sứ điệp của Ngài đến với toàn thế giới; nhưng sự đóng góp của nền cai trị La Mã cũng góp phần quan trọng trong sứ mệnh ấy. Sau khi chinh phục được các xứ, người La Mã thiết lập một chính quyền trên qui mô toàn cầu. Thời ấy, người ta đi từ nơi này qua nơi khác mà không cần giấy hộ chiếu, không cần phải có chiếu khán thị thực, không sợ mắc kẹt vì chiến tranh, không sợ bị khủng bố,… Thêm vào đó, đế quốc La Mã xây dựng được một hệ thống đường giao thông xuyên lãnh thổ tốt chưa từng thấy, việc đi lại hết sức dễ dàng. Nhờ đó, việc các môn đồ của Đức Chúa Jêsus đi truyền bá Tin Lành đã diễn ra thật thuận lợi. Thành ngữ “Đường nào cũng đến La Mã” ngầm nói lên rằng mọi nẻo đường đều thuộc quyền kiểm soát của đế chế La Mã, và hệ thống đường giao thông của đế quốc La Mã tỏa rộng ra khắp nơi. Về tôn giáo, cho đến thời Đức Chúa Jêsus giáng sinh, chỉ duy nhất người Do Thái có niềm tin đặt nơi Đức Chúa Trời: “Hỡi Ysơraên! hãy nghe: Giêhôva Đức Chúa Trời chúng ta là Giêhôva có một không hai. Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi” (Phục. 6:4-5). Dầu vậy, thế giới ngoại giáo sống chung quanh người Do Thái vẫn là một biển đa thần mênh mông. Cả người Hylạp lẫn người La Mã đều có rất nhiều thần cả nam lẫn nữ. Thậm chí, người La Mã còn muốn cả thế giới phải thờ Sêsa như một vị thần. Trong lãnh thổ của đế quốc La Mã, ai muốn được thờ thần của mình thì trước tiên phải thờ Sêsa! Giữa vòng hàng ngàn thần lặt vặt, Đức Chúa Trời đã dùng người Do Thái để giúp cho thế giới biết Ngài là chân thần duy nhất. Đức Chúa Trời cũng đã dùng người Do Thái phổ biến niềm kỳ vọng nơi một Đấng Mêsia, là Đấng Cứu Thế, sẽ đến để cứu cả dòng dõi nhân loại ra khỏi tội lỗi. Cho đến thời Đức Chúa Jêsus giáng sinh, người Do Thái đã phải trải qua sáu nền cai trị chuyên chế: Aicập, Asyri, Babylôn, Batư, Hylạp, và hiện lúc ấy là đế quốc La Mã. Trong mọi giai đoạn lịch sử, người Do Thái đã phải chịu vùi dập và vì thế mà bị tan rải ra khắp nơi. Tuy nhiên, chính sự tan rải của người Do Thái đã hình thành ở nhiều nước các cộng đoàn Do Thái Giáo mà với họ chỉ có Đức Chúa Trời là chân thần duy nhất. Chính sự hiện diện của người Do Thái trong các địa bàn dân cư đã làm hạt nhân cho việc truyền bá Tin Lành được thuận lợi ngay từ thế kỷ đầu tiên: Các vị Sứ Đồ luôn luôn bắt đầu chức vụ của mình từ các Nhà Hội Do Thái Giáo. “Khi kỳ hạn đã được trọn” nói về nhiều mặt chuẩn bị đã được Đức Chúa Trời cho phép có sẵn đúng thời điểm để Tin Lành về Con Ngài được rao ra thuận lợi: Một thứ ngôn ngữ phổ cập, một nền hòa bình ổn định, một hệ thống giao thông rộng rãi và thuận lợi, một sự hiểu biết về ý niệm độc thần, một kỳ vọng về Đấng Cứu Thế, và một sự hiện diện rộng rãi của các cộng đoàn Do Thái Giáo ở khắp nơi. II. CỨU CHÚA CHÂN THỰC “Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp” (Gal. 4:4b-5a). Tôn giáo đời này có lắm thần, nhiều chúa; nhưng chỉ duy nhất Đức Chúa Jêsus là Cứu Chúa chân thực. Đức Chúa Trời không phái một Thiên Sứ hay dấy lên một nhà lãnh đạo vĩ đại để cứu nhân loại, vì loài thọ tạo không thể nào có quyền năng cứu chuộc. Đức Chúa Trời biết rõ nhu cần to lớn của nhân loại và Ngài đã ban Con Ngài đến. Ngoài Con Đức Chúa Trời, không thể có bất cứ gì khác đáp ứng được nhu cần của chúng ta, và sự trông mong của Đức Chúa Trời là làm sao nhu cần thuộc linh của chúng ta phải được thỏa mãn một cách hoàn toàn và một cách đầy thương xót: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Gi. 3:16). Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời. Sứ Đồ Phaolô nói cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Jêsus đến từ Đức Chúa Trời và Ngài chính là Đức Chúa Trời. Ngài có bản chất Thiên Thượng (Sv. Gi. 10:36-38). Đức Chúa Jêsus là sự hoàn hảo của nhân loại. Sứ Đồ Phaolô nói cho các tín hữu ở Hội Thánh Galati biết rằng Đức Chúa Jêsus “bởi một người nữ” sinh ra. Khi chúng ta đọc đến điều ấy, chúng ta có khuynh hướng nghĩ đến sự giáng sinh đồng trinh. Trên một phương diện, quả đúng là như thế. Tuy nhiên, ở đây Sứ Đồ Phaolô muốn nhấn mạnh việc Đức Chúa Jêsus bước vào thế gian này cũng giống như mọi người khác: Ngài được “sanh ra”. Đây chính là cách nói để Sứ Đồ Phaolô nhấn mạnh về nhân tính hoàn hảo của Đức Chúa Jêsus. Trong nhân thể của Đức Chúa Jêsus, quyền toàn năng của Đức Chúa Trời được chuyển giao vào trong cánh tay con người. Trong nhân thể của Đức Chúa Jêsus, sự khôn ngoan Thiên Thượng được đặt vào não bộ con người. Trong nhân thể của Đức Chúa Jêsus, tình yêu thương Thiên Thượng rung động trong trái tim con người. Trong nhân thể Đức Chúa Jêsus, sự thương xót Thiên Thượng lấp lánh trong ánh mắt của con người. Trong nhân thể Đức Chúa Jêsus, Ân Điển Thiên Thượng tuôn tràn qua đôi môi của con người,… Đức Chúa Jêsus là sự hoàn hảo của Luật Pháp. Đức Chúa Jêsus được sinh ra dưới Luật Pháp để làm cho hoàn thành Luật Pháp. Luật Pháp đòi hỏi một đời sống hoàn hảo mà Kinh Thánh cho biết là ngoài Đức Chúa Jêsus ra không ai có thể đạt đến được. Đức Chúa Jêsus đã sống một đời sống không hề nhiễm tội để làm nên sự cứu rỗi cho toàn thể nhân loại. Đức Chúa Jêsus đã đến để làm cho chúng ta những gì chúng ta không thể nào tự thực hiện cho mình được. Đức Chúa Jêsus đến để cứu chuộc. Đức Chúa Jêsus là sinh tế cho tội lỗi của chúng ta: Đức Chúa Jêsus tự nguyện lấy huyết Ngài làm của tế lễ cho tội lỗi của chúng ta. Đức Chúa Jêsus đã phải chịu chết để chuộc chúng ta trở lại vì “Không đổ huyết thì không có sự tha thứ” (Hê. 9:22). Cứu chuộc có nghĩa là “Mua lại để giải thoát khỏi tình trạng ràng buộc bằng một khoản tiền chuộc”. Đức Chúa Jêsus là Cứu Chúa Hoàn Hảo cứu chuộc chúng ta ra khỏi tình trạng tội lỗi. Mục đích của Đức Chúa Jêsus là giải thoát nhân loại thoát khỏi các hệ quả của tội lỗi. Đức Chúa Jêsus chỉ có thể cứu được chúng ta bằng cách đến ở cùng chúng ta và làm cho chúng ta được ở cùng Ngài. Ngài nhận chúng ta làm con của Ngài. III. CON NUÔI CHÂN CHÍNH “Và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài” (Gal. 4:5b). Theo văn hóa La Mã, sự nhận làm con là một thủ tục pháp lý hoàn chỉnh. Một khi đã được nhận làm con, người ta sẽ không bao giờ bị truất miễn nữa. Sự nhận làm con có hiệu lực tức thì và vĩnh viễn. Một khi tiến trình nhận làm con hoàn tất, người được nhận làm con lập tức có đủ mọi quyền hợp pháp theo luật. Sự nhận làm con mang tính dứt khoát. Người được nhận làm con không còn có bất cứ sự ràng buộc nào đối với gia đình cũ trước đó nữa. Điều này nghe có vẻ phủ phàng nhưng thật ra là điều tốt, vì chỉ có những ai bị ở trong thân phận nô lệ mới được chuộc làm con. Người được nhận làm con trở thành một người mới hoàn toàn. Đối với Cơ Đốc Nhân chúng ta, được nhận làm con đem lại một mối tương giao tươi mới với Đức Chúa Trời. Sự nhận làm con khiến cho Đức Chúa Trời trở thành Cha của chúng ta. Thật là một phước hạnh lớn lao khi có một người Cha là Đấng đã sáng tạo ra và đang tể trị cả vũ trụ này! Sự nhận làm con đem lại một gia đình cho tất cả các con cái của Đức Chúa Trời. Sự nhận làm con khiến cho chúng ta trở nên con người mới. Con người cũ của thế gian, gia đình cũ theo cách ăn ở của đời ác này được đoạn tuyệt và mọi sự khởi đầu trở lại trong gia đình mới của Đức Chúa Trời. Sự nhận làm con bảo đảm cho chúng ta một nơi ở đời đời. Khi Đức Chúa Trời nhận chúng ta làm con, Ngài dành cho chúng ta một chỗ ở mới trên Thiên Đàng: “…2Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. 3Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Gi. 14:2-3). Đã qua hơn hai ngàn năm nhưng sứ điệp giáng sinh vẫn còn nguyên giá trị: “10Đừng sợ chi; vì nầy, ta báo cho các ngươi một Tin Lành, sẽ là một sự vui mừng lớn cho muôn dân. 11Ấy là hôm nay tại thành Đavít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa” (Lu. 2:10-11). Lễ Giáng Sinh nhắc nhở về sự cứu chuộc “Nhờ Ân Điển, bởi đức tin” (Êph. 2:8) bởi một Cứu Chúa chân thực để ai tin nhận Ngài sẽ được làm con chân chính của Đức Chúa Trời (Gi. 1:12). Thế nhưng, Đức Chúa Jêsus hiện đang có vị trí như thế nào trong đời sống của chúng ta? Đức Chúa Trời muốn chúng ta “Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình” (1Phi. 3:15). Hãy đem Lễ Giáng Sinh vào mỗi đời sống cá nhân để Đức Chúa Jêsus giáng sinh trong chính tấm lòng của mình hầu cho chúng ta có được sự cứu chuộc trọn vẹn của Ngài. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỰ CHIẾU CỐ TỪ THẬP TỰ GIÁ” (Lu. 23:26-49) “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì.” (Lu. 23:34) Theo như những điều đã được Đức Chúa Trời định đoạt (Sv. Công. 4:27-28), việc xử đóng đinh Đức Chúa Jêsus là một sự hoàn thành lời tiên tri (Sv. Xa. 12:10; 13:6; Thi. 22:16-17; Ma. 20:19; 26:2). Tránh không để cho chúng ta biết về các chi tiết đau thương, sự trước thuật trong Kinh Thánh chỉ viết rằng “Họ đóng đinh Ngài…” (Lu. 23:33). Những gì Đức Chúa Jêsus đã nếm trải do bàn tay kẻ ác trong việc cáo kiện và đóng đinh Ngài không hề có chút đóng góp nào vào công trình đền tội thay của Ngài cả mà chỉ tỏ rõ trạng thái thuộc linh và sự kết án công bình đối với những kẻ có liên quan đến tội ác tàn khốc này (Sv. Công. 4:27; Lu. 2:35). Khi Đức Chúa Trời thực hiện công trình vĩ đại nhất của Ngài qua việc để cho Con Ngài làm sinh tế trên thập tự giá tại đồi Gôgôtha, Ngài có một mối quan tâm tối hậu cần phải hoàn thành, vừa thỏa mãn được đức công nghĩa, vừa thực hiện được tình yêu thương đối với nhân loại của Ngài. I. THẬP TỰ GIÁ “Cây thập tự”, hay “thập tự giá”, trong Tiếng Hylạp là σταυρός [stauros] và hình thức xử tử hình bằng cách đóng đinh trên cây thập tự được gọi là σταυρόω [stauroo]; tức là người bị xử sẽ bị đóng đinh ở tay và chân vào các phần tương ứng của hai thanh gỗ ghép lại với nhau thành hình chữ thập, sau đó được dựng lên tại nơi hành hình cho đến chết. Từ liệu “thập tự giá” được sử dụng trong Kinh Thánh theo ba nghĩa: (1) Nói về một công cụ bằng gỗ hình chữ thập dùng trong việc hành hình: “Khi chúng điệu Đức Chúa Jêsus đi, bắt một người xứ Syren, tên là Simôn, từ ngoài đồng về, buộc phải vác cây thập tự theo sau Ngài” (Lu. 23:26); (2) Nói hình bóng về sự cứu chuộc nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ trên cây thập tự theo nghĩa (1) nói trên: “Bởi vì lời giảng về thập tự giá, thì những người hư mất cho là điên dại; song về phần chúng ta, là kẻ được cứu chuộc, thì cho là quyền phép của Đức Chúa Trời” (1Cô. 1:18); (3) Nói về sự chết trên cây thập tự theo nghĩa (1) nói trên: “Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy” (Gal. 6:12). Trong câu Kinh Thánh này, từ liệu “thập tự giá” đi trước mang nghĩa (2), trong khi từ liệu “thập tự giá” sau đó mang nghĩa (3). “Ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta.” (Ma. 10:38); “Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta.” (Mác 8:34)… Từ liệu “cây thập tự”, “thập tự giá” trong các câu Kinh Thánh này trông có vẻ như mang một ý nghĩa khác; thật ra chỉ là ý nghĩa (2) mà thôi: Đã tin theo Chúa, phải biết sống đời sống xứng hiệp với sự cứu chuộc mà Đức Chúa Jêsus Christ đã thực hiện cho mình; phải luôn luôn biết làm trọn sự kêu gọi của Đức Chúa Trời trên đời sống mình. “Cây thập tự”, hay “thập tự giá”, trong Tiếng La Tinh là crux. Có bốn kiểu dáng cơ bản của “thập tự giá” bằng gỗ: (1) “Thập tự giá immissa”: Hai thanh gỗ ghép lại với nhau theo góc vuông, phần trên đầu ngắn nhất, phần thân đứng dài nhất. (2) “Thập tự giá commissa”: Có hình chữ “T”, tức không có đầu nhô lên trên thanh ngang, còn được gọi là “Thập tự giá của thánh Anthony”. (3) “Thập tự giá Hy Lạp”: Hai thanh gỗ ghép chéo góc vuông với nhau và có các phần dài bằng nhau. (4) “Thập tự giá decussata”: Có hình chữ “X”, còn được gọi là “Thập tự giá của thánh Andrew”. II. NỖI THỐNG KHỔ TRÊN THẬP TỰ GIÁ VÀ SỰ CHIẾU CỐ TỪ THẬP TỰ GIÁ Xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá là một hình thức hành hình dã man nhất từ xưa đến nay. Hình thức hành hình này đã từng được thi hành, nhất là trong các giai đoạn chiến tranh, bởi người Phoenix, Carthage, Ai Cập, và sau đó là người La Mã. Hình thức xử tử hình bằng cách đóng đinh đáng kinh sợ đến nỗi, ngay cả trước kỷ nguyên Cơ Đốc, người ta đã thường dùng nó để nói về hiểm họa lớn nhất đối với sự sống. Việc xử tử hình bằng cách đóng đinh khủng khiếp đến nỗi luật La Mã cấm không được áp dụng hình án này cho các công dân La Mã mà chỉ áp dụng cho dân của các xứ bị trị mà thôi. Nỗi thống khổ của người bị xử tử hình bằng cách đóng đinh thường kéo dài trong các trạng thái đau đớn, dày vò: (1) Sự nhức nhối không tả hết của những vết thương trên các phần thân thể đã bị xuyên thủng; (2) Vị trí bị treo một cách không bình thường trong một tình trạng hết sức nghiệt ngã, mỗi cử động nhỏ đều khiến nạn nhân phải bị đau đớn cao độ; (3) Trạng thái sốt cao khắp toàn thân do bị treo trong một thời gian lâu. Trong 1Cô. 1:18, “Lời giảng về thập tự giá” (Gk. euaggelizo) bị những người còn đang hư mất cho là “điên dại”, trái với sự khôn ngoan của người đời. Trong Êph. 2:16, “thập tự giá” được kể là phương tiện của sự phục hòa giữa Đức Chúa Trời với nhân loại: “Bởi thập tự giá Ngài đã làm cho sự thù nghịch tiêu diệt, nên nhờ thập tự giá đó Ngài khiến cả hai hiệp thành một thể, mà làm hòa thuận với Đức Chúa Trời.”. Sở dĩ có được như vậy là vì “thập tự giá” đã cất bỏ đi án phạt mà tội nhân phải trả theo Luật Pháp: “Ngài đã xóa tờ khế lập nghịch cùng chúng ta, các điều khoản trái với chúng ta nữa, cùng hủy phá tờ khế đó mà đóng đinh trên cây thập tự.” (Côl. 2:14). Làm thế nào mà một người La Mã như Phaolô, vốn xem kẻ bị xử tử hình bằng cách đóng đinh là một người đáng bị miệt thị (Sv. 1Cô. 1:18); và Phaolô trên góc độ một chức sắc Do Thái Giáo, vốn xem người bị xử tử hình bằng cách đóng đinh là đáng bị rủa (Sv. Gal. 3:13) lại có thể “Khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.” (Gal. 6:14)? Đây chính là một sự thay đổi bi hùng mang tính lịch sử vốn đã diễn ra trong đời sống của các vị Sứ Đồ vì họ nhận biết Đấng bị xử tử hình trên thập tự giá là Chúa Cứu Thế đến từ Đức Chúa Trời: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.” (Gal. 2:20). Khi Đức Chúa Jêsus bị xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, cơ chế vật lý nào diễn ra trong sự chết của Ngài? Người ta đã từng có các cuộc nghiên cứu y khoa nhằm giải đáp cho câu hỏi ấy. Khi một người bị treo lơ lửng bằng cách đóng đinh như thế, máu sẽ tuôn ra qua các vết thương và lượng máu của cơ thể sẽ cứ thế mà giảm đi. Chỉ trong vòng từ sáu đến mười hai phút đầu tiên, áp huyết của nạn nhân sẽ hạ chỉ còn một nửa, trong khi đó thì nhịp tim lại tăng lên gấp đôi. Tim sẽ dần dần cạn máu, và người bị hành hình sẽ rơi vào trạng thái bị kích ngất. Cái chết sẽ đến với nạn nhân nhanh hay chậm tùy theo trạng thái suy tim của từng người. Thông thường, việc ấy xảy ra không lâu hơn hai hoặc ba ngày. Theo thông lệ, cái chết của nạn nhân bị xử tử hình bằng cách đóng đinh sẽ được gia tốc bằng việc đánh gãy xương ống chân nạn nhân vào thời điểm kết thúc cuộc hành hình; nhưng điều ấy đã không xảy ra đối với Đức Chúa Jêsus: “Khi quân lính đến nơi Đức Chúa Jêsus, thấy Ngài đã chết rồi, thì không đánh gãy ống chân Ngà.i” (Gi. 19:13). Nỗi đau đớn thân xác mà Đức Chúa Jêsus đã phải chịu trên thập tự giá là rất lớn lao, chúng ta không cần phải nhấn mạnh mà cũng không thể nào cường điệu được, vì đó là sự thật. Sự chết thuộc thể mà Đức Chúa Jêsus đã phải chịu trên thập tự giá trong nhân trạng của Ngài cũng là một sự thật hiển nhiên không thể bác bỏ được, nhưng chúng ta không nên nhấn mạnh nhiều đến cơ chế vật lý của sự chết Ngài vì Kinh Thánh cho chúng ta biết được rằng sự chết của Đức Chúa Jêsus độc đáo ở chỗ Ngài chủ tâm đổ sự sống của mình ra để vâng lời Đức Chúa Trời: “Chẳng có ai cất sự sống Ta đi, nhưng tự ta phó cho; Ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại; Ta đã lãnh mạng lịnh nầy nơi Cha Ta.” (Gi. 10:18). Khi Đức Chúa Jêsus chịu xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, nỗi đau nào lớn nhất đối với Ngài? Theo sự trước thuật của Mathiơ và Mác, linh hồn thống khổ Ngài chính là thống khổ linh hồn Ngài vì trong giờ phút đền tội thay cho cả nhân loại, mối tương liên đời đời trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời đã tạm thời phân cách và đó chính là kinh nghiệm đau thương nhất mà Đức Chúa Jêsus phải chịu trong nhân thể: “45Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. 46Ước chừng giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Êli, Êli, lamasabáchtani? Nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?... 50Đức Chúa Jêsus lại kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn.” (Ma. 27:45-46, 50; Sv. Mác 15:33-34, 37). Khi Đức Chúa Jêsus chịu xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, mối quan tâm hàng đầu của Ngài là gì? Theo sự trước thuật của Luca: “Đức Chúa Jêsus cầu rằng: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì…” (Lu. 23:34). Cần nên chú ý rằng cho đến thời điểm này, Đức Chúa Jêsus chưa bao giờ phải cậy đến Đức Chúa Cha để tha tội. Ngài đã luôn luôn tự chứng rằng chính Ngài có quyền tha tội: “Ngài bèn phán cùng người đàn bà rằng: Tội lỗi ngươi đã được tha rồi.” (Lu. 7:48). “5Đức Chúa Jêsus thấy đức tin họ, bèn phán cùng kẻ bại rằng: Hỡi con Ta, tội lỗi ngươi đã được tha…6Vả, có mấy thầy thông giáo ngồi đó, nghĩ thầm rằng: 7Sao người nầy nói như vậy? Người nói phạm thượng đó! Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng?” (Mác 2:5-7). Bằng việc kêu lên rằng “Lạy Cha, xin tha cho họ…”, Đức Chúa Jêsus khải thị cho chúng ta biết được một trong các phương diện chính của sự đền tội thay trên thập tự giá của Ngài: Ngài tự đồng hóa mình với nhân loại để kêu cầu sự tha tội thay cho họ! Luận điểm này hoàn toàn hợp Kinh Thánh khi chúng ta chú ý đến lời phán “Mọi việc đã được trọn” của Đức Chúa Jêsus trước khi Ngài trút linh hồn: “Khi Đức Chúa Jêsus chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng: Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn.” (Gi. 19:30). Với việc kêu lên rằng “Lạy Cha, xin tha cho họ…”, chúng ta cần chú ý rằng Đức Chúa Jêsus đã không cầu xin bất cứ điều gì khác ở đây. Ngài đã không cầu xin sự giàu có cho các cá nhân ấy. Ngài đã không cầu xin sự thịnh vượng cho họ. Ngài đã không cầu xin cho họ có sự khát khao nên thánh trong lòng… Ngài quan tâm trước tiên đến nhu cần được tha tội của nhân loại vì đó mới chính là nhu cần lớn nhất và trước hết: Chỉ khi nào nợ tội được trả, án tội được tha, ách tội được thoát, nhiên hậu mới cần đến những điều khác, và những điều khác ấy mới được bền vững, thực sự hữu ích. Được tha tội, được phục hồi địa vị công nghĩa trước mặt Đức Chúa Trời là nhu cần lớn nhất của của nhân loại: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma. 6:33). Chúng ta sẽ làm gì vào những khi người khác đối xử cay nghiệt với chúng ta? Liệu chúng ta có thể lập tức cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ cho họ hay là chúng ta sẽ lập tức rủa thầm họ? Trong bản chất người, rủa sả dễ thực hiện hơn là cầu nguyện xin sự tha thứ. Thực tế này giúp chúng ta nhận ra được sự thể hiện thần tính của Đức Chúa Jêsus ngay giữa khi Ngài chịu hành hạ hết sức quá quắc: “6Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội. 7Vả, họa mới có kẻ chịu chết vì người nghĩa; dễ thường cũng có kẻ bằng lòng chết vì người lành. 8Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:6-8); “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình.” (Gi. 15:13). Trong giờ phút cuối cùng của Samsôn, Samsôn đã cầu nguyện cho mình trước, và sau đó đã thẳng tay hủy phá kẻ thù mình: “28Bấy giờ, Samsôn kêu cầu Đức Giêhôva mà rằng: Chúa Giêhôva ôi! Xin Ngài nhớ lại tôi. Hỡi Đức Chúa Trời! Xin ban sức lực cho tôi chỉ lần này thôi, hầu cho tôi báo thù dân Philitin về sự mất hai con mắt tôi. 29Samsôn vớ lấy hai cây cột ở chính giữa đỡ chịu cái đền, một cây ở bên hữu và một cây ở bên tả, nhận vào, mà rằng: Nguyện tôi chết chung với dân Philitin! Đoạn người rán hết sức, xô hai cây cột, đền đổ xuống trên các quan trưởng và cả dân sự ở đó. 30Ấy vậy, trong lúc chết, Samsôn giết nhiều người hơn là giết trong khi còn sống” (Quan. 16:28-30). Ngay cả đến vị thánh đồ tử đạo đầu tiên cho niềm tin Cơ Đốc cũng chưa hoàn toàn noi theo gương Đức Chúa Jêsus trên phương diện này được. Êtiên đã cầu nguyện cho chính mình trước khi cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ cho những kẻ bách hại mình: “59Chúng đang ném đá, thì Êtiên cầu nguyện rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, xin tiếp lấy linh hồn tôi. 60Đoạn, người quì xuống, kêu lớn tiếng rằng: Lạy Chúa, xin đừng đổ tội này cho họ! Người vừa nói lời đó rồi, thì ngủ.” (Công. 7:59-60). Tự cổ chí kim, chỉ duy nhất Đức Chúa Jêsus là dành ưu tiên hàng đầu cho việc cầu xin sự tha thứ cho tha nhân (Lu. 23:34), sau đó mới đến việc cầu nguyện cho chính mình (Lu. 23:46), vì đó là sự quan tâm của thập tự giá, sự quan tâm tối hậu của công trình đền tội thay của Ngài: “Bởi Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu. 19:10). “Nầy là huyết Ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội.” (Ma. 26:28). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỐNG CHO SỰ VINH HIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” (1Cô. 1:26-31) “Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa.” (1Cô. 1:31b) Một câu hỏi có thể được đặt ra là “Đức Chúa Trời thích trọng dụng hạng người nào?”. Những lời của Sứ Đồ Phao Lô trong đoạn Kinh Thánh này có thể sẽ làm ngạc nhiên nhiều người giữa vòng chúng ta, vì tư tưởng Kinh Thánh này đối chọi với văn hóa của xã hội loài người. Thông thường, xã hội chúng ta đang sống vốn vẫn trọng vọng những người có vẻ bề ngoài hào nhoáng, sang trọng, tỏ ra giỏi giang, giàu năng lực,… Chỉ những người như thế mới được xã hội ưu tiên trọng dụng. Sứ Đồ Phao Lô cho biết rằng Đức Chúa Trời chọn cho Ngài những người trông có vẻ thiếu khôn ngoan, yếu đuối, không quan trọng,… Đức Chúa Trời không muốn những người được Ngài chọn khoe mình, mất phước. Đức Chúa Trời muốn những người được Ngài kêu gọi nhận ra lẽ thật vĩnh cửu là nếu không bởi Ngài họ sẽ chẳng làm được gì tốt đẹp để giúp cho họ biết nương cậy Ngài, và nhờ đó mà được phước. Sứ điệp của đoạn văn Kinh Thánh này là một sứ điệp đầy khích lệ. Ý muốn tốt đẹp của Đức Chúa Trời trên đời sống của những người theo Ngài có tác dụng kép: Vừa nâng đỡ cho những ai cảm thấy mình kém cỏi, vừa nhắc nhở cho những ai biết rằng mình đã từng nhận được nhiều ưu đãi của Đức Chúa Trời để rồi tất cả mọi người đều biết dâng đời sống mình cho sự vinh hiển của Ngài. Để học biết sự dạy dỗ của đoạn văn Kinh Thánh này, chúng ta có thể ôn lại vài câu chuyện Kinh Thánh Cựu Ước với những câu hỏi mang tính chất chứng giải tương ứng của Đức Chúa Trời dành cho Dân Ngài. I. “TRONG TAY NGƯƠI CẦM GÌ?” Câu chuyện thứ nhất được tìm thấy ở Xuất. 4:1-5 với phần đầu của chuyện Đức Chúa Trời làm phép lạ để thuyết phục Môise. Môise vốn đã từng phải bị bỏ trôi sông và được công chúa Ai Cập cứu thoát chết, và nhận làm con nuôi. Trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, những việc ấy đã xảy ra và Môise đã được trưởng dưỡng trong hoàng cung Ai Cập, được thụ hưởng một nền giáo dục cao cấp của hạng đế vương hàng đầu trong thiên hạ. Khi còn trẻ, sau 40 năm được dưỡng dục trong hoàng cung, có vẻ như Môise đã nghĩ rằng ông có đủ năng lực để đứng lên giúp đỡ cho đồng bào Ysơraên của mình. Ban đầu, có vẻ như Môise rất tự tin về những gì ông tự nhận thức được ở bản thân: Ông là một người Ysơraên, đã Đức Chúa Trời dùng công chúa Ai cập để cứu ông, đã được Pharaôn Ai Cập nhìn nhận ông như một hoàng thân, đã được thụ hưởng một nền giáo dục hoàng gia,… Tất cả những điều ấy có vẻ như là những dấu hiệu của một sứ mệnh thiên định… (Xuất. 2:11). Và Môise đã hành động theo sự cảm thức của mình! Khi Môise thấy một người Ysơraên bị người Ai cập ức hiếp, Môise đã can thiệp bằng cách giết người Ai Cập kia (Xuất. 2:12). Sau đó, khi thấy hai người Ysơraên cãi nhau, Môise can gián họ, và, chua chát thay, họ phản đối Môise, chuyện giết người của Môise bị lộ ra, Môise phải bỏ trốn đến xứ của người Mađian (Xuất. 2:15). Ở đây, Môise được giới chức sắc của người Mađian ưu đãi vì đã có hành động nghĩa hiệp đối với các người nữ quí phái Mađian… Môise đã phải sống ẩn dật 40 năm với người Mađian như một người Mađian… Giấc mơ cứu dân, giúp nước của Môise tưởng chừng đã tan… Không muốn bỏ cuộc cũng phải mặc nhiên bỏ cuộc, dầu muốn trở thành anh hùng dân tộc nhưng vẫn phải chấp nhận sống đời sống của người chăn chiên trong sa mạc! Anh hùng không thể xoay chuyển nổi tình thế, phải đành thúc thủ… (Sv. Xuất. 2:11-22). Đến khi về già, một ngày kia, giữa lúc đang chăn chiên, Đức Chúa Trời đã tỏ mình cho Môise trong bụi gai cháy: Thấy lửa thì cháy mà bụi gai vẫn tươi nguyên màu xanh (Xuất. 3:2), Môise đã đến gần để xem, và đây lần đầu tiên Môise nhận được sự kêu gọi trực tiếp từ Đức Chúa Trời: “Vậy bây giờ, hãy lại đây, đặng Ta sai ngươi đi đến Pharaôn, để dắt dân Ta, là dân Ysơraên, ra khỏi xứ Êdíptô” (Xuất. 3:10). Đây là lời Đức Chúa Trời phán với Môise trên xứ của người Mađian sau 40 năm ly hương cho nên ý chính của mệnh lệnh này là “Hãy trở về Ai Cập để cứu Dân Ta thoát kiếp nô lệ!”. Quả thật đây là một mệnh lệnh đáng ngạc nhiên đối với Môise sau 40 năm không còn màng gì đến quốc sự! Tâm trạng này thật dễ nhận ra qua câu trả lời của Môise: “Môise bèn thưa rằng: Tôi là ai, dám đi đến Pharaôn, đặng dắt dân Ysơraên ra khỏi xứ Êdíptô?” (Xuất. 3:11). Con người của Môise giờ đây đã thay đổi: Từ chỗ tự thức về bản thân một cách mạnh mẽ của 40 năm trước đến hỗ tự thán một cách đầy tự ti sau 40 năm chịu cuốn theo chiều gió, phải chấp nhận những điều không thể khước từ. “Tôi là ai…?”, tâm trạng thiếu lạc quan của Môise là một điều dễ hiểu, và Đức Chúa Trời đã ra tay đem Môise ra khỏi trạng thái tự thán để đến với một sự tự thức mới, theo một cách mới, từ một góc độ mới… Đức Chúa Trời đã làm phép lạ của Ngài để đánh thức Môise, giúp Môise nhận thức được rằng Ngài đã phán, và Ngài sẽ ban quyền năng… “Đức Giêhôva phán rằng: Trong tay ngươi cầm vật chi? Thưa rằng: Một cây gậy” (Xuất. 4:2). Ngày xưa, Môise đã có cảm thức về những sự mình có (Xuất. 2:11) và hành động theo cảm thức ấy (Xuất. 2:12-13), và đã thất bại (Xuất. 3:15). Đến bây giờ, 40 năm sau thất bại ấy, Đức Chúa Trời đích thân giúp Môise nhận thức về sự mình được (Xuất. 4:2) để thúc giục Môise hành động theo sự kêu gọi Thiên Thượng của Ngài (Xuất. 3:10; 4:1-5). Hóa ra trong bước đường theo Chúa, những gì chúng ta “có” chưa hẳn đã là những gì chúng ta “được” theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời! Trong tay của Môise lúc ấy chẳng có gì khác hơn là cây gậy của người chăn chiên, một vật quen thuộc đến mức cũ mòn đối với Môise đã 40 năm! Dầu vậy, lời Đức Chúa Trời phán với Môise sau đó tỏ ra rằng Ngài cho như thế là đủ, hãy đi giải phóng cho Dân Ngài! “Đức Giêhôva phán rằng: Ấy để cho chúng nó tin rằng Giêhôva, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, là Đức Chúa Trời của Ápraham, Đức Chúa Trời của Ysác, Đức Chúa Trời của Giacốp, đã hiện ra cùng ngươi” (Xuất. 4:5) Những gì diễn ra sau đó khi Môise đối diện với Pharaôn tỏ cho thấy Đức Chúa Trời đã sử dụng một cách tài tình cây gậy trong bàn tay vâng lời Ngài của Môise… Đây là một mô thức sử dụng của Đức Chúa Trời: Với Môise, Đức Chúa Trời dùng cây gậy của người chăn bầy; với Đavít, Ngài sử dụng chiếc trành ném đá; với Samsôn, Ngài sử dụng chiếc hàm lừa… Ấy là vì… “Vả, những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy” (2Cô. 10:4). “Ấy chẳng phải là bởi quyền thế, cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần Ta, Đức Giêhôva vạn quân phán vậy” (Xa. 4:6b). Chính là chỉ với cây gậy của người chăn chiên, Môise đã đánh bại các thuật sĩ Aicập (Xuất. 7:8-13). Cũng chính với cây gậy ấy, Môise đã giáng mười tai vạ xuống Ai Cập (7:14-11:10), đã rẽ Biển Đỏ cho Dân Sự đi qua an toàn và chôn vùi đạo quân Ai Cập (Xuất. 14:21-31), đã đập hòn đá tại Hô Rếp cho nước trào ra cung cấp cho Dân Sự (17:5-9),… Hầu như tất cả những gì Môise đã thực hiện đều từ những gì Môise “được” từ Đức Chúa Trời để chăn bầy chiên của Ngài chứ không phải từ những gì Môise “có” theo năng lực bản thân của mình: “26Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng. 27Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh” (1Cô. 1:26). II. “TRONG NHÀ NGƯƠI CÓ GÌ?” Câu chuyện thứ hai sẽ được xem xét là câu chuyện tiên tri Êlisê làm phép lạ hóa ra nhiều dầu (2Vua. 4:1-7), trong đó có một câu hỏi quan trọng mà Êlisê đã hỏi người vợ góa của một trong các môn đồ của mình khi người phụ nữ này đến than phiền về tình cảnh túng quẫn của mình: “Êlisê nói với nàng rằng: Ta phải làm gì cho ngươi? Hãy nói cho ta biết; ngươi có vật gì ở nhà? Nàng thưa rằng: Con đòi ông chẳng có gì trong nhà hơn là một hũ dầu” (2Vua. 4:2). Nhiều khi điều chúng ta có còn ít hơn là điều mà người phụ nữ này có… Và, trong những tình cảnh như thế chúng ta thường nghĩ rằng không thể nào chúng ta có thể làm được một điều gì đó cho đáng kể! Dầu vậy, câu hỏi của Đức Chúa Trời là “Ngươi có vật gì ở nhà?”. Đức Chúa Trời không cần phải hỏi và được chúng ta trả lời mới có thể biết về thực trạng của chúng ta. Đức Chúa Trời hỏi là để tạo một cơ hội cho chúng ta dâng sự thiếu hụt của mình lên cho Ngài, và nương cậy nơi sự cung ứng của Ngài. Nếu chúng ta không biết dâng những gì mình có được cho Đức Chúa Trời sử dụng, quả thật chúng ta sẽ chẳng làm được gì nên chuyện. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết dâng điều mình có cho Đức Chúa Trời giống như người phụ nữ này, Ngài sẽ là Đấng biến không thành có, biến ít thành nhiều như Lời Kinh Thánh phán: “28Đức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những sự không có, hầu cho làm những sự có ra không có, 29để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời” (1Cô. 1:28-29). Chính vì thế mà… “Khi các bình đã đầy, nàng nói với con trai mình rằng: Hãy đem cho ta một bình nữa. Nhưng nó thưa rằng: Hết trơn bình rồi. Dầu bèn ngừng lại” (2Vua. 4:6). Câu chuyện này cũng nhắc cho chúng ta về câu chuyện một thiếu niên đã dâng cho Đức Chúa Jêsus chỉ năm cái bánh mạch nha và hai con cá, nhưng món của dâng nhỏ nhoi ấy đã được biến hóa bội phần hơn: “9Đây có một đứa con trai, có năm cái bánh mạch nha và hai con cá; nhưng đông người dường nầy, thì ngần ấy có thấm vào đâu?... 11Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bèn phân phát cho những kẻ đã ngồi; Ngài cũng lấy cá phát cho chúng nữa, ai muốn bao nhiêu mặc ý” (Gi. 6:9, 11). III. “TRONG MẮT NGƯƠI THẤY GÌ?” Câu chuyện thứ ba mà chúng ta sẽ xem đến được trước thuật ở 2Vua. 6:15-17 về việc tiên tri Êlisê cầu xin Đức Chúa Trời “mở mắt” cho đầy tớ mình. Đây là lời cầu nguyện của tiên tri Êlisê: “Đoạn, Êlisê cầu nguyện mà rằng: Đức Giêhôva ôi, xin mở mắt kẻ tôi tớ tôi, để nó thấy được. Đức Giêhôva mở mắt người ra, thì người thấy núi đầy những ngựa và xe bằng lửa ở xung quanh Êlisê” (2Vua. 6:17). Câu chuyện nói về việc quân Asyri tiến đánh Ysơraên nhưng các nổ lực tấn công Ysơraên của họ đều thất bại vì cứ mỗi lần họ tiến quân vây đánh thì lực lượng Ysơraên lại an toàn di chuyển đến một địa điểm khác mà họ không biết. Vua Asyri nghi ngờ rằng có nội gián, cho điều tra, và tìm ra được rằng ấy là nhờ Đức Chúa Trời sử dụng tiên tri Êlisê để cảnh báo cho vua Ysơraên chứ chẳng phải có nội gián trong quân Asyri. Vua Asyri quyết định đem quân vây bắt tiên tri Êlisê. Người đầy tớ của vị tiên tri này hết sức lo sợ khi thấy quân Asyri quá đông, tưởng rằng không thể nào thoát khỏi chết. Tiên tri Êlisê cầu nguyện xin Đức Chúa Trời “mở mắt” cho đầy tớ mình thấy sự bảo hộ của Ngài trên những kẻ hầu việc Ngài, và kết quả là… “… Đức Giêhôva mở mắt người ra, thì người thấy núi đầy những ngựa và xe bằng lửa ở xung quanh Êlisê” (2Vua. 6:17b). Có một sự không tương ứng giữa tầm nhìn thế tục đối với những sự thuộc linh và vì thế mà cũng có một sự bất năng trong việc nhận thức quyền năng thuộc linh theo lý trí tự nhiên. Điều khác nhau trong tầm nhìn của Êlisê với người đầy tớ mình là ở chỗ Êlisê nhận thức được sự quan phòng Thiên Thượng của Đức Chúa Trời trên Dân Ngài, còn người đầy tớ của Êlisê thì không. Với sự nhận thức của lý trí tự nhiên, Môise không thể nào tin được rằng một người chăn chiên với một cây gậy chăn chiên xấu xí, cũ kỹ lại có thể trở về Ai Cập, đương đầu trực diện với Pharaôn để giải phóng cho dân tộc mình! Với sự nhận thức của lý trí tự nhiên, người vợ góa của một môn đồ của tiên tri Êlisê không thể nào tin được rằng sự sống của gia đình mình có thể tồn tại được với chỉ một chút dầu sót lại trong bình! Với sự nhận thức của lý trí tự nhiên, người đầy tớ của tiên tri Êlisê không thể nào dám nghĩ rằng hai thầy trò có thể sinh tồn giữa trùng vây của đạo quân Asyri! Dầu vậy… “30Vả, ấy là nhờ Ngài mà anh em ở trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan, sự công bình, sự nên thánh, và sự cứu chuộc cho chúng ta; 31hầu cho, như có lời chép rằng: Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa” (1Cô. 1:30-31). Đức Chúa Trời thích trọng dụng những con người bình dị mà giàu ý chí vâng phục cho sự vinh hiển của Ngài: “26Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng… 29để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời… 31hầu cho, như có lời chép rằng: Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa” (1Cô. 1:26, 29, 31). Đức Chúa Trời muốn cất đi sự yếu đuối của chúng ta và ban cho chúng ta quyền năng của Ngài (“Trong tay ngươi cầm gì?”), Ngài muốn được chúng ta dâng trình nhu cần của mình cho Ngài để Ngài cung ứng cho chúng ta (“Trong nhà ngươi có gì?”), và Ngài muốn cất đi tầm nhìn thiển cận của chúng ta để ban cho chúng ta tầm nhìn sâu rộng của Ngài (“Trong mắt ngươi thấy gì?”). Bằng tất cả những điều ấy, Đức Chúa Trời muốn chúng ta dâng đời sống mình cho sự vinh hiển của Ngài! “Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa” (1Cô. 1:31b) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“QUAN HỆ GIA ĐÌNH CƠ ĐỐC” (Êph. 5:22-23) “Mỗi người trong anh em phải yêu vợ mình như mình, còn vợ thì phải kính chồng.” (Êph. 5:33) Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh cho biết rằng trong các gia đình phi Cơ Ðốc, vừa không thể nào tìm ra được sự thánh khiết vừa không làm sao tìm thấy được tình yêu thực sự. Vào thời điểm Ðức Chúa Jêsus thi hành chức vụ trên trần gian, xã hội ngoại giáo đã thoái hóa đến cao độ; sự thoái hóa ấy nói lên rằng Ðức Chúa Jêsus đến thế gian là cần thiết để “Tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu. 19:10). Trong xã hội hiện nay, sự thoái hóa ấy càng dễ nhận thấy hơn; vì vậy, nhu cần xây dựng quan hệ gia đình Cơ Ðốc càng bức thiết hơn nhiều. Để kêu gọi các tín hữu ở Hội Thánh Êphêsô có đời sống nhiệt thành và thánh khiết, Sứ Đồ Phaolô đã đề cập đến định chế gia đình và qua đó chúng ta học biết được một số điều quan trọng về mối quan hệ giữa vợ với chồng trong một gia đình cũng như giữa mỗi gia đình với Ðức Chúa Trời. I. ĐỨC CHÚA JÊSUS ĐÃ LÌA BỎ THIÊN ĐÀNG ĐỂ KẾT HIỆP VỚI HỘI THÁNH (Câu 31) Có thể nhận ra được rằng Sứ Đồ Phaolô đã suy nghĩ về mối tương đồng giữa việc một người nam “Lìa cha mẹ mà dính líu cùng vợ mình” (Sáng. 2:24) với việc Ðức Chúa Jêsus đã lìa Đức Chúa Cha để kết hiệp với Cô Dâu của Ngài là Hội Thánh. Sứ Đồ Phaolô xác nhận: “Sự mầu nhiệm ấy là lớn, tôi nói về Ðấng Christ và Hội Thánh vậy” (Câu 32). Quả thật, không còn cách nào đẹp hơn thế để so sánh với sự “Tự bỏ mình đi” (Phil. 2:7) của Ðức Chúa Jêsus trong việc Ngài lìa bỏ Thiên Đàng để đến với nhân loại. Thiên Đàng vốn là nơi vui thích đời đời của Con Một Ðức Chúa Trời. Ngài đã từng an hưởng sự cao trọng không thể tả ở đó, và đó mới là nơi ở hiệp nghi của Ngài. Thế nhưng Đức Chúa Con đã dấn thân và Đức Chúa Cha đã tâm đắc với sự dấn thân của Đức Chúa Con. Đức Chúa Con đã hy sinh cho Cô Dâu của Ngài là Hội Thánh trên trần gian, là cộng đoàn của vô số linh hồn hạnh phúc mà trong đó mỗi một cá nhân đều có được sự liên hiệp chặt chẽ với Ngài. Dầu vậy, chúng ta không thể nào hiểu hết giá trị cao quí của kế hoạch thành hôn của Đức Chúa Con với vợ Ngài là Hội Thánh. Chúng ta cũng không hiểu hết được sự hạ mình của Đức Chúa Con để thực hiện sự kết hiệp với Hội Thánh của Ngài. Không thể có bất cứ sự khiêm hạ nào trong những cuộc hôn nhân trên trần gian này có thể so sánh được với sự hạ mình của Đức Chúa Con trong việc đến với Cô Dâu của Ngài. Ðức Chúa Jêsus đã đến trong khi loài người đang ở trong tình trạng tội lỗi, băng hoại, hư mất hoàn toàn. Chúng ta có thể tưởng tượng ra được một vị hoàng tử có một tình yêu chân thật, nồng nàn với một người nữ tầm thường nào đó; đã thu xếp để đến một thời điểm thích hợp đón nàng về cung điện của mình để chia sẻ tình yêu và sự vinh quang. Thế nhưng việc Ðức Chúa Jêsus đã lìa ngôi cao sang của mình, chính Ngài đã phải trả một giá quá đắt để có thể tuyển lựa Cô Dâu của Ngài là Hội Thánh giữa dòng dõi nhân loại hư hoại là một điều không sao có thể tưởng tượng nổi. Mọi vua trên thế gian này, cho dầu cao sang đến đâu, cũng chỉ là con người, thuộc giữa vòng loài người. Ðức Chúa Jêsus là Vua Thiên Thượng, Ngài là Ðức Chúa Trời. Ðức Chúa Jêsus đã quyết định đến với Cô Dâu nhân loại của mình bằng tình yêu Thiên Thượng. Ðức Chúa Jêsus đã phải mặc lấy bản chất người để đem Ân Điển Thiên Thượng đến cho nhân loại: Ngài cứu chuộc, thanh tẩy, thánh hóa để Hội Thánh có thể hội hiệp với chính mình Ngài. Để chồng có thể hội hiệp trọn vẹn với vợ theo ý chỉ Thiên Thượng rằng “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà dính díu với vợ mình, hai người cùng nên một thịt” (Câu 31), người làm chồng phải ghi khắc sâu đậm trong lòng hình ảnh Ðức Chúa Jêsus đã lìa bỏ Thiên Đàng để kết hiệp với Hội Thánh của Ngài. Dầu Hội Thánh hữu hình chưa trọn vẹn, Ðức Chúa Jêsus vẫn cứ yêu. Dầu Hội Thánh hữu hình chưa hoàn toàn tinh sạch, Ðức Chúa Jêsus không ngừng ban quyền năng thanh tẩy, đổi mới. Bằng một tình yêu không dời đổi, và với Ân Điển vô lượng, vô biên, trong tương lai, Hội Thánh sẽ được trình ra trước mặt Ngài “Đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy” (Câu 27). Ý nghĩa dạy dỗ của công trình cao thượng ấy sẽ luôn luôn có quyền năng giúp cho người làm chồng điều chỉnh được sự quan tâm mà mình cần phải dành cho vợ theo như ý Ðức Chúa Trời muốn. II. SỰ CHĂM SÓC ĐỨC CHÚA JÊSUS DÀNH CHO HỘI THÁNH LÀ MẪU MỰC LÝ TƯỞNG ĐỂ NGƯỜI LÀM CHỒNG NOI THEO TRONG VIỆC CHU TOÀN PHẬN SỰ ĐỐI VỚI VỢ (Câu 25-33) Đây là ý tưởng bao quát mà Sứ Đồ Phaolô muốn dạy dỗ qua phân đoạn Kinh Thánh này. Ý tưởng này đã được diễn đạt theo một thứ tự rất chặt chẽ: 1. “Ðấng Christ đã yêu Hội Thánh” (Câu 25). Tình yêu tối cao và vị tha này của Ðức Chúa Jêsus là cốt lõi xuyên suốt sự tận hiến của Ðức Chúa Jêsus chúng ta. Tâm tình Thiên Thượng của Ðức Chúa Jêsus là dùng khả năng biến đổi của tình yêu thương đối với những linh hồn đang hư mất. Ðức Chúa Jêsus đã quyết định, và Ngài đã thực hiện, Ngài “Đã yêu Hội Thánh”. Tình yêu có sự mầu nhiệm, và vì “Sự mầu nhiệm ấy là lớn”, người làm chồng phải yêu vợ mình như “Ðấng Christ đã yêu Hội Thánh”. 2. “(Ðấng Christ đã) phó chính mình vì Hội Thánh” (Câu 25). Điều này nói lên một tình yêu quả cảm. Theo bản chất của sự vật, người làm chồng không sao có thể thực sự bỏ mình vì tình yêu đối với vợ mà vẫn còn cơ hội để vui hưởng sự dấn thân của mình nữa. Tuy nhiên, Ðức Chúa Jêsus có khả năng phó chính mình Ngài vì Hội Thánh để sau đó bước vào sự kết hiệp làm một với Hội Thánh của Ngài. Dầu vậy, người làm chồng thực sự yêu vợ phải chứng tỏ được trong đời sống gia đình là sẵn sàng phó mình cho tình yêu đối với vợ theo mẫu mực mà Ðức Chúa Jêsus đã nêu gương. Chỉ như thế cuộc kết hiệp giữa vợ với chồng mới được thăng hoa. 3. Sự hy sinh của Ðức Chúa Jêsus là để bảo đảm cho sự nên thánh của Hội Thánh (Câu 26, 27). Suốt chiều dài lịch sử tận hiến của Ðức Chúa Jêsus cho Hội Thánh, chúng ta thấy Ngài luôn giữ vững sự thánh hóa cho chúng ta. Trước hết, khi ban tình yêu thương đến cho những linh hồn tội lỗi, dầu rằng Ðức Chúa Jêsus gớm ghiếc tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài vẫn cung ứng chính huyết mình để tẩy sạch tội lỗi cho chúng ta. Không chỉ dừng lại ở sự thanh tẩy, sự thánh hóa mà Ðức Chúa Jêsus dành cho Hội Thánh của Ngài là nhằm làm cho “Hội Thánh đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được trước mặt Ngài” (Câu 27). Có thể nói cách khác rằng sự thánh hóa mà Ðức Chúa Jêsus dành cho Hội Thánh là trọn vẹn. Phải chăng đây cũng chính là một mẫu mực cho người làm chồng trong việc theo đuổi một tiến trình thánh hóa bền bỉ dành cho vợ mình? Nếu người làm chồng biết cậy ơn Chúa để cố gắng thăng tiến cho sự thánh hóa của vợ, người vợ sẽ không bao giờ phải trở thành nạn nhân của những tham vọng bất khiết mà sẽ được sự thánh hóa ấy khuôn đúc cho nhân cách mình thông qua các mối quan hệ gia đình. 4. Tình yêu hào hiệp dành cho vợ là tình yêu của một bản ngã được thăng hoa (Câu 28-30). Sứ Đồ Phaolô khích lệ tinh thần san sẻ để người chồng có thể bày tỏ được một tình yêu hào hiệp đối với vợ. Chồng và vợ phải được kết hiệp làm một như Ðức Chúa Jêsus với Hội Thánh là một. Cần phải phân biệt giữa ái kỷ (biết chăm nuôi cho mình) với vị kỷ (chỉ biết chăm nuôi cho riêng mình mà thôi). Kinh Thánh không hề đòi hỏi người ta phải ghét thân xác mình. Trái lại, Kinh Thánh dạy mọi người phải biết chăm nuôi cho thân thể được an lành, và đó là điều hợp với bản năng sinh tồn của nhân loại. Người làm chồng phải biết quí trọng việc chăm nuôi chính bản thân mình thì mới có năng lực chăm chút cho vợ trong tình yêu thương. Mối quan tâm dành cho vợ phải được dấy lên từ một sự hiểu biết thường trực rằng người vợ cũng cần có được sự chăm nuôi ân cần như chính bản thân mình cần. Không biết ái kỷ thì cũng sẽ không biết ái nhân. Nhờ biết chăm nuôi chính mình một cách thỏa đáng, bản ngã của người làm chồng được thăng hoa lên một tầm cao mới để có thể biết chăm chút cho vợ trong tình yêu thương chân thật, biết“Yêu vợ như chính thân mình”. Mặt khác, vợ là một phần tất yếu của cuộc sống người làm chồng, thế nên“Ai yêu vợ mình thì yêu chính mình vậy”. Ðức Chúa Jêsus đã trang bị cho chúng ta một kiểu mẫu dấn thân lý tưởng trong việc Ngài nuôi nấng, săn sóc Hội Thánh. Chúng ta không thể đi tìm tinh thần hào hiệp trong phong cách của các nhà hiệp sĩ được. Chúng ta cần phải đến với thập tự giá để học theo gương yêu thương trọn vẹn của chính Ðức Chúa Jêsus đã nêu qua mối quan hệ của Ngài với Hội Thánh. III. TÌNH YÊU TÔN KÍNH CỦA HỘI THÁNH ĐỐI VỚI ĐỨC CHÚA JÊSUS LÀ MẪU MỰC LÝ TƯỞNG CHO SỰ TẬN HIẾN CỦA NGƯỜI LÀM VỢ (Câu 22-24) Sứ Đồ Phaolô chẳng những kêu gọi người làm chồng phải biết nâng mình lên một tầm cao mới để chu toàn phận sự làm chồng, vị Sứ Đồ này còn mời gọi người làm vợ đáp lại tình yêu của chồng bằng một đời sống tận hiến đầy tôn kính. Trên phương diện kính yêu và vâng lời Ðức Chúa Jêsus, Hội Thánh là một mẫu mực lý tưởng cho sự dấn thân trong phận sự làm vợ. Ðức Chúa Jêsus không dắt dẫn Hội Thánh Ngài bằng một chế độ chuyên quyền hà khắc mà là bằng một sự cai quản chu đáo trong tình yêu thương. Ðức Chúa Jêsus luôn biểu lộ sự chăm chút ân cần vô bờ bến của Ngài đối với Hội Thánh. Không hề có sự thịnh nộ của Ðức Chúa Jêsus trong việc chăn dắt Hội Thánh Ngài. Hội Thánh của Ðức Chúa Jêsus luôn cảm thấy được yên ấm, thoải mái. Nhờ đó, từ trong tấm lòng của mỗi người theo Chúa dấy lên được sự khát khao trung tín với Ngài. Người theo Chúa dần dần kinh nghiệm được rằng vâng lời Ngài là một điều thú vị không gì so sánh được. Một khi người làm vợ cũng có được những điều tương tự như thế trong mối quan hệ đối với chồng, tức thấy được rằng mọi ước muốn của chồng đều xuất phát từ một tình yêu chân thật, điều tất yếu phải đến sẽ là một sự vâng lời đầy tin yêu, kính trọng đối với chồng mình. Người làm vợ sẽ “Vâng phục chồng mình như vâng phục Chúa” vì kinh nghiệm được rằng đó không những là bổn phận mà còn là một đặc ân nữa. Kinh Thánh Tân Ước cũng nhấn mạnh khá rõ nét cơ chế quyền lực trong gia đình Cơ Ðốc: “Vì chồng là đầu vợ, khác nào Ðấng Christ là đầu Hội Thánh” (Câu 23). Trong lịch sử dân Chúa, trận chiến đức tin luôn luôn được đắc thắng thông qua gia đình, vì gia đình là đơn vị tổ chức của dân sự Ðức Chúa Trời (Sáng. 2:18). Hội Thánh chỉ là sự mở rộng của đơn vị gia đình (Êph. 2:19). Ngay cả Thiên Đàng cũng chính là gia đình được mở rộng ở một qui mô lớn hơn Hội Thánh, ở đó Ðức Chúa Trời là Cha chung của mọi kẻ tin trong mọi thời kỳ (Khải. 21:4). Nếu Cơ Đốc Giáo muốn bảo đảm cho người tin một gia đình chung thánh khiết trong cõi đời đời, Cơ Đốc Giáo phải thành công trong việc đòi hỏi gia đình mỗi Cơ Ðốc Nhân là một đơn vị có đời sống thánh khiết và yêu thương ngay trên trần gian này. Mỗi gia đình Cơ Ðốc trên thế gian phải là một thiên đàng thu nhỏ thể hiện được trật tự Cơ Ðốc. Gia đình Cơ Ðốc không những chỉ có tình yêu thương mà còn cần phải có một trật tự Cơ Ðốc theo ý chỉ của Ðức Chúa Trời để thực hành đức thánh khiết của Ngài:“Ấy vậy, như Hội Thánh vâng phục dưới Ðấng Christ, thì đàn bà cũng phải phục dưới quyền chồng mình trong mọi sự” (Câu 24). Gia đình Cơ Ðốc phải có quan hệ Cơ Ðốc, và mẫu mực quan hệ Cơ Ðốc được tìm thấy trong mối quan hệ của Ðức Chúa Jêsus với Hội Thánh của Ngài. Ðức Chúa Trời muốn “Mỗi người trong anh em phải yêu vợ mình như mình, còn vợ thì phải kính chồng” (Câu 33). Mối quan hệ giữa chồng với vợ cũng như mối quan hệ của mỗi gia đình với Ðức Chúa Trời đều có mục đích thăng tiến tình yêu và sự thánh khiết của Ngài. Sự hạ cố của Ðức Chúa Jêsus đối với dân Ngài có tác dụng điều chỉnh sự chiếu cố mà chồng phải dành cho vợ; và sự trung thành của dân Chúa đối với Ngài làm mẫu mực cho lòng trung thành mà vợ phải có đối với chồng. Chỉ tuân theo mẫu mực của Ðức Chúa Jêsus đã bày tỏ trong quan hệ với Hội Thánh, mối quan hệ vợ chồng trong mỗi gia đình mới được thắm đượm ơn phước, trật tự gia đình mới được giữ gìn, đời sống gia đình mới được hạnh phúc. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“NHỮNG KẺ THAN KHÓC” (Ma. 5:4) “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi.” (Ma. 5:4) Sống trên đời, khóc - cười là việc không sao tránh khỏi. Thông thường, khi vui người ta mới cười; và khóc là dấu hiệu của việc chẳng hay, ít ai mong muốn. Khóc - cười thể hiện trạng thái tâm lý; là hình thức phản ánh của các kích thích tâm lý - thần kinh, ít khi lệ thuộc sự tác động của ý chí. Phản ứng tâm lý - thần kinh mang tính chủ quan; do đó nhiều khi khóc - cười cũng có thể là “có duyên” hay “vô duyên” đối với các nhận thức khách quan. Dưới ánh sáng Kinh Thánh, theo sự nhìn nhận Thiên Thượng, khóc - cười còn có thể “được phước” hay “mất phước” nữa! Tất nhiên, “được phước” khi phù hợp theo ý chỉ Thiên Thượng của Đức Chúa Trời; và “mất phước” khi không đẹp ý Đức Chúa Trời. A. “NHỮNG KẺ THAN KHÓC” Vì một người không thể nào đến với Đức Chúa Jêsus Christ khi chưa được Đức Chúa Cha đổi lòng, cho nên “kẻ than khóc” cũng đồng thời là người đã được Đức Chúa Trời làm cho đổi lòng. Do đó, người nhận biết tội lỗi và tình trạng vô phương tự cứu của mình trước mặt Đức Chúa Trời, người “có lòng khó khăn” (Ma. 5:3), cũng sẽ đồng thời là người biết xót xa cho tình trạng băng hoại thuộc linh của mình: “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi” (Ma. 5:4). Sự than khóc này không phải chỉ là tâm lý buồn thảm, cũng không phải là trạng thái chấn động tình cảm; mà là nỗi xót xa của tâm linh và là cảm thức ê chề xuất hiện theo sau sự nhận thức về tính chất suy thoái của bản thân. Người công nghĩa không muốn đắm đuối một cách ích kỷ trong sự sa đọa của xác thịt. Người công nghĩa có sự quặn thắt về tội lỗi mình, vì họ tôn trọng những điều Đức Chúa Trời quan tâm. Một khi bắt đầu nhận thức được sự hiện diện của tội lỗi, người có xu hướng công nghĩa cũng biết được rằng sự suy thoái của họ làm tổn thương Đức Chúa Trời thánh khiết nữa: “Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy?” (Rô. 7:24). B. “PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ THAN KHÓC” I. Họ Là Người Công Nghĩa Một người bị bắt, bị phạt vì hành vi tội lỗi có thể sẽ biết hối tiếc về tội lỗi mình đã phạm mặc dầu người ấy có thể chẳng có chút cảm thức tội lỗi nào theo sự cáo buộc của Kinh Thánh. Và, một người theo một loại triết lý hay tôn giáo phi Kinh Thánh nào đó rất có thể sẽ hết sức xót xa vì đã không thể trội vượt lên trên các tiêu chuẩn (phi Cơ Đốc) của những gì họ tin. Đức Chúa Trời chẳng hề “yên ủi” những người “than khóc” phi Kinh Thánh này bao giờ! Đức Chúa Jêsus đang dạy về một loại “than khóc” đến từ sự hạ mình và sự ăn năn thật đẹp ý Đức Chúa Trời. Sự “than khóc” được Đức Chúa Jêsus nói đến ở đây không đến bởi lòng sùng mộ phản Kinh Thánh cũng như sự nản lòng, thoái chí mang tính chất tâm lý cá nhân hay dưới ảnh hưởng xã hội. Nói cho cùng, loại “than khóc” được nêu ra ở đây là loại “than khóc” của sự tin kính chứ không phải là sự than khóc bất kính của đời thường: “Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, và sự hối cải dẫn đến sự rỗi linh hồn; về sự đó người ta chẳng hề ăn năn, còn sự buồn rầu theo thế gian sanh ra sự chết” (2Cô. 7:10). Người có lòng công nghĩa – tức là người đã được Đức Chúa Trời chứng giải, chứng tri, và chứng chiếu – không những chỉ xót xa cho tội lỗi của riêng mình mà còn biết tiếc cho tội lỗi của người khác, nhất là của những người cùng chung trong một cộng đồng thuộc linh, chung Hội Thánh. Khi Đức Chúa Trời bày tỏ tội lỗi cho Êsai, Nhà Tiên Tri đã hết sức thấm thía về những gì mình được chứng giải; đã “than khóc” chẳng những cho bản thân mà còn cho tội lỗi của những người sống chung quanh mình nữa: “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi! Vì tôi là người có môi dơ dáy, ở giữa một dân có môi dơ dáy, bởi mắt tôi đã thấy Vua, tức là Đức Giêhôva vạn quân!” (Ês. 6:5). Cùng một cách tương tự, Giêrêmi đã bày tỏ sự “than khóc” tột độ của mình về tội lỗi trong các Sách Giêrêmi và Ca Thương (và Đức Chúa Trời đã phát vãn Dân Ngài y theo như Giêrêmi đã nói tiên tri). Về sau, khi Đaniên nói về Đức Chúa Trời cùng với lời hứa của Ngài về việc phục hồi Dân Ngài, (cũng như Giêrêmi đã nói), Đaniên cũng “than khóc” cho tội lỗi của dân mình: “4Vậy, ta cầu nguyện Giêhôva Đức Chúa Trời ta, và xưng tội cùng Ngài mà rằng: Ôi! Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng khiếp sợ! Ngài giữ lời giao ước và sự nhân từ đối với những kẻ yêu Ngài và giữ các điều răn Ngài, 5chúng tôi đã phạm tội, làm sự trái ngược, ăn ở hung dữ, chúng tôi đã bạn nghịch và đã xây bỏ các giềng mối và luật lệ của Ngài” (Đa. 9:4-5). II. Họ Thuộc Về Đức Chúa Trời Theo văn mạch của “Bài Giảng Trên Núi”, có thể là Đức Chúa Jêsus bao gồm cả sự “than khóc” của người tín hữu đối với sự chống đối, bắt bớ của những người không tin: “10Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy! 11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:10-12). Đức Chúa Jêsus phán cho biết rằng những ai chịu “than khóc” sẽ được “phước”; không phải được phước vì chính hành vi “than khóc” mà là sự “than khóc” nói lên được họ là ai, tấm lòng của họ thế nào,… Sự than khóc của một cá nhân thể hiện trạng thái thuộc linh của họ là điều Đức Chúa Trời quan tâm. Người “than khóc” vì nhận thức được tình trạng tội lỗi của bản thân cũng sẽ được “phước” như người “than khóc” vì bị áp bức bởi các thế lực tội lỗi. Đối với những ai giảng dạy và tuân hành các điều răn của Đức Chúa Trời, người đời này sẽ đàn áp họ. Sự áp bức trên những người “than khóc” vì cớ sự công bình của Đức Chúa Trời có nhiều hình thái và cấp độ khác nhau, từ các xu thế xã hội vô đạo cho đến những chính sách tàn bạo của các thể chế trong đời này. Đối với những ai chịu áp bức như thế mà vẫn vững lòng tin nơi sự yên ủi và giải cứu của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ đáp ứng sự trông cậy của họ bằng mọi thứ phước thiêng liêng từ nơi Ngài, vì họ thuộc về Ngài: “18Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét Ta trước các ngươi. 19Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và Ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi” (Gi. 15:18-19). III. Họ Không Còn Ở Dưới Sự Phán Xét Qua lời phán này, Đức Chúa Jêsus cũng còn vạch rõ thế đối lập trong cách nghĩ của người đời. Có nhiều người vốn phá sản về thuộc linh nhưng họ không hề biết như thế, họ vẫn cứ làm như thể là mình sung mãn về thuộc linh lắm: Thay vì phải “than khóc”, họ tự đắc về vi phạm mình. Có lắm người trong vai trò “chức sắc tôn giáo” vẫn tỏ ra an nhiên trong việc lợi dụng các kẽ hở tổ chức để mưu cầu lợi lộc bản thân! Các tay “anh chị” trong giới giang hồ vẫn hiu hiu tự đắc về lề thói “xã hội đen” của họ! Lắm khi những người “chẳng ra gì” trên phương diện luân lý, đạo đức (ấy là chưa kể đến thân phận tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời) nhưng lại rất vênh váo! Cứ xem tình trạng “được đằng chân, lân đằng đầu” của các trào lưu hắc ám trong xã hội ngày nay là đủ biết. Họ không hề có bất cứ một chút gì là “kính sợ” Đức Chúa Trời cả. Họ không bao giờ đếm xỉa đến Đức Chúa Trời. Hơn nữa, họ tự cho mình là một loại “thượng đế” hoặc nghĩ rằng Thượng Đế tồn tại là để nuông chìu họ! Kinh Thánh không cho thấy Đức Chúa Trời phải như thế. Kinh Thánh dạy cho biết rằng Đức Chúa Trời chỉ tha thứ cho những ai được Ngài ban cho sự ăn năn thật. Ngoại giả, Đức Chúa Trời định tội nặng nề cho các tội nhân không chịu ăn năn về tội lỗi mình, không biết “than khóc” cho thân phận mình theo sự nhìn nhận của Ngài. Những hạng người này chẳng những tự đắc về tội lỗi của họ, họ còn ủng hộ cho những ai sống giống như họ nữa. Thậm chí, có những người tự nhận mình là Cơ Đốc Nhân nhưng vẫn bất chấp sự dạy dỗ của Kinh Thánh một cách hiển nhiên. Giữa vòng các Hội Thánh ngày nay trên thế giới, người ta vẫn thường công khai ủng hộ các thần học gia giả danh thần học gia, hoặc lập những con người bất minh, bất chính và bất kính vào các vai trò lãnh đạo thuộc linh : “Dầu họ biết mạng lịnh Đức Chúa Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết, thế mà chẳng những họ tự làm thôi đâu, lại còn ưng thuận cho kẻ khác phạm các điều ấy nữa” (Rô. 1:32). Ngày nay, người ta thường tỏ ra tự đắc về việc có một lập trường “cởi mở” đối với những điều phi Kinh Thánh. Dầu vậy, Sứ Đồ Phaolô lên án những việc như thế một cách nặng nề. Theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, thay vì dung túng thái độ không ăn năn và các sự vi phạm luân lý, đạo đức; thay vì đồng tình với các sự giảng dạy tà vạy và những kẻ lầm đường lạc lối; chúng ta phải có thái độ thẳng thắn đối với họ, sẵn sàng loại trừ khỏi Hội Thánh những kẻ không chịu ăn năn: “1Có tin đồn ra khắp nơi rằng trong anh em có sự dâm loạn, dâm loạn đến thế, dẫu người ngoại đạo cũng chẳng có như vậy: là đến nỗi trong anh em có người lấy vợ của cha mình. 2Anh em còn lên mình kiêu ngạo! Anh em chẳng từng buồn rấu, hầu cho kẻ phạm tội đó bị trừ bỏ khỏi vòng anh em thì hơn!” (1Cô. 5:1-2). “12Vì chưng có phải tôi nên đoán xét kẻ ở ngoài sao? Há chẳng phải anh em nên đoán xét những người ở trong sao? 13Còn như kẻ ở ngoài, thì Đức Chúa Trời sẽ đoán xét họ. Hãy trừ bỏ kẻ gian ác khỏi anh em” (1Cô. 5:12-13). Sự dạy dỗ của Kinh Thánh là rất hiển nhiên. Dầu vậy, ngày nay chỉ có một thiểu số cộng đoàn Dân Chúa là giữ lòng trung tín trong việc thi hành các mệnh lệnh Kinh Thánh đối với các sự vi phạm Kinh Thánh. Còn tệ hơn thế, hiện đang có một xu hướng muốn để cho những người vi phạm Kinh Thánh lãnh đạo Hội Thánh “dầu họ biết mạng lịnh Đức Chúa Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết…”! Tương tự như việc người công nghĩa và người bất nghĩa có các thái độ đối nghịch nhau đối với vấn đề tội lỗi, Đức Chúa Trời đã định phận trái ngược nhau cho hai hạng người ấy. Kinh Thánh cho biết rằng Đức Chúa Trời sẽ trút cơn giận Ngài trên những ai dung túng tội lỗi, đang đùa với tội lỗi. Ngày nay, có nhiều người cứ khăng khăng rằng Đức Chúa Trời chỉ muốn cho họ được vui (theo cách của họ), và họ lấy sự giả định phi Kinh Thánh ấy làm nguyên tắc để ra các quyết định cho đời sống của mình. Vì họ tưởng rằng Đức Chúa Trời sẽ chìu chuộng họ, Ngài sẽ không hạn chế tư dục của họ; cho nên họ được phép sống theo cách họ thích! Theo Kinh Thánh, Đức Chúa Trời không bao giờ như thế cả! “Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật” (Rô. 1:12). “3Vì ý muốn của Đức Chúa Trời, ấy là khiến anh em nên thánh: Tức là phải lánh sự ô uế, 4mỗi người phải biết giữ thân mình cho thánh sạch và tôn trọng, 5chẳng bao giờ sa vào tình dục luông tuồng như người ngoại đạo, là kẻ không nhìn biết Đức Chúa Trời. 6Chớ có ai phỉnh phờ anh em mình, hay là làm hại anh em bất kỳ việc gì, vì Chúa là Đấng báo oán những sự đó, như chúng tôi đã nói trước cùng anh em và đã làm chứng. 7Bởi chưng Đức Chúa Trời chẳng gọi chúng ta đến sự ô uế đâu, bèn là sự nên thánh vậy. 8Cho nên, ai khinh bỏ điều chúng tôi nói, thì không phải khinh bỏ người ta đâu, bèn là khinh bỏ Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban Thánh Linh của Ngài trong anh em” (1Tê. 4:3-8). “Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đương no, vì sẽ đói! Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đương cười, vì sẽ để tang và khóc lóc” (Lu. 6:25). Hai hạng người, hai định phận đối nghịch nhau. Nếu sự đoán phạt để dành cho kẻ bất nghĩa thì phước hạnh của Đức Chúa Trời đang chờ đón những ai biết trăn trở, xót xa về vi phạm mình để rồi từ đó có thể đến với Ngài, tìm được ơn trong lúc có cần: “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi” (Ma. 5:4). Cười là cười và khóc là khóc, Đức Chúa Trời không hề ban phước cho tự thân tiếng cười hay tiếng khóc. Người có cảm thức về tội lỗi của mình (hoặc của người chung quanh), có ý chí quyết lòng từ bỏ (hay cảnh tỉnh cho người khác từ bỏ) là người được phước của Đức Chúa Trời vì nhờ đó mà người ta có thể có thể đến với sự sống đời đời qua sự tái sinh. Cuộc biến đổi thuộc linh thiêng liêng trong đời sống cá nhân bắt đầu từ cảm thức ăn năn của cá nhân về tội lỗi. Sự quặn thắt về thân phận dẫn người ta đến sự hối cải, và bởi ơn của Đức Chúa Trời, sự hối cải giúp thay đổi được định phận đời đời của mình: “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi” (Ma. 5:4); “Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, và sự hối cải dẫn đến sự rỗi linh hồn; về sự đó người ta chẳng hề ăn năn, còn sự buồn rầu theo thế gian sanh ra sự chết” (2Cô. 7:10). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |