“SỰ CỨU CHUỘC GIÁNG SINH” (Gal. 4: 4-5) “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài.” (Gal. 4: 4-5) Trong các lễ hội của Cơ Đốc Giáo, Lễ Giáng Sinh có xuất xứ muộn nhất. Tên gọi của lễ là hình thức tỉnh lược của hai từ liệu “Christ’s” (của Chúa) với “mass” (đám đông, quần chúng) thành ra “Christmas”. Tên gọi này chỉ được sử dụng vào thời Trung Cổ trở về sau mà thôi. Vào các thế kỷ đầu tiên của Cơ Đốc Giáo, các Cơ Đốc Nhân thích làm lễ kỷ niệm ngày chết của người họ kính yêu hơn là ngày sinh. Từ rất sớm, lịch sử Hội Thánh cho thấy đã có việc kỷ niệm hàng năm ngày chịu chết của Đức Chúa Jêsus, và ngày tử đạo của một số thánh đồ. Dầu vậy, từ trước thế kỷ thứ tư, các Hội Thánh ở Đông Aicập, Tiểu Á, và ở Antiốt đều đã biết kỷ niệm ngày Đức Chúa Trời hiển minh cho thế gian khi Đức Chúa Jêsus chịu Báptem dưới sông Giôđanh (Epiphany, Ma. 3:16-17). Tuy nhiên, việc kỷ niệm ngày Đức Chúa Trời hiển minh cho thế gian khi Đức Chúa Jêsus chịu Báptem dưới sông Giôđanh về sau đã được liên kết với việc kỷ niệm ngày Đức Chúa Jêsus hiển minh cho các Bác Sĩ đến từ Đông Phương (Ma. 2:1-12), và sau đó là với ngày Ngài giáng sinh ở Bếtlêhem (Lu. 2:1-12) để chỉ còn là ngày kỷ niệm Đức Chúa Jêsus giáng sinh, hay Lễ Giáng Sinh, mà thôi. Dấu vết cổ của ngày lễ này còn thấy trong một nghi lễ của Anh Quốc Giáo: Cứ đến ngày 06 Tháng Giêng hàng năm, Quốc Vương Anh Quốc thực hiện lễ dâng Vàng, Nhũ Hương, và Một Dược trong Nhà Thờ Hoàng Gia. Vào tiền bán thế kỷ thứ tư, các Cơ Đốc Nhân ở Rôma đã bắt đầu kỷ niệm ngày Đức Chúa Jêsus giáng sinh. Tập tục ấy phát triển nhanh chóng đến mức vào cuối hậu bán thế kỷ thứ tư phần lớn các nơi trên thế giới đều có Lễ Giáng Sinh. Có một sự kiện làm cho Lễ Giáng Sinh được nhấn mạnh ở thế kỷ thứ tư là cuộc tranh luận về bản chất của Đức Chúa Jêsus. Câu hỏi được đặt ra là “Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời nhập thể thành người hay cũng chỉ là loài thọ tạo?”. Từ đó, giáo lý nhập thể được đề cao: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha” (Gi. 1:14). Có vẻ như Lễ Giáng Sinh đã được sử dụng như một phương thức cấp thiết cho việc xác lập giáo lý Kinh Thánh ấy. Không hề có một bằng chứng xác thực nào cho biết rằng ngày Đức Chúa Jêsus giáng sinh là ngày 25 Tháng Mười Hai. Ngày 25 Tháng Mười Hai đã được chọn có lẽ là do các nguyên nhân phong tục chứ không phải theo lý lẽ thần học. Khắp các miền thuộc đế quốc La Mã, có nhiều cuộc lễ gắn liền với tiết Đông Chí là ngày mà sau đó mặt trời sẽ tiến gần hơn về địa cầu, khí hậu trở nên ấm dần lên. Tại Rôma, xưa kia có ngày lễ Nhật Hưng (Unconquerable Sun) nhằm 25 Tháng Chạp, kỷ niệm “ngày trở lại của mặt trời” sau mùa Đông giá băng. Có lẽ khi Cơ Đốc Giáo trở thành quốc giáo của đế quốc La Mã (Công Giáo La Mã), Nhà Nước đã cho bãi bỏ ngày lễ ấy hoặc cho biến cải ngày lễ ấy thánh Lễ Giáng Sinh. Quả thật là rất phù hợp nếu chọn tiết Đông Chí làm ngày kỷ niệm Đức Chúa Jêsus giáng sinh: Ngài là Mặt Trời Chân Lý, đem đến Ánh Sáng Sự Sống, xua tan đêm Đông tội lỗi trên thế gian này. Lễ Giáng Sinh nhằm vào một thời điểm khí hậu ấm lên để xua đi mùa Đông giá băng. Trên phương diện thuộc linh, Lễ Giáng Sinh nhắc nhở về sự cứu chuộc Thiên Thượng giáng sinh xuống thế gian đang đắm chìm trong Đông dài tội lỗi. Sự sống mùa Đông chỉ là sự tiềm sinh thoi thóp, đó chính là sự chịu đựng chứ không phải là sự sống động. Không gian Mùa Đông là một không gian im lặng… I. THỜI ĐIỂM HOÀN HẢO “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn…” (Gal. 4:4a) Trong dòng lịch sử nhân loại cũng có một thời kỳ im lặng kéo dài 400 năm giữa Cựu Ước với Tân Ước. Trong khoảng thời gian này, không hề có lấy một nhà Tiên Tri nào nói tiên tri, cũng không có lấy một lời Kinh Thánh nào được viết thêm. Thiên Đàng trông có vẻ chẳng có một hoạt động nào, nhưng thật ra là Đức Chúa Trời đang chuẩn bị thế gian cho Con Ngài giáng sinh. Đức Chúa Trời là Đấng khôn ngoan. Ngài đã chuẩn bị thế gian sao cho khi Con Ngài đến thì Tin Lành về Con Ngài có phương tiện truyền bá được khắp nơi cho muôn dân. Trong 400 năm ấy, Đức Chúa Trời đã làm cho các điều kiện văn hóa - xã hội - tôn giáo sẵn sàng để đón nhận Tin Lành. Alécxanđơ đại đế đã chinh phục được đế quốc Batư và bởi đó cai trị trên người Do Thái vào khoảng năm 333 TC. Khác với ngày xưa, tại tháp Babên, Đức Chúa Trời đã làm cho tiếng nói của con người trở nên dị biệt để cất bỏ tham vọng ngông cuồng của họ (Sáng. 11:1-9); khi Đức Chúa Trời cho phép đế quốc Hylạp dấy lên, Ngài có vẻ như muốn dùng một thứ ngôn ngữ phổ cập để rao truyền Tin Lành về sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus: Tiếng Hylạp. Thật vậy, khi đế quốc Hylạp chinh phục được thế giới, Tiếng Hylạp đã trở thành thứ tiếng phổ cập hầu như đối với mọi nền văn minh. Mọi nước đều đọc và viết Tiếng Hylạp, mọi văn bản pháp qui đều được thực hiện bằng Tiếng Hylạp. Khi xử đóng đinh Đức Chúa Jêsus trên thập tự giá, Philát cho đề bảng ở trên đầu Ngài rằng “Người Này Là Jêsus, Vua Dân Giuđa” (Ma. 27:37) có cả bằng Tiếng Hylạp cho mọi người đều biết, vì ai nấy đều có thể đọc được Tiếng Hylạp. Vì tính chất phổ cập của Tiếng Hylạp, Đức Chúa Trời đã cho phép Kinh Thánh Tân Ước được viết bằng thứ tiếng ấy hầu cho Tin Lành được truyền bá rộng rãi khắp nơi. Không có sự phổ cập của Tiếng Hylạp, các môn đồ của Đức Chúa Jêsus sẽ ít thuận lợi hơn trong việc đem sứ điệp của Ngài đến với toàn thế giới; nhưng sự đóng góp của nền cai trị La Mã cũng góp phần quan trọng trong sứ mệnh ấy. Sau khi chinh phục được các xứ, người La Mã thiết lập một chính quyền trên qui mô toàn cầu. Thời ấy, người ta đi từ nơi này qua nơi khác mà không cần giấy hộ chiếu, không cần phải có chiếu khán thị thực, không sợ mắc kẹt vì chiến tranh, không sợ bị khủng bố,… Thêm vào đó, đế quốc La Mã xây dựng được một hệ thống đường giao thông xuyên lãnh thổ tốt chưa từng thấy, việc đi lại hết sức dễ dàng. Nhờ đó, việc các môn đồ của Đức Chúa Jêsus đi truyền bá Tin Lành đã diễn ra thật thuận lợi. Thành ngữ “Đường nào cũng đến La Mã” ngầm nói lên rằng mọi nẻo đường đều thuộc quyền kiểm soát của đế chế La Mã, và hệ thống đường giao thông của đế quốc La Mã tỏa rộng ra khắp nơi. Về tôn giáo, cho đến thời Đức Chúa Jêsus giáng sinh, chỉ duy nhất người Do Thái có niềm tin đặt nơi Đức Chúa Trời: “Hỡi Ysơraên! hãy nghe: Giêhôva Đức Chúa Trời chúng ta là Giêhôva có một không hai. Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi” (Phục. 6:4-5). Dầu vậy, thế giới ngoại giáo sống chung quanh người Do Thái vẫn là một biển đa thần mênh mông. Cả người Hylạp lẫn người La Mã đều có rất nhiều thần cả nam lẫn nữ. Thậm chí, người La Mã còn muốn cả thế giới phải thờ Sêsa như một vị thần. Trong lãnh thổ của đế quốc La Mã, ai muốn được thờ thần của mình thì trước tiên phải thờ Sêsa! Giữa vòng hàng ngàn thần lặt vặt, Đức Chúa Trời đã dùng người Do Thái để giúp cho thế giới biết Ngài là chân thần duy nhất. Đức Chúa Trời cũng đã dùng người Do Thái phổ biến niềm kỳ vọng nơi một Đấng Mêsia, là Đấng Cứu Thế, sẽ đến để cứu cả dòng dõi nhân loại ra khỏi tội lỗi. Cho đến thời Đức Chúa Jêsus giáng sinh, người Do Thái đã phải trải qua sáu nền cai trị chuyên chế: Aicập, Asyri, Babylôn, Batư, Hylạp, và hiện lúc ấy là đế quốc La Mã. Trong mọi giai đoạn lịch sử, người Do Thái đã phải chịu vùi dập và vì thế mà bị tan rải ra khắp nơi. Tuy nhiên, chính sự tan rải của người Do Thái đã hình thành ở nhiều nước các cộng đoàn Do Thái Giáo mà với họ chỉ có Đức Chúa Trời là chân thần duy nhất. Chính sự hiện diện của người Do Thái trong các địa bàn dân cư đã làm hạt nhân cho việc truyền bá Tin Lành được thuận lợi ngay từ thế kỷ đầu tiên: Các vị Sứ Đồ luôn luôn bắt đầu chức vụ của mình từ các Nhà Hội Do Thái Giáo. “Khi kỳ hạn đã được trọn” nói về nhiều mặt chuẩn bị đã được Đức Chúa Trời cho phép có sẵn đúng thời điểm để Tin Lành về Con Ngài được rao ra thuận lợi: Một thứ ngôn ngữ phổ cập, một nền hòa bình ổn định, một hệ thống giao thông rộng rãi và thuận lợi, một sự hiểu biết về ý niệm độc thần, một kỳ vọng về Đấng Cứu Thế, và một sự hiện diện rộng rãi của các cộng đoàn Do Thái Giáo ở khắp nơi. II. CỨU CHÚA CHÂN THỰC “Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp” (Gal. 4:4b-5a). Tôn giáo đời này có lắm thần, nhiều chúa; nhưng chỉ duy nhất Đức Chúa Jêsus là Cứu Chúa chân thực. Đức Chúa Trời không phái một Thiên Sứ hay dấy lên một nhà lãnh đạo vĩ đại để cứu nhân loại, vì loài thọ tạo không thể nào có quyền năng cứu chuộc. Đức Chúa Trời biết rõ nhu cần to lớn của nhân loại và Ngài đã ban Con Ngài đến. Ngoài Con Đức Chúa Trời, không thể có bất cứ gì khác đáp ứng được nhu cần của chúng ta, và sự trông mong của Đức Chúa Trời là làm sao nhu cần thuộc linh của chúng ta phải được thỏa mãn một cách hoàn toàn và một cách đầy thương xót: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Gi. 3:16). Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời. Sứ Đồ Phaolô nói cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Jêsus đến từ Đức Chúa Trời và Ngài chính là Đức Chúa Trời. Ngài có bản chất Thiên Thượng (Sv. Gi. 10:36-38). Đức Chúa Jêsus là sự hoàn hảo của nhân loại. Sứ Đồ Phaolô nói cho các tín hữu ở Hội Thánh Galati biết rằng Đức Chúa Jêsus “bởi một người nữ” sinh ra. Khi chúng ta đọc đến điều ấy, chúng ta có khuynh hướng nghĩ đến sự giáng sinh đồng trinh. Trên một phương diện, quả đúng là như thế. Tuy nhiên, ở đây Sứ Đồ Phaolô muốn nhấn mạnh việc Đức Chúa Jêsus bước vào thế gian này cũng giống như mọi người khác: Ngài được “sanh ra”. Đây chính là cách nói để Sứ Đồ Phaolô nhấn mạnh về nhân tính hoàn hảo của Đức Chúa Jêsus. Trong nhân thể của Đức Chúa Jêsus, quyền toàn năng của Đức Chúa Trời được chuyển giao vào trong cánh tay con người. Trong nhân thể của Đức Chúa Jêsus, sự khôn ngoan Thiên Thượng được đặt vào não bộ con người. Trong nhân thể của Đức Chúa Jêsus, tình yêu thương Thiên Thượng rung động trong trái tim con người. Trong nhân thể Đức Chúa Jêsus, sự thương xót Thiên Thượng lấp lánh trong ánh mắt của con người. Trong nhân thể Đức Chúa Jêsus, Ân Điển Thiên Thượng tuôn tràn qua đôi môi của con người,… Đức Chúa Jêsus là sự hoàn hảo của Luật Pháp. Đức Chúa Jêsus được sinh ra dưới Luật Pháp để làm cho hoàn thành Luật Pháp. Luật Pháp đòi hỏi một đời sống hoàn hảo mà Kinh Thánh cho biết là ngoài Đức Chúa Jêsus ra không ai có thể đạt đến được. Đức Chúa Jêsus đã sống một đời sống không hề nhiễm tội để làm nên sự cứu rỗi cho toàn thể nhân loại. Đức Chúa Jêsus đã đến để làm cho chúng ta những gì chúng ta không thể nào tự thực hiện cho mình được. Đức Chúa Jêsus đến để cứu chuộc. Đức Chúa Jêsus là sinh tế cho tội lỗi của chúng ta: Đức Chúa Jêsus tự nguyện lấy huyết Ngài làm của tế lễ cho tội lỗi của chúng ta. Đức Chúa Jêsus đã phải chịu chết để chuộc chúng ta trở lại vì “Không đổ huyết thì không có sự tha thứ” (Hê. 9:22). Cứu chuộc có nghĩa là “Mua lại để giải thoát khỏi tình trạng ràng buộc bằng một khoản tiền chuộc”. Đức Chúa Jêsus là Cứu Chúa Hoàn Hảo cứu chuộc chúng ta ra khỏi tình trạng tội lỗi. Mục đích của Đức Chúa Jêsus là giải thoát nhân loại thoát khỏi các hệ quả của tội lỗi. Đức Chúa Jêsus chỉ có thể cứu được chúng ta bằng cách đến ở cùng chúng ta và làm cho chúng ta được ở cùng Ngài. Ngài nhận chúng ta làm con của Ngài. III. CON NUÔI CHÂN CHÍNH “Và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài” (Gal. 4:5b). Theo văn hóa La Mã, sự nhận làm con là một thủ tục pháp lý hoàn chỉnh. Một khi đã được nhận làm con, người ta sẽ không bao giờ bị truất miễn nữa. Sự nhận làm con có hiệu lực tức thì và vĩnh viễn. Một khi tiến trình nhận làm con hoàn tất, người được nhận làm con lập tức có đủ mọi quyền hợp pháp theo luật. Sự nhận làm con mang tính dứt khoát. Người được nhận làm con không còn có bất cứ sự ràng buộc nào đối với gia đình cũ trước đó nữa. Điều này nghe có vẻ phủ phàng nhưng thật ra là điều tốt, vì chỉ có những ai bị ở trong thân phận nô lệ mới được chuộc làm con. Người được nhận làm con trở thành một người mới hoàn toàn. Đối với Cơ Đốc Nhân chúng ta, được nhận làm con đem lại một mối tương giao tươi mới với Đức Chúa Trời. Sự nhận làm con khiến cho Đức Chúa Trời trở thành Cha của chúng ta. Thật là một phước hạnh lớn lao khi có một người Cha là Đấng đã sáng tạo ra và đang tể trị cả vũ trụ này! Sự nhận làm con đem lại một gia đình cho tất cả các con cái của Đức Chúa Trời. Sự nhận làm con khiến cho chúng ta trở nên con người mới. Con người cũ của thế gian, gia đình cũ theo cách ăn ở của đời ác này được đoạn tuyệt và mọi sự khởi đầu trở lại trong gia đình mới của Đức Chúa Trời. Sự nhận làm con bảo đảm cho chúng ta một nơi ở đời đời. Khi Đức Chúa Trời nhận chúng ta làm con, Ngài dành cho chúng ta một chỗ ở mới trên Thiên Đàng: “…2Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. 3Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Gi. 14:2-3). Đã qua hơn hai ngàn năm nhưng sứ điệp giáng sinh vẫn còn nguyên giá trị: “10Đừng sợ chi; vì nầy, ta báo cho các ngươi một Tin Lành, sẽ là một sự vui mừng lớn cho muôn dân. 11Ấy là hôm nay tại thành Đavít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa” (Lu. 2:10-11). Lễ Giáng Sinh nhắc nhở về sự cứu chuộc “Nhờ Ân Điển, bởi đức tin” (Êph. 2:8) bởi một Cứu Chúa chân thực để ai tin nhận Ngài sẽ được làm con chân chính của Đức Chúa Trời (Gi. 1:12). Thế nhưng, Đức Chúa Jêsus hiện đang có vị trí như thế nào trong đời sống của chúng ta? Đức Chúa Trời muốn chúng ta “Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình” (1Phi. 3:15). Hãy đem Lễ Giáng Sinh vào mỗi đời sống cá nhân để Đức Chúa Jêsus giáng sinh trong chính tấm lòng của mình hầu cho chúng ta có được sự cứu chuộc trọn vẹn của Ngài. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Comments are closed.
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |