REV. ĐOÀN NHẬT TÂN, PHD
  • Tư Phong
  • Tư Niệm
  • Tư Biện
  • Tư Cách
Picture

“TƯ NIỆM”

31/8/2022

 
Picture
“ĐỂ ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC”
(Thi. 1:1-3)
“Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ,_Chẳng đứng trong đường tội nhân,_Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng.”
(Thi. 1:1)
​Kinh Thánh phán: “1Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ,_Chẳng đứng trong đường tội nhân,_Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng;_2Song lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva,_Và suy gẫm Luật Pháp ấy ngày và đêm._3Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước,_Sanh bông trái theo thì tiết,_Lá nó cũng chẳng tàn héo;_Mọi sự người làm đều sẽ thạnh vượng.” (Thi. 1:1-3)
Để được Đức Chúa Trời ban phước, theo Lời Kinh Thánh, chúng ta phải sống theo một số điều nhất định nào đó và phải tránh xa những điều nhất định nào đấy! Người muốn được Đức Chúa Trời ban phước không thể bị tìm thấy giữa vòng những người đi theo con đường chống nghịch lại Đức Chúa Trời, không biết kính sợ Đức Chúa Trời, tự đặt ý muốn riêng của mình cao hơn Lời Ngài; trái lại, người muốn được Đức Chúa Trời ban phước phải biết sống một cách khôn ngoan trong mối tương giao mật thiết với Ngài biểu hiện qua việc yêu thích Lời Ngài. 
A. TRÁNH ĐIỀU PHẢI TRÁNH (C. 1).
“Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ,_Chẳng đứng trong đường tội nhân,_Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng.”
1. Người được Đức Chúa Trời ban phước trước hết là người biết ly khai thế gian, tức không sống theo các nguyên tắc của thế gian. Chúng ta phải tránh xa các lời khuyên giục của “kẻ dữ” là người không tin kính Đức Chúa Trời. Chúng ta phải sống theo các nguyên tắc khác với các nguyên tắc trong thế gian này. “Kẻ dữ” (Hb. rasah) được phối hợp từ hai nghĩa khác nhau. Nghĩa thứ nhất nói về trạng thái đạo đức buông thả, và nghĩa thứ nhì nói về việc không chịu ràng buộc với Đức Chúa Trời. “Kẻ dữ” là người không chịu phục tùng dưới các huấn mệnh của Đức Chúa Trời mà chỉ sống theo sự thôi thúc của xúc cảm và sự tham muốn cá nhân mà thôi. “Kẻ dữ” là người không sống theo sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh qua Lời Kinh Thánh. Chúng ta, Cơ Đốc Nhân, không được phép mắc mướu gì với đường lối của “kẻ dữ”.
Kinh Thánh dạy dỗ chúng ta nhiều điều về những sự chúng ta phải sống theo:
(1) Chúng ta phải có lòng kỳ vọng nơi Đức Chúa Trời:
“Vừa buổi sáng, xin cho tôi nghe sự nhân từ Chúa,_Vì tôi để lòng trông cậy nơi Chúa;_Xin chỉ cho tôi biết con đường phải đi,_Vì linh hồn tôi ngưỡng vọng Chúa.” (Thi. 143:8)
(2) Chúng ta phải biết sống theo Lẽ Thật:
“Hỡi Đức Giêhôva, xin hãy chỉ dạy cho tôi biết đường lối Ngài,_Thì tôi sẽ đi theo sự chân thật của Ngài;_Xin khiến tôi một lòng kính sợ danh Ngài.” (Thi. 86:11)
(3) Lời dạy của Sứ Đồ Phaolô về việc chúng ta phải sống như thế nào thật rõ ràng:
“1Vậy, tôi là kẻ tù trong Chúa, khuyên anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với chức phận mà Chúa đã gọi anh em, 2phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều, phải nhịn nhục, lấy lòng thương yêu mà chìu nhau, 3dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh.” (Êph. 4:1-3)
(4) Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải sống dưới sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh:
“…Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt.” (Gal. 5:16)
Chỉ khi nào biết thuận phục theo tiếng phán của Đức Thánh Linh người ta mới có thể tránh khỏi “mưu kế của kẻ dữ” và mới được Đức Chúa Trời ban phước.
2. Người biết ly khai với thế gian sẽ không “đứng trong đường tội nhân”. “Tội nhân” (Hb. chatta) nói về người “thiếu điểm”, không đạt “tiêu chuẩn” được đề ra theo ý chỉ tốt lành của Đức Chúa Trời. “Tiêu chuẩn” là Luật Pháp của Đức Chúa Trời, “tội” là sự vi phạm Luật Pháp của Ngài. Cả nhân loại đều vi phạm Luật Pháp của Đức Chúa Trời, chính vì thế mà Đức Chúa Jêsus đã phải hy sinh đền tội thay trên Thập Tự Giá cho cả nhân loại. Dầu vậy, từ liệu “tội nhân” được sử dụng ở đây nói về người chủ tâm chọn cho mình một lối sống nghịch lại với ý chỉ của Đức Chúa Trời. “Đứng” nói về thái độ của một người đối với Đức Chúa Trời; vậy, Cơ Đốc Nhân phải “đứng” như thế nào?
(1) Phải biết kính sợ Đức Chúa Trời:
 “Khắp thiên hạ khá kính sợ Đức Giêhôva._Các dân thế gian hãy kinh khủng Ngài.” (Thi. 33:8)
(2) Phải giữ vững đức tin đặt nơi Đức Chúa Trời:
“Anh em hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy dốc chí trượng phu và mạnh mẽ.” (1Cô. 16:13)
(3) Phải có mối thông công lành mạnh với các tín hữu khác:
“…Anh em hãy hiệp ý với nhau, đồng tình yêu thương, đồng tâm, đồng tư tưởng…” (Phil. 2:2)
“Chẳng đứng trong đường tội nhân” tất sẽ được đứng trong đường lối, Luật Pháp của Đức Chúa Trời. Đó là chúng ta phải có thái độ kính sợ Đức Chúa Trời, vững vàng trong đức tin, và hiệp thông với các Cơ Đốc Nhân khác.
3. Người biết ly khai với thế gian sẽ “không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng”. “Ngồi” (Hb. mowshab) có nghĩa là ở chung chỗ. “Ngồi” nói về trạng thái, về tình trạng. Để được Đức Chúa Trời ban phước, người biết ly khai thế gian cũng sẽ đồng thời không để mình vướng víu với tình trạng không đẹp ý Đức Chúa Trời của những người chưa được cứu. “Nhạo báng” là chế diễu một điều gì đó vì xem thường. “Kẻ nhạo báng” nói về những người xem thường Đức Chúa Trời và việc thuộc về Đức Chúa Trời, coi trọng sự thuộc thể mà chế diễu sự thuộc linh.
Khi một người biết ly khai thế gian, cả ba phương diện này sẽ được đồng thời ly khai: “… mưu kế của kẻ dữ,_... đường tội nhân,_... chỗ của kẻ nhạo báng.”. Chúng ta không thể nào nhận được phước hạnh từ nơi Đức Chúa Trời trong một trạng thái vẫn còn vướng bận trong thế gian. Tuy nhiên người ta sẽ không thể tránh được những điều phải tránh nếu không chọn đúng được điều phải theo: Đó là biết dầm thấm trong Lời Đức Chúa Trời.
B. THEO ĐIỀU PHẢI THEO (C. 2)
“Song lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva,_Và suy gẫm Luật Pháp ấy ngày và đêm.”
“Lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” có nghĩa là lấy Lời Kinh Thánh làm đối tượng của niềm vui của mình. Người được Đức Chúa Trời ban phước là người có lòng thỏa vui đối với Lời Kinh Thánh và tìm được mọi sự mình yêu thích trong Lời Kinh Thánh. “Lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” là một tiến trình hành động chứ không phải chỉ là một sự biểu hiện của cảm xúc. Người ta chỉ có thể “lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” khi họ đã được Đức Thánh Linh chứng giải về tội lỗi và họ đã ly khai với tội lỗi và thế gian để trở lại với Đức Chúa Jêsus. Chỉ khi nào người ta chịu quay lưng đối với tội lỗi thì Lời Kinh Thánh mới có thể chiếm chỗ trong đời sống của họ được:
“1Vậy anh em đã từ bỏ mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành, 2thì hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn, 3nếu anh em đã nếm biết Chúa là ngọt ngào.” (1Phi. 2:1-3)
Vị giác về Lời Chúa sẽ trở nên nhạt nhẽo nếu Cơ Đốc Nhân không có phương pháp đúng để tự dầm thấm mình trong Lời Kinh Thánh, tránh xa mọi lôi cuốn uế tục của đời này. Chỉ khi nào chúng ta biết đặt mình dưới sự ảnh hưởng của Lời Chúa thì chúng  ta mới thoát khỏi được các ảnh hưởng tà ác của thế gian. Việc “lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” đòi hỏi sự tham gia của ý chí cá nhân:
“Tôi đã giấu Lời Chúa trong lòng tôi,_Để tôi không phạm tội cùng Chúa.” (Thi. 119:11)
“Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi,_Ánh sáng cho đường lối tôi.” (Thi. 119:105)
“Lấy làm vui vẻ về Luật Pháp của Đức Giêhôva” còn có nghĩa chăm chỉ suy gẫm Lời Kinh Thánh. Suy gẫm (Hb. hagah) là suy đi nghĩ lại về sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời và chịu để cho các sự dạy dỗ ấy định hình đời sống của chúng ta:
“Hỡi Đức Giêhôva, xin chỉ dạy tôi con đường luật lệ Chúa,_Thì tôi sẽ giữ lấy cho đến cuối cùng.” (Thi. 119:33)
“Xin chớ cất hết lời chân thật khỏi miệng tôi;_Vì tôi trông cậy nơi mạng lịnh Chúa.” (Thi. 119:43) 
Để nhận được sự dạy dỗ, không thể không suy gẫm Lời Chúa (Châm. 4:20-21). Chúng ta chỉ có thể tìm thấy sự dạy dỗ của Lời Chúa trong ý thức nương cậy và tinh thần cầu nguyện. Mặc dầu đã có lời hứa của Đức Chúa Trời cho Tiên Tri Êli rằng Ngài sẽ ban mưa (1Vua. 18:1) nhưng Êli đã phải đánh hạ các tiên tri của Baanh (1Vua. 18:40), phải dốc lòng cầu nguyện (1Vua. 18:42), và phải trông chừng đến lần thứ bảy (1Vua. 18:44) mới bắt đầu thấy có dấu hiệu của mưa! Đức Chúa Trời muốn định hình chúng ta cho tương thích với các phước hạnh của Ngài, do đó, hễ chúng ta biết để cho Lời Ngài định hình chúng ta thì phước hạnh của Ngài cũng sẽ đến trên đời sống của chúng ta.
C. ĐƯỢC ĐIỀU PHẢI ĐƯỢC (C. 3)
“Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước,_Sanh bông trái theo thì tiết,_Lá nó cũng chẳng tàn héo;_Mọi sự người làm đều sẽ thạnh vượng.”
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “cây” luôn được dùng để nói về sự kết quả. Cũng giống như đời sống thực vật của cây cần đến nước, đời sống thuộc linh của chúng ta cần có nguồn cung ứng dồi dào từ những sự thuộc về Đức Chúa Trời. Nguồn cung ứng của Đức Chúa Trời cho chúng ta là Lời Ngài trong Kinh Thánh, Thánh Linh Ngài trong đời sống chúng ta, Ân Điển Ngài đã cứu chuộc chúng ta, và địa vị công nghĩa mà Ngài đã qui kết cho chúng ta.
Cơ Đốc Nhân là cây “trồng (lại)” (Hb. shathal) để được thuần hóa và kết quả! Cây “trồng lại” là cây được di thực từ một môi trường này đến một môi trường khác. Về bản chất, Cơ Đốc Nhân đã được dời từ quỉ quốc của Satan vào Vương Quốc của Đức Chúa Jêsus. Một khi biết ly khai với thế gian, chịu dầm thấm trong Lời Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ là “cây” được Đức Chúa Trời di thực đến môi trường Ngài đã định sẵn trong Con Ngài để chúng ta kết quả cho sự vinh hiển của Ngài.
Đức Chúa Trời không hề có một chương trình nào để Cơ Đốc Nhân vừa lún sâu trong thế gian vừa vui hưởng phước hạnh của Ngài! Phước hạnh của Đức Chúa Trời luôn ở trong môi trường của Đức Chúa Trời và thuộc về những ai ở trong môi trường ấy.
Phước hạnh cho Cơ Đốc Nhân không thể tìm được trong thế gian, do đó chỉ khi nào Cơ Đốc Nhân biết ly khai thế gian để tuân thủ tiếng phán của Đức Chúa Trời họ mới nhận được phước hạnh của Ngài. Bỏ đi cách ứng xử và hành sử của thế gian để sống một cách đầy nhiệt tâm theo các sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là con đường đem Cơ Đốc Nhân đến với phước hạnh của Đức Chúa Trời. Cơ Đốc Nhân là “cây” đã được Đức Chúa Trời di thực từ môi trường thế gian vào môi trường của Ngài để họ có đời sống thạnh vượng cho sự vinh hiển của Ngài.
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_deduocducchuatroibanphuoc.pdf
File Size: 479 kb
File Type: pdf
Download File


“TƯ NIỆM”

30/8/2022

 
Picture
“ĐỨC CHÚA JÊSUS LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI”
(Gi. 1:1)
“Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.”
(Gi. 1:1)
​Hoạt động trong xã hội loài người có thiên hình, vạn trạng; xã hội mà chúng ta đang sống rất đa dạng, phong phú. Đêm nay, vào giờ này, giữa khi chúng ta nhóm nhau lại ở đây để kỷ niệm Lễ Giáng Sinh của Đức Chúa Jêsus Christ thì vẫn có vô số người đang theo đuổi hết mình đối với những gì họ say mê… Dầu vậy, Lời Kinh Thánh cho biết rằng Đức Chúa Trời đòi hỏi trách nhiệm cá nhân của mỗi người trên lối sống của mình. Đây là một sự thật, và cách duy nhất để giải quyết cho vấn đề này là nhận thức được rằng hài nhi Jêsus đã giáng sinh năm nào chính là Đấng Cứu Chuộc cho nhân loại, và tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình. Chỉ khi nào người ta đã được xưng công nghĩa bởi Đức Chúa Trời nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá, người ta mới có thể thực sự được ở trong trạng thái bình an viên mãn vì nợ tội đã được trả, án tội đã được tha, và ách tội đã được thoát.
 
I. “ĐẠO” TRONG VĂN HÓA ĐÔNG PHƯƠNG
Ngay từ lời đầu tiên của Sách Sáng Thế Ký, lẽ thật về Cuộc Sáng Tạo vũ trụ đã được bày tỏ:
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” (Sáng. 1:1)
Thế rồi lịch sử đã lặp lại theo một cách mới và ý nghĩa mới khi Sách Tin Lành Giăng bày tỏ về sự khởi đầu của chương trình tái tạo nhân loại, chương trình cứu chuộc hoàn hảo của Đức Chúa Trời, công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá ở đồi Gôgôtha:
“Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” (Gi. 1:1)
“Ngôi Lời” được nói đến ở đây là “Đạo”, và ý nghĩa sâu xa của câu Kinh Thánh này là như thế này: “Đạo” chân thực vốn có từ khởi nguyên của giòng thời gian, “Đạo” chân thực phải khởi nguyên từ Đức Chúa Trời, và “Đạo” chân thực duy nhất chính là nguyên thể Đức Chúa Trời”.
Quan niệm văn hóa Đông Phương về “đạo” tạo ra ít nhiều khó khăn cho việc hiểu về “Đạo” theo Kinh Thánh! Trước hết, theo cách hiểu Đông Phương, “đạo” luôn luôn gắn liền với “giáo”, và được gọi chung là “đạo giáo”. Quan niệm Đông Phương cho rằng chức năng chủ yếu của “đạo” là “giáo”, tức là “đạo” chỉ nhằm dạy (“giáo”: dạy) cho con người biết từ bỏ điều ác, làm theo điều thiện là chính. Dẫn xuất từ một cách hiểu như thế, người ta thường hiểu một cách chung chung rằng “đạo nào cũng tốt!”, sống theo “đạo” nào cũng được cả, không thành vấn đề! Thậm chí, có người còn cho rằng mỗi người có phận sự phải trung thành với loại tôn giáo vốn có của địa phương mình sống chứ không cần gì phải thay đổi! Tiến xa hơn thế, có người suy luận rằng Cơ Đốc Giáo là ngoại lai, là non trẻ,… Thật ra, cách nghĩ này thể hiện một tầm nhìn tù túng, đồng hóa “Đạo” của Đức Chúa Trời với “đạo giáo” của thế gian làm một; chưa phân biệt được giữa “Thiên Đạo” với “nhân đạo”.
II.  DẦU “NHÂN ĐẠO” CÓ NHIỀU, “THIÊN ĐẠO” CHỈ CÓ MỘT
Trên phương diện xã hội học, tôn giáo cổ xưa nhất ở Đông Phương là Ấn Độ Giáo. Ấn Độ Giáo là một hệ thống tín ngưỡng dựa trên sự dạy dỗ của kinh Veda mà người Ấn Độ cổ đại đã được biết từ xa xưa. Kinh Veda được người Aryan du nhập vào nước Ấn Độ theo bước chân xâm lược của họ vào khoảng năm 1200 TC.  Triết lý của kinh Veda được gọi là Upanishads, một hệ thống triết học lấy tư duy của con người làm đối tượng nghiên cứu, nhằm mục đích khám phá các nguyên lý giúp cho con người thoát khỏi phạm trù luân hồi. Ấn Độ Giáo nguyên thủy gọi thực thể tối cao của mình là Brahman, một biến thể thăng hoa của linh hồn con người, gọi là Atman. Kinh Veda dạy rằng mọi tạo vật đều phải chu chuyển theo một chu kỳ luân hồi hầu như vô tận, và chu kỳ ấy chỉ có thể dừng lại khi nào cá nhân đạt được một sự tự thức thuộc linh gọi là “giác ngộ”… Ấn Độ Giáo là một nổ lực của con người để giải thoát cho con người khỏi thân phận làm người. Theo giòng thời gian, Ấn Độ Giáo đã được pha trộn vào chủ nghĩa dân tộc của người Ấn Độ, trở thành một thế lực chính trị hùng hậu trong sinh hoạt chính trị, xã hội của nước Ấn Độ ngày nay.
Cây “cổ thụ” tôn giáo thứ nhì của Đông Phương là Phật Giáo mà nhà sáng lập là Siddhartha Gautama (tức là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Siddhartha Gautama sinh năm 563 TC., viên tịch năm 483 TC. Siddhartha Gautama được tôn xưng là Buddha (tức là “Phật”, có nghĩa là “giác ngộ”). Theo truyền thuyết, Siddhartha Gautama đã rời bỏ cuộc sống giàu sang của hoàng triều vào năm 30 tuổi, tự kết ước tu thân, ép xác để trầm tư mặc tưởng và cuối cùng đã đạt được “giác ngộ” ở mức hoàn thiện. Sự dạy dỗ của Siddhartha Gautama đặt căn bản trên “Tứ Diệu Đề” và “Bát Chính Đạo”, mục tiêu của Phật Giáo là giúp con người đạt được một trạng thái gọi là Nirvana (nhập “Niết Bàn”?). Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là một trong các lời dạy dỗ của Siddhartha Gautama là như thế này: “Ta chỉ đường cho chúng sinh đến với chân lý chứ Ta không phải là chân lý ”.
“Khổng Giáo” ban đầu không phải là một tôn giáo, dầu rằng ngày nay nhiều người cho rằng đó là một tôn giáo. Dầu vậy, trong văn hóa vùng chúng ta đang sống, các sự dạy dỗ của “Khổng Giáo” có một tầm ảnh hưởng tương đương với Phật Giáo. Người sáng lập “Khổng Giáo” là Đức Khổng Tử (Kong Fu-Zi), sinh năm 551 TC., chết năm 479 TC., là người nước Lỗ lúc bấy giờ (nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Sự dạy dỗ của Khổng Tử thiên về thực dụng, là một hệ thống triết học thực hành chứ không phải là sự giáo dục tôn giáo. Phương hướng dạy dỗ của Khổng Tử nhằm giúp con người tiếp cận được sự hòa hợp xã hội, mưu cầu đời sống an lành, có lợi, và có ích. “Khổng Giáo” rất chú trọng việc hoàn thành các nghĩa vụ cá nhân đối với cộng đồng (của xã hội Đông Phương cổ đại). Mục tiêu dạy dỗ của Khổng Tử khá minh bạch, có thể được tóm tắt trong chín chữ làm phương châm: “Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ”. Khi được các môn đệ hỏi về “Đạo”, Khổng Tử cho biết rằng “đạo khả đạo phi thường đạo…” (“đạo” mà người ta có thể thiết lập được thì chưa phải là “Đạo”), và kết luận rằng “đạo xuất ư thiên” (“Đạo” chân thực phải khởi nguyên từ “Trời”)!
Tri giác của con người nhiều khi ở trong trạng thái ngộ nhận. Chẳng hạn, người ta bị các con số dẫn đến những ý niệm sai lầm: Ấn Độ Giáo:1.200 TC., Phật Giáo: 483 TC., Khổng Giáo: 479 TC. Tất cả đều “TC.”! Trông có vẻ như  Đức Chúa Jêsus so với các tôn giáo kia thì chỉ là một Giáo Chủ “sinh sau, đẻ muộn”! Sự thật không phải như vậy! Kinh Thánh phán:
“1Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời… 14Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha.” (Gi. 1:1, 14)
Kinh Thánh tỏ cho biết rằng Đức Chúa Jêsus là thực thể của “Đạo” chân thực, Ngài thuộc về Đức Chúa Trời Ba Ngôi, và Ngài là một Ngôi trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Dầu rằng Đức Chúa Jêsus đã mặc lấy nhân trạng theo thời điểm của Đức Chúa Trời để bày tỏ Đức Chúa Trời, và thi hành chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời cho nhân loại, nhưng chính Ngài là Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng “TỰ HỮU, HẰNG HỮU”. Kinh Thánh gọi Ngài là Con Một Đức Chúa Trời. “Con Một” là một từ liệu Hylạp nói cho biết rằng Ngài là phiên bản của Đức Chúa Trời trên trần gian, là sự thể hiện của tự thân Đức Chúa Trời trên trần gian. Ngài là Đức Chúa Trời đến trần gian để cứu người trần gian theo chương trình tối cao của Đấng Tối Cao:
“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Gi. 3:16)
“4Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, 5để chuộc những kẻ dưới Luật Pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài.” (Gal. 4:4-5)
Brahman của Ấn Độ Giáo chung cuộc chỉ là một biến tướng của linh hồn con người khi nắm bắt được các nguyên lý để nhờ đó mà thoát kiếp luân hồi. Nirvana là một trạng thái mà Phật Giáo dạy rằng người ta có thể nhờ “tu” mà đạt được. “Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ” là lý tưởng mà “Khổng Giáo” dạy dỗ,… Tất cả các tôn giáo của đời này đều thuộc phạm trù “nhân đạo”, tức là đạo do con người thiết lập. Chính Đức Khổng Tử cũng đã nhận thức được rằng “đạo khả đạo phi thường đạo…”.  Đức Khổng Tử đã cảm nhận một cách vô thức rằng “đạo xuất ư thiên”, đúng như Lời Kinh Thánh phán cho biết rằng Cơ Đốc Giáo mới là “Thiên Đạo”:
“Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” (Gi. 1:1)
 
Đức Chúa Jêsus không phải là Giáo Chủ “sinh sau, đẻ muộn” của một tôn giáo “sinh sau, đẻ muộn” như người ta ngộ nhận, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus chẳng những chỉ đường cho con người đến với chân lý mà chính Ngài là Con Đường để đi đến chân lý, Ngài chính là Thực Thể có thể tiếp cận được của Chân Lý, và Ngài chính là Sự Sống đích thực, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus phán:
“Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha.” (Gi. 14:6)
Hãy đến với Đức Chúa Jêsus. Hãy tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình. Tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là tiếp nhận chính Đức Chúa Trời, là tiếp nhận Sự Sống đích thực từ Đấng Sống. Hãy tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa để nợ tội được trả, án tội được tha, và ách tội được thoát! Hãy tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa để được ở trong trạng thái bình an viên mãn vì có được chính Đức Chúa Trời trong đời sống mình.
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_ducchuajesusladucchuatroi.pdf
File Size: 387 kb
File Type: pdf
Download File


“TƯ NIỆM”

29/8/2022

 
Picture
“ĐỂ ĐỜI SỐNG THỊNH VƯỢNG”
(Phil. 1:1-11)
“Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ”
(Phil. 1:6)
​Đức Chúa Jêsus đã đến thế gian để người tin Ngài “được sự sống, và được sự sống dư dật” (Gi. 10:10). Một đời sống Cơ Đốc chỉ đẹp nếu đời sống ấy thịnh vượng một cách hợp Kinh Thánh. Sự thịnh vượng theo Kinh Thánh không chỉ là sự thịnh vượng thuộc thể mà trước hết phải là sự thịnh vượng thuộc linh:
“Hỡi kẻ rất yêu dấu, tôi cầu nguyện cho anh được thạnh vượng trong mọi sự, và được khỏe mạnh phần xác anh cũng như đã được thạnh vượng về phần linh hồn anh vậy.” (3Gi. 1:2)
Kinh Thánh nghiêm trách những đời sống không thịnh vượng được trên phương diện thuộc linh, kể họ như “đám mây không nước, theo gió đưa đi đây đó; như cây tàn mùa thu, không có trái…; như sóng cuồng dưới biển, sôi bọt ô uế của mình; như sao đi lạc…” (Giu. 1:12, 13).
Đức Chúa Trời muốn chúng ta có một đời sống thịnh vượng là đời sống hoàn thành sự kêu gọi của Ngài đối với chúng ta, chúng ta biết sống chấp nhận tha nhân như họ hiện có, chúng ta biết phát triển tình yêu thương, và chúng ta thực sự được trưởng thành thuộc linh.
 
I. PHẢI SỐNG PHÙ HỢP CHỨC PHẬN MÌNH
 
Mọi sự đều phải có xuất phát điểm của nó, đời sống Cơ Đốc cũng thế. Trong đại gia đình của Đức Chúa Trời là Hội Thánh, không ai là người vô phận sự cả. Mỗi người đều có sự kêu gọi, hoặc là sự kêu gọi đặc biệt, hoặc là sự kêu gọi phổ quát:
“Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người cho ai nấy đều được sự ích chung.” (1Cô. 12:7)
Mỗi Cơ Đốc Nhân đều phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chính: (1) Sống đời sống tăng trưởng, và (2) Sống đời sống gây dựng:
“Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10)
Lời mở đầu của Sách Philíp vẽ nên một bức tranh đẹp về sự kết hợp chức phận và thế hệ trong thẩm quyền Thiên Thượng:
“Phao Lô và Timôthê, tôi tớ của Đức Chúa Jêsus Christ, gởi cho hết thảy các thánh đồ trong Đức Chúa Jêsus Christ, ở thành Philíp, cùng cho các Giám Mục và các Chấp Sự.” (Phil. 1:1)
Hội Thánh của Đức Chúa Trời là một hợp thể thống nhất một cách hài hòa dưới sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh để ai nấy đều có thể “được Ân Điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, và bởi Đức Chúa Jêsus Christ!” (Phil. 1:2). Do đó, mỗi thành viên trong Hội Thánh phải sống phù hợp theo chức phận mà Đức Chúa Trời đã gọi:
“Hỡi anh em, ai nấy khi được gọi ở đấng bậc nào, thì phải cứ ở theo đấng bậc ấy trước mặt Đức Chúa Trời.” (1Cô. 7:24)
“Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:11)
 
II. PHẢI SỐNG NHÌN NHẬN THA NHÂN
 
Trong cương vị Sứ Đồ, Phaolô viết cho các tín hữu ở Hội Thánh Philíp rằng “tôi nhớ đến anh em”. Điều này nói lên thái độ nhìn nhận tha nhân của vị Sứ Đồ này cùng với bông trái của thái độ ấy cặp theo:
“3Mỗi khi tôi nhớ đến anh em, thì cảm tạ Đức Chúa Trời tôi, 4và mỗi khi cầu nguyện, tôi hằng cầu cho anh em cách hớn hở.” (Phil. 1:3-4)
Điều khiến cho Sứ Đồ Phaolô có thể luôn luôn cưu mang các tín hữu của mình trong lòng và tự giác cầu nguyện cho họ là sự nhận thức rằng họ là “anh em”, tức là có cùng chung huyết thống Jêsus mà ông là người đã được Đức Chúa Trời sử dụng để đem họ về trở lại với Ngài.  Thật vậy, Hội Thánh Philíp là Hội Thánh đầu tiên mà Sứ Đồ Phaolô đã mở được trên đất Châu Âu (Công. 16:9-40) với người tín hữu đầu tiên là Liđi là người “làm nghề buôn hàng sắc tía” (Công. 16:14). Mối quan hệ giữa Sứ Đồ Phaolô với các tín hữu ở Hội Thánh Philíp là mối quan hệ được Đức Chúa Trời ban cho và dắt dẫn đã lâu ngày:
“9Đương ban đêm, Phaolô thấy sự hiện thấy, có một người Maxêđoan đứng trước mặt mình, nài xin rằng: Hãy qua xứ Maxêđoan mà cứu giúp chúng tôi. 10Phaolô vừa thấy sự đó rồi, chúng ta liền tìm cách qua xứ Maxêđoan, vì đã định rằng Đức Chúa Trời gọi chúng ta rao truyền Tin Lành tại đó.” (Công. 16:9-10)
Sứ Đồ Phaolô cho biết ông hằng coi trọng các tín hữu ở Hội Thánh Philíp và họ đã đem lại cho ông sự vui thỏa trong Đức Chúa Trời. Sứ Đồ Phaolô kể các tín hữu ở Hội Thánh Philíp như những người đồng công trong việc rao truyền Tin Lành của Đức Chúa Jêsus. Các tín hữu ở Hội Thánh Philíp đã đóng góp vào công cuộc rao truyền Tin Lành của Sứ Đồ Phaolô bằng những sự giúp đỡ cần thiết hàng ngày khi ông hầu việc Chúa ở đó cũng như những sự đóng góp tài chánh khi vị Sứ Đồ này bị giam cầm:
“Vì cớ từ buổi ban đầu cho đến bây giờ, anh em đã được thông công trong sự tấn tới của đạo Tin Lành.” (Phil. 1:5)
Đến như Sứ Đồ Phaolô mà còn biết hàm ân các tín hữu của mình, vậy chúng ta là ai mà sống dửng dưng, phủ nhận tha nhân? Thái độ nhìn nhận tha nhân là điều không thể thiếu trong đời sống Cơ Đốc. Đối với Đức Chúa Trời, không hề có một cá nhân nào là tuyệt đối vô giá trị để chúng ta có thể phủ nhận họ hoàn toàn; bằng chẳng vậy, Đấng Christ đã không vì mọi người mà chịu chết (Hê. 2:9; Rô. 10:13). Biết nhìn nhận tha nhân chúng ta mới có thể biết ơn Đức Chúa Trời về sự hiện diện của họ trong đời sống của chúng ta (Rô. 8:28), và từ đó chúng ta mới có thể hết lòng cầu nguyện cho họ được. Mặt khác, khi nặng mang thái độ phủ nhận, chúng ta chẳng những không phản ánh được sự vinh hiển của Đức Chúa Trời mà còn tự làm cho nhận thức của mình thành què quặt, đồng thời khiến cho tình yêu thương trong chúng ta trở thành thui chột hoặc méo mó, lệch lạc. Thái độ phủ nhận là “bà đỡ” cho thái độ thù hận ra đời!
 
III. PHẢI SỐNG PHÁT TRIỂN YÊU THƯƠNG
 
Biết nhìn nhận tha nhân, chúng ta sẽ có cơ hội để thực hiện một sự xác lập vững chắc cho sự phát triển yêu thương:
“Tôi nghĩ đến hết thảy anh em dường ấy, là phải lắm; vì anh em ở trong lòng tôi, dầu trong vòng xiềng xích tôi, hoặc trong khi binh vực và làm chứng đạo Tin Lành, thì anh em cũng có dự phần Ân Điển đã ban cho tôi.” (Phil. 1:7)
Sự nhìn nhận tha nhân sẽ mở cửa cho lòng chúng ta tiếp nhận họ như họ vốn có. Thế nhưng nền bền vững duy nhất cho tình yêu thương phải là “lòng yêu dấu của Đức Chúa Jêsus” (C. 8, Gk. splagchnon). Thật vậy, “tình yêu thương” (Gk. agape) là bông trái của Đức Thánh Linh (Gal. 5:22-23), đó là kết quả của sự vận hành của quyền năng Đức Chúa Trời trong đời sống người tin. “Tình yêu thương” chỉ có thể được duy trì, phát triển trong quyền năng Đức Chúa Trời nhờ đức thành tín của Ngài mà thôi:
“Đức Chúa Trời cũng chứng rằng tôi lấy lòng yêu dấu của Đức Chúa Jêsus mà tríu mến anh em.” (Phil. 1:8)
Chính nhờ đức thành tín của Đức Chúa Trời mà chúng ta mới có thể trung tín đối với Ngài khi chúng ta biết hết lòng thuận phục Ngài. Điều mà Sứ Đồ Phaolô nghĩ đến ở đây là đức trung tín của các tín hữu ở Philíp. Vị Sứ Đồ này tỏ ra đầy tự tin rằng anh chị em của mình trong Hội Thánh sẽ cứ còn sống nương cậy Chúa cho đến cuối cùng. Sự tin tưởng ấy của Sứ Đồ Phaolô không đặt ở họ, cũng không cậy ở mình, mà là ở sự thành tín của Đức Chúa Trời.
“Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ.” (Phil. 1:6)
Nơi chúng ta đặt cơ sở cho các mối quan hệ sẽ quyết định chất lượng của các mối quan hệ ấy. Phần lớn các trục trặc về quan hệ có nguyên nhân ở chỗ chúng ta đặt lòng tin của mình nhầm nơi. Nhìn nhận sự tốt đẹp có ở tha nhân và đặt lòng tin cậy ở tha nhân là hai việc hoàn toàn khác nhau. Chúng ta không thể nương cậy nơi loài người, kể cả tự thân chúng ta, không phải là vì họ không có gì tốt đẹp mà là vì họ không đủ năng lực để làm cho trọn “việc lành”, tức làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Để sống phát triển yêu thương, hai yếu tố then chốt là chấp nhận tha nhân và nương cậy Đức Chúa Trời, vì sự yêu thương thật chỉ đến với chúng ta trong sự thông hiểu Ngài:
“Lại, điều tôi xin trong khi cầu nguyện, ấy là lòng yêu thương của anh em càng ngày càng chan chứa hơn, trong sự thông biết và sự suy hiểu.” (Phil. 1:9)
Trên một phương diện, sống phát triển tình yêu thương không phải là sự thể hiện của năng lực bản thân mà là thực hiện theo sự kêu gọi Thiên Thượng:
“Tôi cứ làm một điều: Quên lửng sự ở đằng sau mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Phil. 3:14)
 
IV. PHẢI SỐNG TĂNG TRƯỞNG THUỘC LINH
 
Người biết sống phát triển yêu thương sẽ là người có khả năng cao nhất để tăng trưởng thuộc linh vì “4Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhân từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, 5chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, 6chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong Lẽ Thật. 7Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự. 8Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ…” (1Cô. 13:4-8a). Kinh Thánh phán cho chúng ta biết rằng non trẻ về tình yêu thương cũng chính là non trẻ thuộc linh:
“Khi tôi còn là con trẻ, tôi nói như con trẻ, tư tưởng như con trẻ, suy xét như con trẻ; khi tôi đã thành nhân, bèn bỏ những điều thuộc về con trẻ.” (1Cô. 13:11)
Đời sống Cơ Đốc là đời sống yêu thương bằng quyền năng của Đức Chúa Trời. Do đó, sống phát triển yêu thương sẽ giúp đem lại đời sống tăng trưởng thuộc linh vì “tình yêu thương” chính là bông trái của đời sống thuộc linh chân thực…
“[9Lại, điều tôi xin trong khi cầu nguyện, ấy là lòng yêu thương của anh em càng ngày càng chan chứa hơn, trong sự thông biết và sự suy hiểu,]10để nghiệm thử những sự tốt lành hơn, hầu cho anh em được tinh sạch không chỗ trách được, cho đến ngày Đấng Christ, 11được đầy trái công bình đến bởi Đức Chúa Jêsus Christ, làm cho sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời.” (Phil. 1:10-11)
Có nhiều cách hiểu khác nhau về đời sống thịnh vượng nhưng một đời sống thịnh vượng hợp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh không thể thiếu các phương diện vừa được xem xét. Một đời sống thịnh vượng phải bắt đầu từ chức phận đã được gọi của mình và phát huy được tác dụng gây dựng của chức phận ấy. Đời sống thịnh vượng có dấu hiệu qua việc “người nầy người khác phải tiếp đãi nhau, chớ có cằn rằn” (1Phi. 4:9). Đời sống thịnh vượng biểu hiện tập trung ở đức trung tín trong tình yêu thương nhờ sự thành tín của Đức Chúa Trời để đạt đến mức trưởng thành thuộc linh theo ý chỉ “tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn” của Ngài (Rô. 12:2). Đời sống thịnh vượng là đời sống có khả năng “làm cho sáng danh và khen ngợi Đức Chúa Trời.” (Phil. 1:11).
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_dedoisongthinhvuong.pdf
File Size: 577 kb
File Type: pdf
Download File


“TƯ NIỆM”

28/8/2022

 
Picture
“ĐỂ CÓ THỂ YÊU MÀ KHÔNG LO SỢ”
(1Gi. 4:17-18)
“Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh mẽ, có tình yêu thương và dè giữ.”
(2Ti. 1:7)
​Hay lo sợ là một điều đã trở thành thâm căn cố đế trong tâm trí con người. Ngay sau khi phạm tội, loài người đã bắt đầu biết lo sợ:
“9Giêhôva Đức Chúa Trời kêu Ađam mà phán hỏi rằng: Ngươi ở đâu? 10Ađam thưa rằng: Tôi có nghe tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ…” (Sáng. 3:9-10).
Nhìn đâu chúng ta cũng đều thấy dấu vết của nỗi lo sợ. Từ sợ sâu, sợ chuột cho đến sợ ác thú, sợ chiến tranh… Leo lên cây cao cũng sợ mà xuống dưới giếng sâu cũng sợ… Náo nhiệt quá nên sợ đã đành nhưng tĩnh lặng quá cũng khiến cho có người sợ… Ngay cả việc đến nhóm lại với Hội Thánh cũng lắm nỗi sợ: Sợ bị làm khó dễ đã đành nhưng cũng còn sợ những người hay nói hành,… Sợ bị phác giác những điều muốn giấu,… Sợ phải thay đổi những thói quen xấu cho hợp với sự dạy dỗ của Kinh Thánh,… Sợ phải tiếp xúc với những người mình không thích hoặc không thích mình,… Sợ phải dâng hiến  cho Hội Thánh nữa!...
“Lo sợ” là một phần tất yếu trong bản chất và điều kiện của con người thiên nhiên, nhưng Đức Tin lại là điều vốn thiếu trong con người thiên nhiên. “Sự lo sợ” đối lập với Đức Tin vì nó có tác dụng ngăn trở Đức Tin đến độ có thể làm cho Đức Tin trở thành “nghẹt ngòi” (Ma. 13:22). Một tấm lòng đầy dẫy “sự lo sợ” được Đức Chúa Jêsus kể như “bụi gai”, vì vậy “lo sợ” là điều trái với ý muốn tốt đẹp của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn Dân Ngài chớ sợ mà hãy tin, Ngài muốn Dân Ngài hãy yêu thương mà đừng sợ:
“Đừng sợ, hãy tin mà thôi…” (Lu. 8:50).
“Quyết chẳng có điều sợ hãi trong sự yêu thương, nhưng sự yêu thương trọn vẹn thì cất bỏ sự sợ hãi; vì sự sợ hãi có hình phạt, và kẻ đã sợ hãi thì không được trọn vẹn trong sự yêu thương” (1Gi. 4:18).
 
I. SỰ LO SỢ VÀ SỰ DÀY VÒ, ĐAU KHỔ…
 
Trong phân đoạn Kinh Thánh này, từ liệu “sợ hãi” (# “lo sợ”) được sử dụng đến bốn lần. Đây sẽ là một chi tiết quan trọng giúp cho chúng ta có thể hiểu được sự dạy dỗ của Lời Đức Chúa Trời trong đoạn văn Kinh Thánh này. “Sự sợ hãi” được dùng ở đây là một từ liệu Hylạp (Gk. phobos) có nghĩa là “lo sợ”, “bị ám ảnh”. “Sự ám ảnh” được định nghĩa là “Một nỗi lo lắng dai dẳng, cao độ, và vô lý trên tâm trí của một người; chi phối trên nhiều phương diện của đời sống người ấy ở nhiều cấp độ khác nhau”. Sự lo sợ mà Lời Kinh Thánh nhắc đến ở đây nói về sự ám ảnh làm cho người ta phản ứng theo những cách thế khiến cho đời sống người ấy chuyển biến theo những phương hướng nguy hiểm. Sự lo sợ có thể kiềm tỏa cả đời sống của một người, có thể phá hỏng các mối quan hệ liên cá nhân của người ấy, thậm chí tác hại trên sức khỏe của tâm hồn và thân thể của họ nữa. Nỗi khổ mà sự lo sợ đem lại là sự đau đớn cả vật chất lẫn tinh thần.
Sự lo sợ trong đời sống Cơ Đốc Nhân là hậu quả của việc dựa vào sức riêng thay vì phải nương cậy quyền năng Đức Chúa Trời. Người ta không thể thi hành mệnh lệnh yêu thương một cách trọn vẹn được chỉ vì người ta chưa thực sự sống bằng sự yêu thương của Đức Chúa Trời:
“Chúng ta đã biết và tin Sự Yêu Thương của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Đức Chúa Trời tức là Sự Yêu Thương, ai ở trong Sự Yêu Thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy” (1Gi. 4:16).
Nếu chúng ta biết nương cậy Đức Chúa Trời, và trung tín với Nguyên Tắc Yêu Thương của Ngài, chúng ta sẽ nhận ra được rằng chẳng có điều gì đáng cho chúng ta sợ hãi, tức là chẳng còn điều gì có thể ám ảnh chúng ta được. Chúng ta phải chịu bao nhiêu điều khó khăn chỉ vì chúng ta cứ loay hoay với các nan đề của cuộc sống bằng chính sức riêng và sự khôn ngoan riêng của mình. Dầu vậy, trong chúng ta không ai là không nhận ra được rằng việc sống thiếu nương cậy Đức Chúa Trời chỉ khiến cho chúng ta bị giam cầm trong sự lo sợ mà thôi.
 
II. SỰ YÊU THƯƠNG VÀ SỰ LÀNH MẠNH CỦA TÂM HỒN…
 
Sự dày vò, đau khổ… nhất là trên phương diện tinh thần, là sản phẩm của sự lo sợ; nhưng trái lại, sự yêu thương sẽ giúp gắn chặt Cơ Đốc Nhân với quyền năng của Đức Chúa Trời và đem lại cho họ sự lành mạnh trong tâm hồn. Xét về chiều sâu của tâm lý con người, khi “lo sợ” về một điều gì đó thì thường thường là vì người ta đã “biết mùi” điều mà họ đang lo sợ rồi. Trên phương diện thần kinh học, cảm giác “lo sợ” đến từ trạng thái bất an của tâm trí được khơi gợi bởi kinh nghiệm quá khứ. Về mặt căn bản, “sự lo sợ” không phải được trực tiếp tạo ra bởi cảnh giới chung quanh chúng ta mà là bởi tâm trí của chúng ta còn ngoại giới chỉ giữ vai trò của nhân tố kích thích, tác động mà thôi. “Sự lo sợ” là dấu hiệu của trạng thái bất ổn tinh thần, tức tình trạng tâm trí “có vấn đề”. Phần lớn chúng ta đều có thể dễ dàng nhận ra rằng nguyên nhân chính khiến cho chúng ta cứ bước đi khập khiễng giữa cuộc đời này là vì chúng ta đã từng phải chịu đau đớn bởi sự hoành hành của các thương tích tâm lý quá khứ. Tâm trí của chúng ta bất an, chúng ta bị ám ảnh, chúng ta sợ hãi. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời hứa cho Dân Ngài một tâm hồn lành mạnh, Ngài muốn Dân Ngài ở trong Sự Yêu Thương của Ngài, gắn chặt với quyền năng của Ngài. Đức Chúa Trời muốn Dân Ngài cứ bước đi một cách hiên ngang, sống đắc thắng giữa giòng đời, không sợ hãi, không rúng động:
“Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh mẽ, có tình yêu thương và dè giữ” (2Ti. 1:7).
 
III. SỰ YÊU THƯƠNG VÀ QUYỀN NĂNG ĐỨC CHÚA TRỜI…
 
Câu hỏi mà Cơ Đốc Nhân phải đặt ra cho mình là “Phải làm thế nào để phục hồi cho chúng ta ‘tâm thần mạnh mẽ, có tình yêu thương và dè giữ’?”. Phận sự của mỗi người chúng ta là phải biết làm cách nào để lấy lại sự lành mạnh cho tấm lòng đã từng chịu nhiều thương tích tệ hại bởi sự công kích của các kẻ thù thuộc linh. Phận sự của chúng ta là phải tìm ra nguyên tắc Kinh Thánh cho vấn đề này.
Chúng ta chỉ có thể bắt đầu thu hồi lại những gì mà Ma Quỉ đã cướp mất bằng việc nhận thức rõ về chân giá trị của chúng ta theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã không tạo dựng để chúng ta trở thành những nô lệ truyền kiếp, mà là để chúng ta trở nên những người nam, người nữ mạnh mẽ và dũng cảm nhờ quyền năng của Sự Yêu Thương của Ngài, làm khí cụ yêu thương cho Ngài. Tuy nhiên, thay vì dũng cảm và mạnh mẽ, chúng ta thường lo sợ đủ thứ mà lại không kính sợ chính Đức Chúa Trời. Thay vì sống đúng theo trật tự mà Đức Chúa Trời đẹp ý, chúng ta lại đảo ngược trật tự ấy, và phải chịu lấy hậu quả thảm thương. Để thoát khỏi “sự lo sợ”, điều căn bản là chúng ta phải “kính sợ” Đức Chúa Trời. Điểm nổi bật của sự kính sợ Đức Chúa Trời là một khi thực lòng kính sợ Ngài, người ta chẳng còn biết lo sợ gì khác cả (Oswald Chambers). Kinh Thánh phán:
“Sự kính sợ Đức Giêhôva là khởi đầu sự tri thức…” (Châm. 1:7).
“Sự kính sợ” Đức Giêhôva (Hb. yir’ah) hoàn toàn khác với “sự sợ hãi” (Hb. yare, Gk. phobos, “sự lo sợ”), đó là sự khác nhau giữa hành động tôn kính với hành động lo lắng. Sự kính sợ Đức Chúa Trời là một loại “sợ” được dầm thấm trong tình yêu thương và lòng nương cậy. Loại “lo sợ” mà người ta thường có là một loại “sợ” bị liên lỉ gặm nhấm bởi sự ám ảnh và lòng lo lắng. Chúng ta “lo sợ” vì chúng ta thiếu lòng “kính sợ”, thiếu sự kỳ vọng nơi tình yêu thương bất bại của Đức Chúa Trời (1Cô. 13:8). Khi không có niềm kỳ vọng nơi tình yêu thương của Đức Chúa Trời, người ta chưa có sự kết nối với Ngài cho nên họ thiếu Ngài; vì vậy, họ thiếu tình yêu thương của Ngài, thiếu quyền năng của tình yêu thương của Ngài, và thiếu năng lực để sống phản ánh tình yêu thương của Ngài; mặc nhiên người ta trở thành nô lệ của “sự lo sợ”.
Giữa vòng chúng ta, có nhiều người không thật sự kính sợ Đức Chúa Trời, dầu rằng tất cả chúng ta đều thờ phượng Đức Chúa Trời. Satan đặt trong lòng chúng ta sự lừa dối lâu đời của nó rằng Đức Chúa Trời xem thường chúng ta, Ngài không màng đến chúng ta. Với một sự nhận thức như thế, chúng ta thiếu kém về lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời, rơi vào trạng thái lo sợ, và hậu quả là chúng ta cứ đi lòng vòng trong cuộc đời để tìm đường tự cứu. Thế nhưng, càng loay hoay, càng tự xoay xở, chúng ta càng nhận ra được rằng mình là nhỏ bé và bất năng. Cảm thức nhỏ bé và bất năng là một con dao hai lưỡi đối với mỗi người: Nó có thể dẫn chúng ta đến những sự lo sợ mới nguy hại hơn, nhưng đồng thời nó cũng có thể thức tỉnh để chúng ta quay lại với sự kính sợ Đức Chúa Trời và rồi mọi sự sẽ được giải quyết:
“7Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10).
 
IV. SỰ YÊU THƯƠNG THỰC HÀNH…
 
Trong Tiếng Hylạp, “sự yêu thương”, “tình yêu thương”, hay “yêu thương” có các ý nghĩa và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, ý nghĩa của Sự Yêu Thương Cơ Đốc được trực tiếp rút ra từ sự khải thị của Đức Chúa Trời trong và qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Dầu rằng rất mãnh liệt, nhưng Sự Yêu Thương Cơ Đốc không phải là một dạng cảm xúc thiên nhiên của con người, mà là bông trái của Đức Thánh Linh trong đời sống của người tin (Gal. 5:22-23). Sự Yêu Thương Cơ Đốc là một thực tại của ý chí chứ không phải là của xúc cảm, vì Cơ Đốc Nhân phải yêu cả những người mình không thích nữa (Ma. 5:44, 48). Sự Yêu Thương Cơ Đốc không thể bị “sự lo sợ” chi phối, Sự Yêu Thương Cơ Đốc được thể hiện nhờ sự gắn kết với quyền năng của Đức Chúa Trời để yêu như chính Ngài đã yêu trong và qua Đức Chúa Jêsus:
“Nầy vì sao mà Sự Yêu Thương được trọn vẹn trong chúng ta, hầu cho chúng ta được lòng mạnh bạo trong ngày xét đoán, ấy là Chúa thể nào thì chúng ta cũng thể ấy trong thế gian này” (1Gi. 4:17).
Trên phương diện Sự Yêu Thương, “Chúa thế nào thì chúng ta cũng thế ấy trong thế gian nầy” là thế nào? Chúng ta không thể điểm hết các đặc tính của Sự Yêu Thương của Đức Chúa Trời đối với chúng ta được nhưng chúng ta có thể nhận thức được một số phương diện cho đời sống yêu thương thực hành của mình: Trước hết, Sự Yêu Thương của Ngài là một sự yêu thương chung thủy:
“… Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian rồi, thì cứ yêu cho đến cuối cùng” (Gi. 13:1).
Ở đây, từ liệu “cuối cùng” (Gk. telos) hàm ý về một sự hoàn thành trọn vẹn các mục đích đã định chứ không phải chỉ nói đến yếu tố thời gian. Hễ những ai đã thuộc về Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ, đã ở trong sự giao ước của Ngài, Ngài sẽ nuôi giữ họ trong chương trình tốt đẹp của Sự Yêu Thương vốn có theo thuộc tính của Ngài. Đức Chúa Jêsus đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu chung thủy, và Lời Kinh Thánh dạy rằng “Chúa thế nào thì chúng ta cũng thế ấy trong thế gian nầy” cho nên chúng ta cũng phải yêu thương nhau một cách chung thủy như Ngài đã yêu chúng ta. Tình yêu thương chỉ chung thủy nếu nó hướng đích và được duy trì trong sự kết ước, vì chung thủy trong sự yêu thương đồng nghĩa với sự yêu thương trọn vẹn.
Một phương diện khác trong Sự Yêu Thương của Đức Chúa Jêsus mà chúng ta cần ghi nhận cho đời sống yêu thương thực hành của chúng ta là Ngài đã yêu chúng ta bằng một tình yêu hy sinh:
“… Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh…” (Êph. 5:25).
Người ta có thể cho mà không yêu gì hết, nhưng không thể nào người ta yêu mà lại chẳng cho gì cả. Chính vì thế, tình yêu thương luôn đòi hỏi đức hy sinh, vì tình yêu thương thật không chỉ có nghĩa là cảm xúc. Cái được gọi là “tình yêu thương” nhưng chỉ dừng lại trong giới hạn của sự xúc cảm là cái mà người ta cần phải tra xét lại vì sự xúc cảm chính là dấu hiệu cơ bản của nhu cầu chứ không phải là của tình yêu thương! Sự Yêu Thương Cơ Đốc (Gk. agape) theo gương Đức Chúa Jêsus như Ngài đã thể hiện là tình yêu theo sự chọn lựa của ý chí, bằng sự hạ mình và hy sinh bản thân chứ không phải chỉ là tiếng nói vội vàng và nông cạn của xúc cảm của con người thiên nhiên. Khi nào mà người ta vẫn còn “cần nhau” chứ chưa phải là “yêu” (Gk. agapao), “sự lo sợ” vẫn còn là một hung thần có khả năng hoành hành tùy tiện. “Sự lo sợ” là một loại axít mạnh có khả năng phá hỏng mọi chất liệu của Sự Yêu Thương Cơ Đốc. Khi nào người ta tự nhận là “yêu” mà vẫn còn “lo sợ” thì “sự lo sợ” cứ còn là cái bóng đen của thảm họa khiến cho họ không sao có khả năng làm cho “sự yêu thương được nên trọn vẹn” để rồi họ có thể có được “lòng mạnh bạo trong ngày xét đoán” (1Gi. 4:17).
 
Sống đời sống yêu thương không phải chỉ là một điều để chọn lựa mà là phận sự tất yếu của Cơ Đốc Nhân (1Gi. 4:21). Sự Yêu Thương đích thực không có mặt của “sự lo sợ” (1Cô. 13:4-7) và nó là bất bại (1Cô. 13:8). Vấn đề cần được lưu ý là để thủ đắc được một Sự Yêu Thương như thế, nhất thiết người ta phải được kết nối với chính Đức Chúa Trời (1Gi. 4:16). Để có thể “yêu” mà không hề “lo sợ” người ta phải đến với Đức Chúa Trời, nương cậy Ngài bằng việc sống thực hành các nguyên tắc Kinh Thánh. Khi nào người ta biết kính sợ Đức Chúa Trời, Sự Yêu Thương của Ngài sẽ chan hòa trên đời sống của họ, và mọi điều lo sợ sẽ được xóa tan, đẩy lùi để chỉ còn lại sự yêu thương trọn vẹn mà thôi.
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_decotheyeumakhongloso.pdf
File Size: 547 kb
File Type: pdf
Download File


“TƯ NIỆM”

27/8/2022

 
Picture
“ĐỂ CÓ THỂ SỐNG CHÂN TÌNH”
(1Gi. 4:7-12)
“Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau.”
(1Gi. 4:11)
​Mệnh lệnh Kinh Thánh về đời sống Cơ Đốc thực hành thật rõ ràng:
“Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi, và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em.” (Phil. 4:9)
Dầu vậy, thực tế là chúng ta vẫn cứ còn sống theo thói quen của con người cũ, còn những gì thuộc về con người mới chỉ có trong sự hiểu biết, sự nhận thức mà thôi. Làm thế nào để có thể biến các hiểu biết Cơ Đốc thành thói quen thực hành, nhất là sống đời sống chân tình một cách thường trực theo sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời?
 
I. TÌNH YÊU THƯƠNG PHẢI CÓ THỰC
 
Tình yêu của Đức Chúa Trời là điều thực sự có trong Ngài, Kinh Thánh cho biết Ngài là tình yêu thương:
“7Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời. 8Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương.” (1Gi. 4:7-8)
Tình yêu thương là thuộc tính của Đức Chúa Trời, vì thế, tình yêu thương của Đức Chúa Trời là động cơ của Ngài trong mọi sự và vì vậy mà gắn bó thành một thể thống nhất trong ý chỉ của Ngài:
“Hỡi Đức Giêhôva, đất được đầy dẫy sự nhân từ Ngài;_Xin hãy dạy tôi các luật lệ Ngài.” (Thi. 119:64)
Tình yêu thương của Đức Chúa Trời là một qui luật phổ quát mang tính hoàn vũ (“đất được đầy dẫy sự nhân từ Ngài”, Hb. checed). Cả vũ trụ hiện hữu và tồn tại nhờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Tất cả mọi người đều là đối tượng của tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, tất cả mọi người đều quan trọng; tất cả mọi người, trong mọi hoàn cảnh, đều phải được yêu thương. Triết học và các tôn giáo của đời này có thể dạy ngược lại, nhưng sự bày tỏ của Kinh Thánh là Đức Chúa Trời yêu thương tất cả mọi người, mỗi người đều được Đức Chúa Trời trân trọng:
“6Người ta há chẳng bán năm con chim sẻ giá hai đồng tiền sao? Nhưng Đức Chúa Trời không quên một con nào hết. 7Dầu đến tóc trên đầu các ngươi cũng đã đếm cả rồi. Đừng sợ chi, vì các ngươi trọng hơn nhiều chim sẻ.” (Lu. 12:6-7)
Đối với các Cơ Đốc Nhân, tình yêu thương của Đức Chúa Trời thực sự sâu đậm và rõ nét. Tính sâu đậm của tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với Cơ Đốc Nhân không phải do sự thiên vị, vì Đức Chúa Trời không thiên vị. Tính sâu đậm của tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà Cơ Đốc Nhân có được là do Cơ Đốc Nhân là người chịu thiết lập mối quan hệ thân mật với Ngài, họ chấp nhận Ngài nhiều hơn nên họ có được Ngài được nhiều hơn, họ thuận phục dưới sự dắt dẫn của Ngài:
“14Ta là người chăn chiên hiền lành, Ta quen chiên Ta, và chiên Ta quen Ta, 15cũng như Cha biết Ta, và Ta biết Cha vậy; Ta vì chiên Ta phó sự sống mình.” (Gi. 10:14-15)
Đức Chúa Trời “là sự yêu thương”, do đó, ý muốn (“luật lệ”) của Ngài là ý muốn yêu thương. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời phải hiện diện trong tất cả những gì còn thực sự được ở trong Ngài. Chúng ta tự nhận rằng mình là Cơ Đốc Nhân, là người đã được cứu nhờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời và được cứu vào trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời, chúng ta cũng phải thực sự có tình yêu thương của Ngài; đó là lý do vì sao Kinh Thánh phán rằng “kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời”.
 
II. TÌNH YÊU THƯƠNG PHẢI SỐNG ĐỘNG
 
Phương diện thứ hai của tình yêu thương của Đức Chúa Trời là tình yêu thương của Ngài có quyền năng hành động. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời luôn luôn sống và động…
“Hỡi Đức Giêhôva, sự nhân từ Ngài ở trên các từng trời;_Sự thành tín Ngài đến tận các mây.” (Thi. 36:5)
Chúng ta được bảo tồn nhờ tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Ngài đã tạo dựng nên chúng ta và Ngài hằng cưu mang chúng ta…
“3Hỡi nhà Giacốp, và hết thảy các ngươi là Dân Sót của nhà Ysơraên, hãy nghe Ta, Ta đã gánh vác các ngươi từ lúc mới sanh, bồng ẵm các ngươi từ trong lòng mẹ. 4Cho đến chừng các ngươi già cả, đầu râu tóc bạc, Ta cũng sẽ bồng ẵm các ngươi. Ta đã làm ra, thì sẽ còn gánh vác các ngươi nữa. Ta sẽ bồng ẵm và giải cứu các ngươi.” (Ês. 46:3-4)
Ngài đã làm tất cả để cho chúng ta được an toàn…
“Ta đã dùng dây nhân tình, dùng xích yêu thương kéo chúng nó đến. Ta đã như những kẻ cởi ách khỏi hàm chúng nó, và để đồ ăn trước mặt chúng nó.” (Ô. 11:4)
Tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với chúng ta thường được Kinh Thánh diễn đạt như tình mẫu tử:
“Đàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, Ta cũng chẳng quên ngươi.” (Ês. 49:15)
Đức Chúa Trời đã đi bước trước trong việc cứu chuộc chúng ta thể theo tình yêu thương của Ngài:
“Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:8)
Chính vì tất cả những điều kể trên mà tình yêu thương của Đức Chúa Trời đã thể hiện ra theo một cách thế không có gì so sánh được:
“9Lòng Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta đã bày tỏ ra trong điều nầy: Đức Chúa Trời đã sai Con Một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống. 10Nầy, sự yêu thương ở tại đây: Ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta.” (1Gi. 4:9-10)
Còn chúng ta thì sao? Điều gì đang “sống động” trong con người chúng ta? Phải chăng đó là tình yêu thương có thực theo mẫu mực của Đức Chúa Trời hay một điều gì khác chưa đẹp ý Ngài?
“9Lòng yêu thương phải cho thành thật. Hãy gớm sự dữ mà mến sự lành. 10Hãy lấy lòng yêu thương mềm mại mà yêu nhau như anh em; hãy lấy lẽ kính nhường nhau.” (Rô. 12:9-10)
 
III. TÌNH YÊU THƯƠNG PHẢI THƯỜNG TRỰC
 
Giả bộ yêu thương không bao giờ là tình yêu thương, mà đó là tội lỗi. Cố gắng yêu thương cũng chưa phải là tình yêu thương, vì sự thành tâm chưa trọn vẹn để làm nên tình yêu thương thật (“chân tình”). Chỉ có hết lòng yêu thương mới thực sự là tình yêu thương, vì chỉ có như thế thì ý chí, lý trí, và tình cảm mới hiệp nhau làm thành hành động yêu thương:
“Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật.” (1Gi. 3:18)
Nếu thật là tình yêu thương thì sự thành thật sẽ cặp theo, và người xưa gọi đó là “sự chân tình”. Chân tình là biểu hiện thống nhất của tình yêu thương và sự hết lòng. Sự hết lòng, tức sự thành tâm, luôn luôn là thuốc thử của tình yêu thương. Nhờ sự thành tâm mà tình yêu thương mới có thể phát triển và biểu hiện qua hành động yêu thương. Vì vậy, tình yêu thương thật luôn luôn được nhận dạng qua sự phục vụ:
“Hỡi anh em, anh em đã được kêu gọi đến sự tự do, song chớ lấy sự tự do đó làm dịp cho anh em ăn ở theo tánh xác thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau.” (Gal. 5:13)
Biểu hiện tập trung của chân tình là ý thức phục vụ thường trực do tình yêu thương thúc giục. Chúng ta không thể yêu thương “nửa vời” hay “theo mùa” được vì Đức Chúa Jêsus “đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng” (Gi. 13:1b). Sự gắn bó làm một giữa tình yêu thương thật với ý thức phục vụ thường trực được minh họa một cách sống động qua việc Đức Chúa Jêsus rửa chân cho các môn đồ của mình, và Ngài muốn chúng ta phải sống trong ý thức phục vụ nhau một cách thường trực theo tiếng gọi của tình yêu thương:
“14Vậy, nếu Ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân cho các ngươi thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau. 15Vì Ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như Ta đã làm cho các ngươi.” (Gi. 13:14-15)
Ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống của chúng ta là rõ ràng: Ngài muốn chúng ta có một tình yêu thương thường xuyên, một tấm lòng phục vụ thường xuyên như Ngài hằng thường xuyên về mọi sự đối với chúng ta:
“11Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau. 12Chưa hề có ai thấy Đức Chúa Trời; nếu chúng ta yêu nhau, thì Đức Chúa Trời ở trong chúng ta, và sự yêu mến Ngài được trọn vẹn trong chúng ta.” (1Gi. 4:11-12)
Sự chân tình (tình yêu thương chân thật) là một tổ hợp thống nhất giữa ý chí, lý trí, và tình cảm. Để có được sự chân tình, và sống chân tình thường trực, cần phải có sự can thiệp thường xuyên của ý chí và lý trí, vì “chúng ta cũng phải yêu nhau” là mệnh lệnh Kinh Thánh, không phải là sự tùy chọn. Tình cảm yêu thương không phải là một điều có khả năng tự sinh tồn, vì khả năng ấy vốn không có trong con người tự nhiên của chúng ta mà là “đến từ Đức Chúa Trời”, do đó cần được ý chí và lý trí gìn giữ. Mặt khác, tự nhận mình là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có phận sự thể hiện Đức Chúa Trời bằng và qua đời sống của mình, Đức Chúa Trời phải “ở trong chúng  ta”. Chúng ta cũng còn có phận sự yêu mến Đức Chúa Trời nữa, và đời sống chân tình sẽ giúp cho “sự yêu mến Ngài được trọn vẹn trong chúng ta” vì tình yêu thương sẽ đem lại cho chúng ta tình yêu thương cũng như sẽ đưa chúng ta đến với tình yêu thương. Đời sống chân tình thường trực có dấu hiệu chỉ định của riêng nó:
“4Tình yêu thương hay nhịn nhục, tình yêu thương hay nhân từ, tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, 5chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, 6chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật. 7Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự.” (1Cô. 13:4-7)
Kinh Thánh phán cho chúng ta biết rằng chỉ khi nào chúng ta sống đầu phục Đức Thánh Linh hoàn toàn thì chúng ta mới có thể sống chân tình thường trực được, vì tình yêu thương là “trái của Thánh Linh”:
“Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ.” (Gal. 5:22-23)
Sống chân tình một cách thường trực là sống trong thuộc tính yêu thương của Đức Chúa Trời, đặt mình dưới sự dắt dẫn của Ngài để được Ngài chuyển giao thuộc tính ấy cho chúng ta. Sống chân tình là duy trì một trạng thái quân bình giữa ý chí, lý trí, và tình cảm để giữ cho tình cảm được sống và động đúng hướng trong con người mới của chúng ta (2Cô. 5:17). Sống chân tình đồng nghĩa với việc sống đầu phục Đức Thánh Linh trong mọi sự; biết nghe thấy và vâng theo tiếng phán của Ngài trong mọi sự, mọi lúc. Sống chân tình là biết chiến đấu và chiến thắng con người cũ của mình một cách hợp Kinh Thánh (Gal. 5:16-18).
Sống chân tình là thường trực là thực hành chứ không chịu dừng lại trên cảm xúc và sự hiểu biết; đó là bước phát triển từ lời nói sang việc làm trong đời sống:
“Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau.” (1Gi. 4:11)
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_decothesongchantinh.pdf
File Size: 576 kb
File Type: pdf
Download File


“TƯ NIỆM”

26/8/2022

 
Picture
“ĐỂ CÓ THỂ CHĂN BẦY CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI”
(Gi. 21:15-17)
“Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em;
​làm việc đó chẳng phải
bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng mà làm.”
(1Phi. 5:2)
​Vốn đã kinh nghiệm được ơn cứu rỗi cao sâu của Đức Chúa Jêsus; được thoát khỏi nợ tội, án tội, và ách tội; được bình an, thư thái trong đời sống mới;… các Cơ Đốc Nhân thường có một cảm thức mạnh mẽ rằng phải luôn luôn sống đẹp ý Đức Chúa Trời; phải dốc sức đáp đền ơn cứu chuộc của Ngài; phải có nghĩa vụ chăm sóc, dắt dẫn, gây dựng cho bầy chiên của Ngài trong Hội Thánh;…
 
Dầu vậy, trong thực tiễn sinh hoạt của Hội Thánh, không ít người đã thất bại. Sự thất bại không những có đối với các thành viên bình thường của Hội Thánh mà cũng còn có cả giữa vòng các cấp lãnh đạo của Hội Thánh, kể cả những người vốn đã nhận được ơn kêu gọi để chăn bầy chiên của Đức Chúa Trời, được biệt riêng ra cho Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Jêsus Christ.
 
Chẳng những thế, sự thất bại lại còn thường lặp đi, lặp lại khiến cho sự tăng trưởng của các thành viên trong Hội Thánh gặp khó khăn vì bầu không khí thuộc linh của Hội Thánh không được ổn định, môi trường chức vụ trong Hội Thánh không được thuận lợi, và cơ cấu tổ chức của Hội Thánh trở nên trì trệ, thiếu hiệu quả.
 
Để có thể chăn bầy cho Đức Chúa Trời và gây dựng lẫn nhau, người ta cần phải có những điều gì trong con người của mình? Phải chăng đời sống thuộc linh thịnh vượng của Hội Thánh được bắt đầu từ chính mỗi cá nhân khi họ có được một sự đáp ứng, một động lực, một đối tượng, với một tính chất đúng theo sự đòi hỏi của chính Đức Chúa Jêsus?
 
Chúng ta có thể học biết được ý muốn của Đức Chúa Trời trên vấn đề này qua những gì Đức Chúa Jêsus đã phán với Sứ Đồ Phierơ sau khi ông đã thất bại trong việc kết ước với Ngài.
 
I. CHÍNH MỖI CÁ NHÂN PHẢI ĐÁP ỨNG
 
Tôn giáo đích thực phải là một cuộc tái hiệp phước hạnh, qua và trong Đức Chúa Jêsus, giữa mỗi cá nhân với Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo Và Tể Trị. Ai có được sự đáp ứng cá nhân đối với sự kêu gọi của Đức Chúa Trời sẽ nhận được phước hạnh; ngoài ra, không còn có cách nào khác:
“11Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy. 12Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, 13là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy.” (Gi. 1:11-13)
 
Đó chính là mối hạnh ngộ trong Tình Yêu Thương Cơ Đốc mà mỗi người đã được cứu dành cho Đấng Cứu Chuộc của mình. Đó là một phận sự cá nhân; vì vậy, sự đòi hỏi của Chúa cũng rất cá nhân:
“NGƯƠI yêu Ta hơn những kẻ nầy chăng?” (C. 15, 16, 17)
 
Tình yêu dành cho Đức Chúa Jêsus không phải chỉ được nhận biết trong lịch sử, mà phải là một tình yêu được mỗi cá nhân thể nghiệm:
“Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ.” (Phil. 3:8)
 
Khi nói về tình  yêu dành cho Chúa, đó phải là tình yêu thật sự xuất phát từ tấm lòng của mỗi người tin theo Đức Chúa Jêsus chứ không phải chỉ là nói về tình yêu của người khác, mô tả về tình  yêu của người khác đối với Ngài:
“Vì Đấng Christ là sự sống của tôi, và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy.” (Phil. 1:21)
 
Tình yêu đối với Đức Chúa Jêsus là ngọn lửa của tấm lòng, là sự bừng sáng của tình cảm, là sự nhiệt thành của linh hồn, là sự tận hiến nồng nàn của xúc cảm cá nhân. Trong thực tiễn Cơ Đốc Giáo, có quá nhiều sự vay mượn và tái chế kinh nghiệm tôn giáo. Đức Chúa Jêsus đòi hỏi tình yêu thực nghiệm chân thực của mỗi đời sống theo Ngài: “NGƯƠI yêu Ta hơn những kẻ nầy chăng?”.
 
II. PHẢI LẤY TÌNH YÊU THƯƠNG LÀM ĐỘNG LỰC
 
Động cơ của sự hầu việc Chúa phải luôn luôn là “Tình Yêu Thương Cơ Đốc”:
“Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em; làm việc đó chẳng phải bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng mà làm.” (1Phi. 5:2)
 
Người hầu việc Chúa cần phải có một số điều kiện nhất định, nhưng điều kiện quyết định chính là Tình Yêu Thương Cơ Đốc. Đức Chúa Jêsus đã hỏi Phierơ đến ba lần:
“Ngươi YÊU Ta hơn những kẻ nầy chăng?” (C. 15, 16, 17)
 
Tình yêu thương có các phẩm chất khác nhau. Từ tình yêu thương giữa con người đối với con người cho đến tình yêu thương thuộc linh và mang tính chất Thiên Thượng của Đức Chúa Trời đối với linh hồn con người:
(1) “Phileo”: Nói về tình yêu thương với sự quan tâm theo cảm xúc.
(2) “Stego”: Nói về tình yêu thương với tính chất che chở, nâng đỡ.
(3) “Agape”: Nói về tình yêu theo sự chọn lựa của ý chí, bằng sự hạ mình và hy sinh bản thân.
 
Tình yêu thương mà Đức Chúa Jêsus muốn Cơ Đốc Nhân phải có là Tình Yêu Thương Cơ Đốc. Theo J. I. Packer, “Ý nghĩa của Tình Yêu Thương Cơ Đốc được trực tiếp rút ra từ sự khải thị của Đức Chúa Trời trong và qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Dầu rằng rất mãnh liệt, nhưng Tình Yêu Thương Cơ Đốc không phải chỉ là cảm xúc thiên nhiên của con người, mà là bông trái của Đức Thánh Linh trong đời sống của người tin:
“Trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ.” (Gal. 5:22-23)
 
Tình Yêu Thương mà Đức Chúa Jêsus đòi hỏi là một thực tại của ý chí chứ không phải chỉ thuần túy là của xúc cảm, vì Cơ Đốc Nhân phải yêu cả những người mình không thích. Tình Yêu Thương Cơ Đốc đến từ Đức Chúa Trời và giúp cho chúng ta trở nên hoàn hảo. Tình Yêu Thương Cơ Đốc là yếu tố căn bản để trở nên giống với Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Jêsus:
“Hãy yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi… Các ngươi hãy nên trọn vẹn như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn.” (Ma. 5:44, 48)
 
Tình Yêu Thương Cơ Đốc là yếu tố không thể thiếu trong những ai đã được tái sanh nhờ ơn cứu rỗi:
“8Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương. 9Lòng Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta đã bày tỏ ra trong điều nầy: Đức Chúa Trời đã sai Con Một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống. 10Nầy, sự yêu thương ở tại đây: Ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta. 11Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau.” (1Gi. 4:8-11)
 
Một khi đã kinh nghiệm được ơn yêu thương của Đức Chúa Trời, người ta phải được thôi thúc chia sẻ tình yêu ấy cho nhiều người khác. Tình Yêu Thương Cơ Đốc vừa là động cơ, vừa là chất liệu để hầu việc Đức Chúa Trời:
“19Chúng ta yêu, vì Chúa đã yêu chúng ta trước. 20Ví có ai nói rằng: Ta yêu Đức Chúa Trời, mà lại ghét anh em mình, thì là kẻ nói dối; vì kẻ nào chẳng yêu anh em mình thấy, thì không thể yêu Đức Chúa Trời mình chẳng thấy được. 21Chúng ta đã nhận lãnh nơi Ngài điều răn nầy: Ai yêu Đức Chúa Trời, thì cũng phải yêu anh em mình.” (1Gi. 4:19)
 
Người ta không thể nào chăn bầy thành công mà không yêu Chúa. Đó chính là lý do để Đức Chúa Jêsus cật vấn Phierơ đến ba lần “Ngươi YÊU Ta hơn những kẻ nầy chăng?”.
 
III. PHẢI HƯỚNG VỀ ĐỐI TƯỢNG TỐI CAO LÀ CHÚA
 
Đối tượng trước tiên của Tình Yêu Thương Cơ Đốc phải là Đức Chúa Jêsus; Ngài hỏi Phierơ:
“Ngươi yêu TA hơn những kẻ nầy chăng?” (C. 15, 16, 17)
 
Đức Chúa Jêsus đáng cho Cơ Đốc Nhân tôn trọng, tận hiến, và gắn kết vì tình yêu thương mà Ngài đã dành cho họ:
“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Gi. 3:16)
“6Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội. 7Vả, họa mới có kẻ chết vì người nghĩa; dễ thường cũng có kẻ bằng lòng chết vì người lành. 8Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:6-8)
 
Đối với Cơ Đốc Nhân chân chính, chỉ có Đức Chúa Jêsus là đối tượng duy nhất và tối cao của đời sống họ:
“Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy nên chúng ta hoặc sống hoặc chết, đều thuộc về Chúa cả.” (Rô. 14:8)
 
Thân Vị và tính cách cao trọng của Đức Chúa Jêsus đòi hỏi phải dành cho Ngài một sự tận hiến cao cả nhất của tấm lòng và tâm trí:
“Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.” (Mác 12:30)
 
Yêu Chúa là điều kiện tiên quyết để có thể yêu tha nhân, điều ấy được thể hiện rõ qua lời phán của Đức Chúa Jêsus:
“Nầy là điều thứ hai: Ngươi phải yêu kẻ lân cận như mình. Chẳng có điều răn nào lớn hơn hai điều đó.” (Mác 12:31)
 
Yêu Chúa và yêu tha nhân là hai mặt của cùng một vấn đề chăn bầy cho Đức Chúa Trời; trong đó, việc “Kính mến Chúa” sẽ quyết định việc “Yêu kẻ lân cận”. Vì vậy, chúng ta biết vì sao Đức Chúa Jêsus đã hỏi Phierơ “Ngươi yêu TA hơn những kẻ nầy chăng?” đến ba lần!
 
IV. PHẢI CÓ TÍNH CHẤT VƯỢT TRỘI HƠN TẤT CẢ
 
Mức độ của Tình Yêu Thương Cơ Đốc phải là “hơn tất cả”:
“Ngươi yêu Ta HƠN những kẻ nầy chăng?” (C. 15, 16, 17)
 
Đối với những người thực sự tin theo Chúa, Đức Chúa Jêsus phải chiếm vị trí tối cao trong tấm lòng:
“Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng cho Ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn Ta thì cũng không đáng cho Ta.” (Ma. 10:37)
 
Trong tấm lòng của một Cơ Đốc Nhân chân chính, không thể có bất cứ ai hay điều gì có thể tranh chấp vị trí độc tôn của Đức Chúa Trời. Tình yêu đối với Đức Chúa Trời phải vượt trội hơn tất cả:
“Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi.” (Ma. 22:37)
 
Chúng ta cũng không ngạc nhiên vì sao Đức Chúa Jêsus lại hỏi Phierơ đến ba lần bằng cùng một câu hỏi. Ấy vì chính Phierơ là người đã từng ý thức được tính chất này và đã từng mạnh mẽ bày tỏ sự tận hiến của mình đối với Chúa trong mối tương quan so sánh với các môn đồ khác:
“Dầu mọi người vấp phạm vì cớ Thầy, song tôi chắc không bao giờ bị vấp phạm vậy.” (Ma. 26:33)
 
Để có thể chăn bầy cho Đức Chúa Trời, người ta phải “Kính mến Chúa” hơn bất cứ điều gì khác trong thế gian này. Mặt khác, nếu đã biết yêu Chúa hơn bất cứ điều gì khác mà lại còn biết mong muốn yêu Ngài hơn bất cứ người nào khác yêu Ngài thì càng xứng hiệp hơn đối với chức vụ. Như vậy, việc yêu Chúa hơn là người khác yêu Ngài bày tỏ được ý chí muốn yêu Ngài hơn tất cả: Tất cả mọi sự và tất cả mọi người. Sự đòi hỏi ấy chẳng những dành cho Phierơ mà còn là yêu cầu tất nhiên đối với chúng ta trong Hội Thánh ngày nay!
 
Tình Yêu Thương Cơ Đốc chân thực không thể sao chép được và không có gì thay thế được:
“1Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và Thiên Sứ, nếu không có tình yêu thương, thì tôi chỉ như đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng. 2Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được, nhưng không có tình yêu thương, thì tôi chẳng ra gì. 3Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi.” (1Cô. 13:1-3)
 
Để có thể chăn bầy cho Đức Chúa Trời, chúng ta phải có sự đáp ứng cá nhân đối với sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời. Đòi hỏi tối cao mà Ngài đưa ra là chúng ta phải có Tình Yêu Thương Cơ Đốc: Yêu Ngài để có thể yêu người. Đó là bông trái Thánh Linh của đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh nhờ biết dâng mình cho sự dắt dẫn của Ngài. Đối tượng trước tiên và tối cao của Tình Yêu Thương Cơ Đốc là chính Đức Chúa Jêsus. Tính chất của Tình Yêu Thương Cơ Đốc là phải vượt lên trên tất cả: Trên tất cả mọi sự và hơn tất cả mọi người. Nhiên hậu, người ta mới có thể dùng chính tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà yêu bầy chiên Ngài đã ủy thác cho mình. Ngoại giả, nguy cơ “kinh doanh trong chức phận chăn bầy” vẫn còn có thể xảy ra!
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_decothechanbaycuaducchuatroi.pdf
File Size: 279 kb
File Type: pdf
Download File


“TƯ NIỆM”

25/8/2022

 
Picture
“ĐỂ CÓ ĐƯỢC NƯỚC THIÊN ĐÀNG”
(Ma. 5:1-3)
“Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.”
(Ma. 5:3)
​Đối với một con người thiên nhiên, “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus dễ khiến họ cảm thấy bối rối. Hễ khi nào chúng ta còn cậy mình, Đức Chúa Trời vẫn còn để cho sự yếu đuối của chúng ta phô bày ra. Chỉ khi nào chúng ta, bởi ơn của Đức Chúa Trời, biết đến với Ngài y theo thân phận cùng khốn của mình và xin tiếp nhận Ân Điển của Ngài, chúng ta mới được Ngài ban phước cho: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.” (Ma. 5:3).
 
A. “NƯỚC THIÊN ĐÀNG”
 
“Nước” hay “Vương Quốc” thường có ba ý nghĩa chính:
(1) Sự trị vì của một vị quốc vương;
(2) Dân Sự và lãnh địa thuộc về một vị quốc vương;
(3) Sự thụ hưởng cá nhân dưới chế độ của một quốc vương.
“Nước Thiên Đàng” hay “Vương Quốc Đức Chúa Trời” (basileia tou theou) được đề cập trong Kinh Thánh là một khái niệm diễn đạt bằng Tiếng Hêbơrơ hay Hylạp có đầy đủ cả ba ý nghĩa kể trên, nhất là trong Kinh Thánh Tân Ước.
 
I. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Sự Trị Vì Của Đức Chúa Trời.
Sự đề cập sớm nhất trong Kinh Thánh về “Nước Thiên Đàng” được tìm thấy trong Sách Đaniên:
“Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị hủy diệt, quyền nước ấy không bao giờ để cho một dân tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy diệt hết các nước trước kia, mà mình thì đứng đời đời” (Đa. 2:44).
Tuy nhiên, “Nước Thiên Đàng” không phải chỉ thuần túy là sự điều hành trừu tượng. “Nước Thiên Đàng” là sự trị vì của Đức Chúa Trời một cách đầy quyền năng để phá diệt mọi điều ác và cứu chuộc tội nhân. Đức Chúa Jêsus nhất định sẽ trị vì như là Quốc Vương của Nước Thiên Đàng sau khi Ngài đã diệt trừ xong các kẻ thù của mình, trong đó kẻ thù cuối cùng là sự chết, sau đó Ngài sẽ dâng Nước Thiên Đàng lên cho Đức Chúa Cha (1Cô. 15:24-26).
Theo nghĩa này, “Nước Thiên Đàng” sẽ đến trong quyền năng và sự vinh hiển của sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus để kết thúc tiến trình diệt trừ các kẻ thù của Ngài. Nhờ các kết quả đã có được cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta là những người tin theo Đức Chúa Jêsus đã có thể hưởng được một phần các phước hạnh của Nước Thiên Đàng trong khi mong đợi được hưởng các phước hạnh lớn lao hơn khi Đức Chúa Jêsus tái lâm.
 
II. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Dân Sự Và Lãnh Địa Thuộc Về Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh Tân Ước cũng dùng phạm trù “Nước Thiên Đàng” để chỉ về Dân Sự của Đức Chúa Trời, tức những người đã được Đức Chúa Trời cứu chuộc bằng công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus:
“Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài…” (Khải. 1:6)
“Ngài đã làm cho những người ấy nên nước, và thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta; những người ấy sẽ trị vì trên mặt đất.” (Khải. 5:10)
Hiện nay là lúc chương trình cứu cuộc của Đức Chúa Trời chưa hoàn tất, Dân Sự Ngài còn chịu sự phối thuộc tư cách công dân với các nước của thế gian. Trong tương lai, khi chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời hoàn tất, “Nước Thiên Đàng” sẽ là một thực thể có lãnh thổ (Khải. 21:1-27).
 
III. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Sự Thụ Hưởng Cá Nhân Dưới Chế Độ Của Đức Chúa Trời.
Sự thụ hưởng cá nhân trong “Nước Thiên Đàng” vừa vốn có trong quá khứ, đang có trong hiện tại, và sẽ còn đến trong tương lai. Lời rao báo sớm nhất trong Kinh Thánh Tân Ước về “Nước Thiên Đàng” là lời của Giăng Báptít:
“Các ngươi phải ăn năn, vì nước Thiên Đàng đã đến gần.” (Ma. 3:2)
Mệnh lệnh về một tấm lòng “ăn năn” là sứ điệp xuyên suốt để được hưởng “Nước Thiên Đàng”:
“Từ lúc đó, Đức Chúa Jêsus khởi giảng dạy rằng: Các ngươi hãy ăn năn, vì nước Thiên Đàng đã đến gần.” (Ma. 4:17)
“Nước Thiên Đàng” được giới thiệu cho thế gian qua mục vụ của Giăng Báptít, và phải được nhận thức, theo đuổi bằng sự quyết tâm. Sự hai lòng, giả hình của người Pharisi, dầu rằng theo dòng giống thì họ là người được thừa kế, không cho phép “Nước Thiên Đàng” hiện hữu trong lòng họ một cách tự động được:
“Luật Pháp và các Lời Tiên Tri có đến đời Giăng mà thôi; từ đó, Tin Lành của Nước Đức Chúa Trời được truyền ra, và ai nấy dùng sức mạnh mà vào đó.” (Lu. 16:16; Gk. biazo = dốc lòng, dốc sức)
Trên một phương diện, “Nước Thiên Đàng” chính là kinh nghiệm bản thân về sự điều khiển, dắt dẫn của Đức Chúa Trời trên đời sống cá nhân. Dầu rằng “Nước Thiên Đàng” đã được mở ra trên đất, nhưng để hưởng được “Nước Thiên Đàng” người ta phải mở cửa lòng mình ra để đón nhận:
“Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.” (Gi. 3:3)
Trên phương diện là sự thụ hưởng cá nhân dưới sự trị vì của Đức Chúa Trời, “Nước Thiên Đàng” là năng lực cảm thụ và đáp ứng với quyền năng Thiên Thượng chứ không phải chỉ là chữ nghĩa, văn tự:
“Vì nước Đức Chúa Trời chẳng phải ở tại lời nói, mà ở tại năng lực.” (1Cô. 4:20)
Đó chính là sự dạy dỗ trong lời phán của Đức Chúa Jêsus trong “Bài Giảng Trên Núi”: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.” (Ma. 5:3)
 
B. “KẺ CÓ LÒNG KHÓ KHĂN”
 
Trong Định Kỳ Hội Thánh, “Nước Thiên Đàng” chỉ về trạng thái một cá nhân đầu phục hoàn toàn theo sự dắt dẫn của Thánh Linh Đức Chúa Trời:
“Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Đức Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức Chúa Trời.” (Gi. 3:5)
Khi vua Salômôn làm vua dân Ysơraên, Đức Chúa Trời hứa  ban bất cứ điều gì ông xin. Thay vì xin sự giàu sang, quyền lực; Salômôn đã xin Đức Chúa Trời sự khôn ngoan. Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu xin ấy và ban cho vua Salômôn sự khôn ngoan. Với sự khôn ngoan từ nơi Đức Chúa Trời, mọi sự khác đều đã đến với vua Salômôn. Đó là một hình ảnh cho thấy tác dụng phi thường của một tấm lòng “khó khăn”. “Có lòng khó khăn” là nhận thức được sự thiếu kém của mình và biết nương cậy Đức Chúa Trời trong tất cả mọi sự. Nhờ vậy, “kẻ có lòng khó khăn” sẽ được ban cho “Nước Thiên Đàng”. Ai biết lấy Đức Chúa Trời làm lẽ sống của mình sẽ được Ngài ban cho tất cả để sống.
Các nhân vật Kinh Thánh đã biểu lộ “lòng khó khăn” của họ như thế nào, và làm thế nào để chúng ta thực sự có “lòng khó khăn” để có thể thừa hưởng được “Nước Thiên Đàng”?
 
I. “Lòng Khó Khăn” Phải Thường Trực.
Khi dân Ysơraên rời khỏi xứ Aicập, họ đã mang theo một phần sự giàu có của Aicập mà Đức Chúa Trời cho phép họ đòi hỏi như tiền công cho những năm dài phục dịch (Xuất. 11:2; Thi. 105:37). Tuy nhiên, tình trạng sung túc tài chính ấy đã không giải quyết nổi vấn đề thiếu nước uống của họ trong sa mạc. Tiền bạc là một việc, nhưng thức ăn, nước uống trong sa mạc lại hoàn toàn là một việc khác. Lúc ấy, dân Ysơraên thừa tiền của nhưng lại thiếu nước để sống. Nếu không có sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời, sự sống của họ đã phải giã từ sự giàu có để ra đi.
Vào mỗi buổi sớm mai, Đức Chúa Trời đã ban cho họ Mana, một loại thức ăn từ trời rơi xuống sáu ngày mỗi tuần. Dân Sự chỉ được phép nhặt một số lượng đủ dùng cho mỗi ngày. Số Mana dùng còn thừa sẽ trở nên hư thối, hóa sâu bọ trong ngày tiếp theo (Xuất. 16:16-21). Tuy nhiên, vào ngày (Thứ Sáu) trước ngày Sabát, họ được phép thu nhặt nhiều gấp đôi ngày thường (Xuất. 16:22-24). Bằng việc qui định như thế, Đức Chúa Trời dạy cho Dân Sự Ngài biết nương cậy nơi Ngài mỗi ngày.
Sự cung ứng Mana của Đức Chúa Trời cho dân Ysơraên dạy cho chúng ta biết thế nào là “có lòng khó khăn”. Đức Chúa Trời muốn chúng ta:
(1) Trực tiếp nhận từ nơi Ngài sự đáp ứng thuộc linh;
(2) Biết rằng sự đáp ứng thuộc linh là nhu cần hàng ngày và phải được nhận mỗi ngày;
(3) Phải có sự chuẩn bị thuộc linh cho sự yên nghỉ trong Ngài.
Thử tưởng tượng, bầu không khí thuộc linh trong Hội Thánh mỗi Chúa Nhật sẽ tốt đẹp biết bao nếu mọi người trong Hội Thánh đều chuẩn bị lòng mình cho Lời Chúa, cho sự cầu nguyện, cho sự thờ phượng,… ngay từ ngày (Thứ Bảy) hôm trước? Có được như thế, buổi thờ phượng Chúa Nhật của chúng ta sẽ được sự hiện diện đầy quyền năng của Đức Thánh Linh. Ngược lại, nếu Dân Sự chỉ biết dành duy nhất ngày Chúa Nhật để gặp gỡ với Đức Chúa Trời cho cả tuần lễ, sự kinh nghiệm Chúa của họ sẽ lập tức bị thui chột ngay vào ngày hôm sau theo cùng một cách mà ngày xưa Mana đã bị phân hủy! Chúng ta được dạy phải biết chuẩn bị thích đáng cho sự giao ngộ với Đức Chúa Trời của mình.
 
II. “Lòng Khó Khăn” Phải Tích Cực.
Sự nương cậy nơi Đức Chúa Trời là một nổ lực tích cực của ý chí, không phải chỉ là phản ứng có điều kiện theo cảm xúc.
Đaniên là một con người thực sự “có lòng khó khăn”. Nhu cần tương giao với Đức Chúa Trời của Đaniên lớn không có gì ngăn cản nổi. Chính những người chống đối Đaniên biết rõ điều đó và họ đã tâu xin vua ban một sắc lệnh cấm không được cầu nguyện với bất cứ thần nào khác trong thời hạn ba mươi ngày. Đúng như mưu tính của những kẻ gian ác, Đaniên đã không bỏ sự cầu nguyện với Đức Chúa Trời của mình và đã bị ném vào hang sư tử để trừng phạt. “Có lòng khó khăn” là có cả Thiên Đàng với muôn thiên binh, thiên sứ và Đức Chúa Trời mình! Đaniên đã được bình an vô sự trước lũ sư tử đói mồi, khát máu. Đã bao giờ chúng ta bị đặt vào hoàn cảnh khó khăn như Đaniên chưa? Liệu chúng ta “có lòng khó khăn” như Đaniên không?
 
III. “Lòng Khó Khăn” Phải Chân Thực.
Sự nương cậy đúng nghĩa nơi Đức Chúa Trời phải là một sự nương cậy chân thực. 
Mác 10 trước thuật về một người trai trẻ, giàu có được kể là đã giữ mọi điều Luật Pháp đòi hỏi “từ khi còn nhỏ” (Mác 10:20), được chính Đức Chúa Jêsus xem như chỉ “còn thiếu một điều” (Mác 10:21) nhưng đã thất bại trong việc nắm bắt “sự sống đời đời” (Mác 10:17) vì người này “có nhiều của lắm” (Mác 10:22). 
Chính các môn đồ của Đức Chúa Jêsus cũng không tự tách vạch nổi bản chất của vấn đề (Mác 10:28), và đã phải cần đến sự minh giải của Đức Chúa Jêsus:
“29Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, chẳng một người nào vì Ta và Tin Lành từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, 30mà chẳng lãnh được đương bây giờ, trong đời nầy, trăm lần hơn về những nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con, đất ruộng, với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong đời sau” (Mác 10:29-30)
Sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus về việc “có lòng khó khăn” không nói về sự khó khăn vật chất. Tuy nhiên, có một mối tương quan giữa sự nghèo khó thuộc linh và sự nghèo khó trong đời này. Con người thiên nhiên luôn có xu hướng ỷ lại nơi những gì mình có. Khi không thể tìm được sự nương cậy nơi của cải vật chất, người ta sẽ dễ dàng hơn trong việc đến với Kinh Thánh để tìm kiếm lẽ thật và sự khôn ngoan. Khi không thể ỷ lại vào của cải vật chất, người ta sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc hạ mình, quì gối trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm sự thương xót của Ngài.
“Có lòng khó khăn” cũng không nói về sự thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Có người tưởng lầm rằng có sự hiểu biết về Kinh Thánh đồng nghĩa với sự trưởng thành thuộc linh, nhưng điều ấy không đúng. Có một kiến thức Kinh Thánh phong phú có thể giúp ích cho người ta tăng trưởng trong đời sống Cơ Đốc. Tuy nhiên, đời sống Cơ Đốc là một vấn đề hoàn toàn khác: Đời sống Cơ Đốc là đời sống làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Kinh Thánh chứ không phải chỉ là sự hiểu biết về Kinh Thánh. Đời sống Cơ Đốc có liên quan đến việc vâng theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, áp dụng sự dạy dỗ Kinh Thánh trong đời sống mình.
“Có lòng khó khăn” cũng không có nghĩa là tự đánh giá thấp về mình. Đức Chúa Trời muốn chúng ta có nhận thức về mình đúng y theo như vốn có, không hơn, không kém. Đức Chúa Trời không hề muốn chúng ta tự gớm ghét mình, Ngài chỉ đòi hỏi chúng ta phải nương cậy Ngài mà thôi.
“Có lòng khó khăn” có nghĩa là tự nhận thức được trạng thái băng hoại thuộc linh của bản thân; biết rằng không thể tự mình hoàn thiện mình, không thể tự mình cứu mình được mà phải hoàn toàn nương cậy nơi Ân Điển của Đức Chúa Trời (Lu. 18:9-14).
Phước hạnh Thiên Thượng sẵn dành cho những ai sống đẹp ý Đức Chúa Trời. Ngài  dò thấu tận trong lòng mỗi người, và Ngài làm ơn dồi dào cho ai biết tận hiến để hoàn thành ý chỉ của Ngài trên đời sống mình.
Là Cơ Đốc Nhân chân thực, người ta phải tìm thấy được mọi sự có cần cho đời sống theo Chúa từ nơi Đức Thánh Linh đang ở cùng mình. Sự hiện diện của Đức Thánh Linh đem Vương Quốc của Đức Chúa Trời đến trong đời sống của bất cứ ai thành tâm, trung tín trong sự nương cậy Ngài, chịu để cho Ngài dắt dẫn. “Có lòng khó khăn” là có một sự nhận thức thường trực, tích cực, và chân thực về thân phận bất lực của mình; biết trông cậy ở sự đáp ứng toàn diện và tuyệt đối của duy nhất Đức Chúa Trời cho mọi nhu cần cá nhân.
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_decoduocnuocthiendang.pdf
File Size: 403 kb
File Type: pdf
Download File


“TƯ NIỆM”

24/8/2022

 
Picture
“CON ĐƯỜNG NÀO PHẢI ĐI?”
(Dân. 22:1-38)
“Đức Chúa Trời phán cùng Balaam rằng: Ngươi chớ đi với chúng nó, chớ rủa sả dân nầy, vì dân nầy được ban phước.”
(Dân. 22:12)
​Hầu như chúng ta ai cũng đều đồng ý rằng đường lối của Đức Chúa Trời là tốt nhất. Thế nhưng, không phải tất cả những người biết rằng đường lối Đức Chúa Trời là tốt đều từ bỏ đường lối riêng của mình để đi theo đường lối của Ngài. Có một sự cách biệt lớn lao giữa việc biết điều tốt và làm theo điều tốt. Nói và làm là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau.
Những con người tôn giáo nửa mùa hay giả danh tôn giáo chính là những người chuyên hô hào các định hướng tốt đẹp nhưng không bao giờ chịu làm theo. Những nhà lừa đảo tôn giáo chuyên nghiệp bao giờ cũng cắm một chân trong đạo và chân còn lại thì cố chiếm lấy một chỗ ngoài đời. Họ khiến chúng ta nhớ đến lời của Sứ Đồ Phaolô:
“1Hãy biết rằng trong ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. 2Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, 3vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, 4lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời, 5bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó. Những kẻ thể ấy, con hãy lánh xa đi” (2Ti. 3:1-5).
Cần phải biết một số điều căn bản về nhân vật Balaam mới có thể hiểu được câu chuyện trước thuật trong Dân. 22. Càng biết nhiều về Balaam, chúng ta càng có được nhiều sự nội kiến hơn về các quyết định của Balaam và về cách Đức Chúa Trời đối đãi với Balaam thể theo hành động của con người này.
 
I. CON ĐƯỜNG CỦA BALAAM
 
Balaam không phải là một người Do Thái. Balaam là một người ngoại bang đến từ miền Mêsôpôtami. Lắm người khi đọc câu chuyện này cứ ngỡ Balaam là một người công bình. Điều ấy không đúng. Dầu rằng vào thời của Balaam, có nhiều người đã xem Balaam là một Đấng Tiên Tri, nhưng không phải thế. Balaam là một thầy phù thủy (C. 7). Đối với Balaam, tôn giáo là một loại công việc chứ không phải là một lẽ sống. Thời ấy, các thầy phù thủy được người ta cho là có ảnh hưởng đối với các thần; vì thế, vua Môáp muốn nhờ Balaam sử dụng quyền lực của mình đối với Đức Chúa Trời của Ysơraên để gán trên Ysơraên một lời rủa sả. Vua Môáp mong rằng với tà thuật, Đức Chúa Trời sẽ lìa bỏ Ysơraên là Dân Ngài. Rõ ràng là cả Balaam lẫn Balác đều không hình dung được là họ đang muốn tác động trên một Đấng vĩ đại như thế nào!
Câu chuyện về Balaam thể hiện cho thấy một trạng thái dối giả: Vẻ bề ngoài là thuộc linh (Sv. Cc. 8, 13, 18), nhưng bên trong là một đời sống sa bại. Balaam chỉ vâng theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời khi nào sự vâng lời ấy còn giúp ông kiếm chác được. Điều này khá quen thuộc trong Hội Thánh ngày nay! Mặc dầu Balaam biết rằng Đức Chúa Trời của Ysơraên là một Đức Chúa Trời đáng kính sợ, tấm lòng của Balaam vẫn đầy ắp tham vọng được làm giàu nhờ người Môáp. Sự pha tạp giữa các động cơ đối nghịch nhau - sự vâng lời và sự kiếm chác - cuối cùng đã dẫn Balaam vào con đường sự chết:
“15Chúng nó đã bỏ đường thẳng mà đi sai lạc theo đường của Balaam, con trai Bôsô, là kẻ tham tiền công của tội ác; nhưng người bị trách về sự phạm tội của mình. 16Bởi có một con vật câm nói tiếng người ta, mà ngăn cấm sự điên cuồng của người tiên tri đó” (2Phi. 2:15-16).
“11Khốn nạn thay cho chúng nó, vì đã theo đường của Cain, lấy lòng tham lợi mà gieo mình vào sự sai lạc của Balaam; và bị hư mất về sự phản nghịch của Côrê. 12Những kẻ đó là dấu vít trong đám tiệc anh em, như người chăn chiên chỉ tưởng nuôi mình no nê, không lo sợ gì; như đám mây không nước, theo gió đưa đi dây đó, như cây tàn mùa Thu, không có trái, hai lần chết, trốc lên bực rễ” (Giu. 11-12).
“Bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó” chính là nét tính cách của Balaam. Balaam biết rõ rằng đường lối của Đức Chúa Trời là tốt nhất mà vẫn cứ hành động theo lịch trình của mình, đi theo lộ trình mà mình đã vạch sẵn. Tại sao Đức Chúa Trời lại phán qua một người như Balaam, hay là đã sử dụng một thầy phù thủy như Balaam?
Thứ nhất, Đức Chúa Trời có thể sử dụng một người chẳng màng chi đến công việc của Ngài để hoàn thành các mục đích của Ngài. Đức Chúa Trời muốn ban cho người Môáp một thông điệp qua người họ đã thuê là Balaam. Balaam đã được chuẩn bị sẵn cho Đức Chúa Trời sử dụng giống như ngày xưa Đức Chúa Trời đã sử dụng Pharaôn gian ác để hoàn thành ý chỉ của Ngài ở Aicập, hay là Ngài đã sử dụng Sêsa trong thời Đức Chúa Jêsus.
Thứ hai, Đức Chúa Trời có một chương trình cho Balaam, nhưng Balaam đã theo chương trình riêng của mình. Đức Chúa Trời ban cho Balaam một cơ hội, cũng giống như Ngài luôn ban cơ hội cho tất cả mọi người chúng ta, để quay trở lại với Ngài. Mỗi người chúng ta đều có những cơ hội như Balaam. Điểm chính là chúng ta có biết lắng nghe Ngài hay không mà thôi. Balaam chạm trán với chính Đức Chúa Trời, đó là cơ hội vàng để khôi phục lại đời sống cho đúng đường lối, nhưng Balaam đã cố tình cho trôi qua.
 
II. CON ĐƯỜNG PHẢI ĐI
 
Có những lý do nhất định khiến cho người ta lãng tránh ý chỉ của Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể nào nhận ra được ý chỉ của Đức Chúa Trời dầu ý chỉ ấy ở ngay trước mặt chúng ta, vì chúng ta không hề quan tâm đến. Đôi khi chúng ta có thấy, có biết nhưng lại cố làm ngơ… Trong câu chuyện này, Đức Chúa Trời đã sử dụng một con lừa để dạy cho Balaam về con đường phải đi. Câu chuyện đem lại cho chúng ta một số bài học:
 
1. Bài Học Thứ Nhất: Đức Chúa Trời Đòi Hỏi Chúng Ta Phải Tuyệt Đối Vâng Lời Ngài (C. 12).
 
Đức Chúa Trời đã ban cho Balaam một chỉ thị rằng “Ngươi chớ đi với chúng nó, chớ rủa sả dân nầy, vì dân nầy được ban phước” (C. 12). Mệnh lệnh này thật rõ ràng. Lời phán của Đức Chúa Trời luôn luôn dứt khoát; khi Ngài phán đừng đi cũng dứt khoát như khi Ngài phán hãy đi:
“1Có lời Đức Giêhôva phán cho Giôna con trai Amitai như vầy: 2Ngươi khá chỗi dậy! Hãy đi đến thành lớn Ninive, và kêu la nghịch cùng nó; vì tội ác chúng nó đã lên thấu trước mặt Ta” (Giôna. 1:1-2).
Tương tự với Giôna, Balaam gặp rắc rối không phải vì Đức Chúa Trời đã không hướng dẫn mà là vì đã không chịu theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Ở đây không có vấn đề hiểu lầm hay giải nghĩa lầm. Đây là vấn đề của sự vâng lời. Một khi Đức Chúa Trời phán rằng phải làm thì hãy cứ mà làm. Đừng bao giờ nghi ngờ, ngại ngần hay cố làm cho sự vật chìu theo ý muốn của mình.
Balaam hiểu Đức Chúa Trời chứ chẳng phải là không (C. 13). Ngay lần đầu tiên khi Balác sai người đến với Balaam, đâu có điều gì khiến cho Balaam không hiểu được ý chỉ của Đức Chúa Trời? Thật ra, đâu cần phải đợi chờ gì thêm, ý chỉ của Đức Chúa Trời đã rõ ràng đủ cho Balaam làm theo rồi! Chính Balaam cũng tỏ cho thấy là mình biết điều ấy:
“Đức Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối,_Cũng chẳng phải là con loài người đặng hối cải._Điều Ngài đã nói, Ngài há sẽ chẳng làm sao?_Điều Ngài đã phán, Ngài há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?” (Dân. 23:19).
Một khi Đức Chúa Trời đã phán truyền cho chúng ta làm gì, Ngài đòi hỏi ở chúng ta một sự vâng lời tuyệt đối. Nếu chúng ta dám điều hòa ý chỉ của Ngài, đừng trách sao phải chịu hậu quả thảm thương! Có người đã nói như thế này: “Lắm khi Đức Chúa Trời trách phạt chúng ta bằng cách để cho chúng ta đi theo đường lối riêng của mình”.
 
2. Bài Học Thứ Hai: Đức Chúa Trời Luôn Cảnh Báo Cho Chúng Ta Khỏi Lạc Lối (C. 22).
Balaam đã hạ quyết tâm là sẽ chẳng làm trái ý Đức Chúa Trời vì tiền, thế nhưng lòng tham giàu sang nhờ Balác đã làm mù mắt Balaam đến mức không còn nhận ra được ra được rằng Đức Chúa Trời không muốn Balaam làm như thế. Dầu rằng chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm điều gì, chúng ta vẫn cứ có thể trở nên mù quáng vì tiền bạc, của cải, danh vọng.
Giống như trường hợp của Balaam, nhiều khi Đức Chúa Trời cũng sẽ “đứng trên đường có cây gươm trần nơi tay” để chống lại chúng ta khi chúng ta đang cố làm một điều gì đó. Đức Chúa Trời yêu chúng ta, Ngài muốn chúng ta suy nghĩ lại, quay trở lại, biết rằng một sự thực hiện nào đó của chúng ta là sai. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta tự làm tổn hại mình. Nếu chúng ta rời bỏ ý chỉ của Đức Chúa Trời, Ngài không bao giờ chịu để cho chúng ta đi mà thiếu các bảng cấm trên đường. Thế nhưng vấn đề ở chỗ chúng ta bị cuốn theo làn sóng của ý riêng đến độ không còn nhận ra sự cảnh báo của Đức Chúa Trời. Vì vậy, chúng ta thường phải chịu đau đớn sau đó.
Đức Chúa Trời muốn ngăn cản Balaam nhưng Balaam quá tự tin đến mức không sao nhận ra được điều gì khác hơn là ý muốn riêng của mình. Mấy ai biết để ý xem Đức Chúa Trời muốn gì một khi chính lòng mình đang bị một điều gì đó thôi thúc? Đức Chúa Trời muốn cho Balaam phải dừng lại, nhưng “dừng lại” là điều làm cho Balaam trở nên bực bội.
Chúng ta cũng thế. Một khi công việc đang diễn tiến bỗng gặp trở ngại, phản ứng của chúng ta là ngã lòng. Chúng ta phân vân không biết mình sẽ phải làm gì, ai sẽ giúp cho chúng ta, hậu quả sẽ thế nào… Hỏng xe dọc đường đã khó, hỏng việc khi công việc đang tiến triển còn khó khăn hơn nhiều! Balaam “hỏng xe’ và trở nên tức giận trước viễn cảnh “hỏng việc”, và phản ứng tâm lý ấy đã biến Balaam thành người mù quáng: Chính Balaam tự biến mình thành một “con lừa” không còn biết phân biệt phải quấy nữa!
Balaam đã nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời nhưng không làm theo. Balaam thực hiện ý riêng của mình dưới chiêu bài bước đi theo Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Chúa Trời đã chống lại Balaam, Ngài sai Thiên Sứ đứng trên đường “đặng cản người”, làm một rào cản cho Balaam không đi sai đường. Dầu vậy, Balaam không đủ nhạy bén với ý muốn của Đức Chúa Trời và đã trút tai vạ lên con lừa của mình.
 
3. Bài Học Thứ Ba: Khi Được Đức Chúa Trời Ngăn Cấm, Đừng Đổ Vạ Trên Người Khác.
Lắm khi Đức Chúa Trời cố làm cho chúng ta chú ý nhưng chúng ta không hề biết lắng nghe Ngài. Vào những lúc như thế, Đức Chúa Trời thường cho phép những điều nhất định nào đó xảy ra để chúng ta biết quay lại với Ngài mà thưa rằng “Lạy Chúa, con đã sai trật ở đâu, xin phán dạy cho con đi theo đúng ý chỉ của Ngài”. Tuy nhiên, vì quá tự mãn, chúng ta chỉ bận tâm đến công việc đang theo đuổi mà thôi, chúng ta coi thường tất cả các điều khác, và sẵn sàng nổi nóng với bất cứ sự gì gây trở ngại cho chúng ta. Thật ra, khi chúng ta đổ vạ trên một ai đó, điều ấy có nghĩa là chúng ta đang có sự sai trật. Đừng để sự thương tổn hay kiêu căng của mình làm tổn thương người khác.     
Ngày xưa, con lừa là một công cụ đa năng: Làm phương tiện đi lại, chuyên chở hàng hóa, kéo cối xay thóc, kéo cày,… Thông thường, con lừa là loài có thể cậy nhờ được. Chính điều ấy giải thích vì sao Balaam đã trở nên tức giận khi con lừa của mình đứng lại, không chịu đi tới. Ngay cả khi những người bạn thân, rất đáng tin cậy của chúng ta can gián chúng ta về một điều gì đó, chúng ta vẫn có thể tức giận được! Ba lần Balaam đánh con lừa của mình là vì Balaam bị cầm tù trong sự suy nghĩ của mình mà không nhận thức được các rào cản yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho mình (Cc. 23, 25, 27):
“Bấy giờ, Đức Giêhôva mở miệng lừa ra, nó nói cùng Balaam rằng: Tôi có làm chi cho người, mà người đã đánh tôi ba lần?” (C. 28).
Dầu là một người tài giỏi, danh vọng, nhưng khi bị cầm tù trong tư dục mình người ta vẫn cứ tầm thường hết sức. Balaam là một người thông thái hơn hết đã phải bước vào cuộc đối thoại với một con vật có tiếng là đần độn hơn hết (Cc. 29-30) rồi mới có được sự chứng giải từ nơi Đức Chúa Trời (Cc. 31-34). Trong trường hợp này, nói cho đúng nghĩa, ai là người và ai là lừa là một vấn đề đáng nên suy gẫm vậy!
Một khi được Đức Chúa Trời mở mắt ra cho, khi chúng ta nhận thức được mình đã trôi giạt khỏi đường lối Ngài như thế nào rồi, hãy dũng cảm thực hiện một quyết định then chốt là quay trở lại với Ngài để khỏi lún sâu vào con đường hủy diệt! (C. 31).
Sự kiêu ngạo làm cho chúng ta xa cách Đức Chúa Trời, khiến cho chúng ta nghịch lại ý chỉ và lời phán của Ngài. Sự kiêu ngạo không giúp cho chúng ta nhận ra sự sai trật của mình để được khôi phục. Mỗi khi nhận ra được sự sai trật của mình, chúng ta đừng chống chế mà hãy đến phủ phục trước Đức Chúa Trời  toàn năng để được ban ơn (C. 38; Sv Gia. 4:6; 1Phi 5:5).
Con lừa của Balaam là một con lừa trung tín, vì muốn cứu sự sống cho chủ mà phải bị hành hạ (Sv. C. 33). Trong sự nóng giận và u mê, Balaam đã đánh con vật vô tội của mình ba lần. Điều này vẫn thường xảy đến với chúng ta. Rất có thể chúng ta đã từng đối xử tệ bạc với một người nào đó khi họ toan làm điều ích cho chúng ta. Cũng có thể chúng ta đã từng phải chen vào khoảng giữa sự nguy hiểm với bạn thân yêu của mình, và rồi chúng ta phải hứng chịu sự thịnh nộ của bạn mình…
Ngày nay, có quá nhiều người trên phương diện danh nghĩa là người rao giảng Lời Đức Chúa Trời nhưng thực chất chỉ là người đi theo con đường Balaam. Đối với hạng lãnh đạo ấy, tôn giáo không phải là một lẽ sống mà là một phương tiện sống. Họ tự chứng tỏ chẳng có một chút cảm động nào đối với chức phận lãnh đạo trong tinh thần phục vụ mà Đức Chúa Jêsus đã nêu gương. Để biết phải đi đường nào và đi được đúng con đường Đức Chúa Trời chuẩn thuận, chúng ta phải giữ cho tiếng nói của ý riêng im lặng, phải lắng nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời, và cẩn thận làm theo ý chỉ của Ngài.
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_conduongnaophaidi.pdf
File Size: 249 kb
File Type: pdf
Download File


“TƯ NIỆM”

23/8/2022

 
Picture
“CHỚ BỎ SỰ NHÓM LẠI”
(Hê. 10:19-25)
“Vậy thì anh em hãy khuyên bảo nhau, gây dựng cho nhau như anh em vẫn thường làm”
(1Tê. 5:11)
​Mệnh lệnh Kinh Thánh dưới mỗi hình thái ngữ pháp truyền đạt theo cách riêng các Lẽ Thật thuộc linh mà Đức Chúa Trời muốn gửi đến Dân Ngài. Một trong những cách bày tỏ mệnh lệnh Kinh Thánh là một hình thái ngữ pháp được gọi là “mệnh lệnh cách”, hay “thể cầu khiến”, bắt đầu với những từ liệu như “hãy”, “phải”, “nên”, “chớ”, “cũng nên”... Tổng số lần các câu mệnh lệnh cách được sử dụng trong các Thư Tín Tân Ước không nhiều lắm nhưng riêng Sách Hêbơrơ đã có 15 lần (Hê. 1:6; 4:1, 11, 14, 16; 6:1; 10:22, 23, 24, 25; 12:1; 12:2; 12:28; 13:13, 15), và trong đó Chương 10 có đến 4 lần để hình thành một sự dạy dỗ đặc biệt về việc nhóm lại của Dân Chúa trong các Hội Thánh Địa Phương, mở ra cho chúng ta thấy ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống Cơ Đốc Nhân chúng ta.
 
I. “HÃY… ĐẾN GẦN CHÚA” (Hê. 10:22)
“Hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa” (Hê. 10:22)
 
“Đến gần” (Gk. "proserchomai") là một từ liệu Hylạp có nghĩa là “tiếp cận”, “thăm viếng”, “thờ kính”, “hội nhập”, “kết hiệp”. “Hãy… đến gần Chúa” là mệnh lệnh về việc phải có đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus Christ về công nghiệp đền tội thay đã hoàn thành trên Thập Tự Giá của Ngài.
Để có thể “đến gần” để thờ phượng Đức Chúa Trời, chúng ta được đòi hỏi phải có phẩm cách xứng hiệp là phải “tinh sạch” trước mặt Đức Chúa Trời: “Lòng thật thà”, “đức tin đầy dẫy trọn vẹn”, “lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu”, “thân thể rửa bằng nước trong”.
Nếu “thân thể rửa bằng nước trong” nói về một đời sống thánh khiết hoàn toàn thì ai có thể đến gần được Đức Chúa Trời để thờ phượng Ngài? Phần lớn các học giả Kinh Thánh đều tin rằng “thân thể rửa bằng nước trong” (C. 22) nói về phép Báptêm. Vấn đề ở đây là động từ “rửa” trong Tiếng Hylạp là “rhantizo” có nghĩa là “rảy (nước)” đã tạo nên một số dị luận. Sự thật ở chỗ điều mà Đức Chúa Trời muốn dạy dỗ ở đây là phép Báptêm cho tấm lòng, cho con người bề trong của tín hữu. Chỉ có quá mức thiếu sáng suốt mới có thể tin được rằng một ít nước cho bên ngoài cơ thể lại có tác dụng làm sạch được cho con người bề trong! Với sự hoàn thành công nghiệp đền tội thay trên Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus, chúng ta cần nên biết rằng “thân thể rửa bằng nước trong” phải được thực hiện bằng một sự “rửa” tượng trưng cho bề ngoài thân thể và được hoàn tất bằng một sự “rửa” thiêng liêng cho tấm lòng nhờ sự rưới huyết (rhantizo: “rảy”) đã hoàn thành tại Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus:
“Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép Báptêm cho họ…” (Ma. 28:20).
“Thân thể rửa bằng nước trong” là một cách nói chỉ về một linh hồn (tâm thần) đã được đổi mới “nhờ Ân Điển, bởi đức tin” (Êph. 2:8) đặt vào công nghiệp cứu rỗi của Đức Chúa Jêsus. “Thân thể rửa bằng nước trong” nói về đức tin thật, nói về sự xứng hiệp của một “tâm thần” đã biết (chịu) đáp ứng theo “lẽ thật”:
“23Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. 24Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Gi. 4:23-24)
 
II. “HÃY CẦM GIỮ…” (Hê. 10:23)
“Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay, vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê. 10:23)
 
Hiển nhiên đây là một sự kêu gọi về sự bền đỗ trong niềm tin và đời sống thực hành niềm tin của Cơ Đốc Nhân. Từ liệu “cầm giữ” được dịch từ một từ liệu Hylạp là “katecho” với nghĩa là “chịu đựng”, “lưu trữ”, “ghi nhớ trong tâm trí”. Từ liệu “cầm giữ” trong câu Kinh Thánh này được bổ nghĩa cho mạnh hơn bằng một trạng từ là “kilines”, với nghĩa là “một cách không thay đổi”. “Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay…” là lời khuyên giục mà Đức Thánh Linh đã dùng ngòi bút của Trước Giả Sách Hêbơrơ gửi đến chúng ta để bất cứ lúc nào, và trong bất cứ sự gì niềm tin mà chúng ta đã đặt nơi công nghiệp đền tội thay của Đức Chúa Jêsus cũng không thay đổi. Mệnh lệnh này dạy chúng ta về tính hiệu quả của đức tin bền đỗ trong Đức Chúa Jêsus Christ:
“Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (1Cô. 15:58)
Sự bền đỗ của chúng ta trong đức tin được hiệu quả trong Đức Chúa Jêsus (1Cô. 15:58) không phải vì bất cứ điều gì khác hơn là vì “Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê. 10:23). Đức thành tín của Đức Chúa Trời là tất cả những gì cần và đủ cho đức tin của chúng ta đặt nơi Ngài có hiệu quả. Đức thành tín ấy là nguồn cho sự trông cậy của chúng ta để chúng ta có khả năng vững vàng, chịu khổ,  vượt qua mọi trở ngại, thử thách:
“14Nếu anh em phải vì sự công bình mà chịu khổ, ấy thật là có phước. Chớ sợ điều họ sợ và đừng rối trí; 15nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ, 16phải có lương tâm tốt, hầu cho những kẻ gièm chê cách ăn ở lành của anh em trong Đấng Christ biết mình xấu hổ trong sự mà anh em đã bị nói hành; 17vì nếu ý muốn Đức Chúa Trời dường ấy, thì thà làm điều thiện mà chịu khổ, còn hơn làm điều ác mà chịu khổ vậy” (1Phi. 3:14-17)
 
III. “HÃY COI SÓC NHAU…” (Hê. 10:24)
“Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành” (Hê. 10:24)
 
Đây là mệnh lệnh về tình yêu thương trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Trên phương diện là một cộng đoàn được gọi riêng ra cho Đức Chúa Trời, Hội Thánh phải là một cộng đoàn yêu thương, vì đó là sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời, là dấu hiệu cơ bản của một cộng đoàn Cơ Đốc, và là đặc trưng của Cơ Đốc Nhân:
 “Điều răn của Ta đây nầy: Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như Ta đã yêu các ngươi” (Gi. 15:12)
“Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời” (1Gi. 4:7)
“Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc” (Rô. 12:15)
“Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ Ta” (Gi. 13:35)
Khi các Cơ Đốc Nhân biết yêu thương nhau, tình yêu thương của họ phải được thể hiện bằng sự quan tâm. Khi chúng ta biết yêu thương nhau, hành động yêu thương phải được nhận thấy rõ ràng:
“Lại, trong các chi thể, khi có một cái nào chịu đau đớn, thì các cái khác đều cùng chịu; và khi một cái nào được tôn trọng, thì các cái khác đều cùng vui mừng” (1Cô. 12:26)
“17Nếu ai có của cải đời nầy, thấy anh em mình đương cùng túng mà chặt dạ, thì lòng yêu Đức Chúa Trời thể nào ở trong người ấy được! 18Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật” (1Gi. 3:17-18)
 
IV. “CHỚ BỎ SỰ NHÓM LẠI…” (Hê. 10:25)
“Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (Hê. 10:25)
 
Điều được kêu gọi ở đây là đức trung tín của Cơ Đốc Nhân. Hình thái ngữ pháp của sự kêu gọi này cho thấy Đức Chúa Trời quan tâm đến việc có nhiều Cơ Đốc Nhân xem thường việc nhóm lại trong Hội Thánh: “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm…”.
“Sự nhóm lại” được viết bằng một từ liệu Hylạp là “episunagoge”, nghĩa là “qui tụ lại với nhau”. Trong sinh hoạt tôn giáo, thường có hai điều đối nghịch nhau: Bản thân cá nhân tôn giáo đòi hỏi “ý chí tự do” cho cá nhân, còn tổ chức tôn giáo lại muốn “phận sự tôn giáo” phải được thực hiện cho tổ chức ấy. Lời Kinh Thánh không kêu gọi “hãy nhóm lại” mà khuyên giục “chớ bỏ qua sự nhóm lại” là vì Đức Chúa Trời không muốn bó buộc kẻ tin Ngài. Đức Chúa Trời kêu gọi “chớ bỏ qua sự nhóm lại” là nhằm kêu gọi ý thức tự giác của Cơ Đốc Nhân, và vì lợi ích đời đời của họ.
Chúng ta cần nên tránh thái độ “xét đoán” đối với những anh em, chị em đã lìa bỏ sự nhóm lại trong Hội Thánh Địa Phương của chúng ta. Ngay cả khi Dân Ysơraên muốn lìa bỏ Đức Giêhôva để lập vua lên cai trị họ (1Sa. 8), Ngài không đẹp ý nhưng vẫn không ngăn cản họ:
“Vậy bây giờ, hãy nghe theo lời chúng nó, song chớ quên báo cáo cho chúng nó cách nghiêm trang và tỏ ra cho biết vua cai trị chúng nó sẽ đãi chúng nó ra làm sao.” (1Sa. 8:9)
Về vấn đề nhóm lại trong Hội Thánh Địa Phương, phận sự của chúng ta là “Chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy”. Điều ấy có nghĩa là chúng ta có phận sự phải tích cực khuyên bảo các anh em, chị em chúng ta trong Hội Thánh “chớ bỏ qua sự nhóm lại” vì qua đó chúng ta được “đến gần Chúa”, chúng ta có thể “cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta”, và chúng ta cũng đồng thời có thể “coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành”…
Trong phân đoạn Kinh Thánh này (Hê. 10:19-25), chúng ta tìm thấy có ít nhất hai lý do để không nên bỏ qua sự nhóm lại trong Hội Thánh Địa Phương:
(1) Thứ nhất, chúng ta đã có đường vào Nơi Chí Thánh để tiếp cận với Đức Chúa Trời:
“19Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào Nơi Rất Thánh, 20bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài.” (Hê. 10:19-20)
(2) Thứ hai, chúng ta đã có Thầy Tế Lễ Lớn:
“Lại vì chúng ta có một Thầy Tế Lễ Lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời.” (Hê. 10:21).
 
Ngày nay có quá nhiều sự vỡ mộng trong lòng các tín hữu về Hội Thánh. Nhìn chung, chúng ta dễ nhận ra một tâm trạng “mệt mỏi” đối với Hội Thánh. Người ta có thể kể ra được rất nhiều nguyên nhân làm cho “chán” Hội Thánh, và nguyên nhân nào trông cũng “có vẻ” xác đáng cả! Điều hiển nhiên không thể chối cãi là có nhiều sự bất mãn đối với Hội Thánh vì nhận thấy Hội Thánh thiếu xứng hiệp, thiếu hữu ích, và có vẻ lãng phí thời gian…
Tuy nhiên, sự huyền nhiệm về Hội Thánh là “lẽ mầu nhiệm trong các đời khác chưa từng được phát lộ cho con cái loài người” (Êph. 3:5). Chúng ta không thể hiểu hết các Lẽ Thật thuộc linh về Hội Thánh cũng như sự hữu ích vô cùng của việc nhóm lại trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời được nhưng điều chắc chắn mà ai trong chúng ta cũng biết là Đức Chúa Trời muốn chúng ta cứ ở trong Hội Thánh của Ngài để được gây dựng:
“Vậy thì anh em hãy khuyên bảo nhau, gây dựng cho nhau như anh em vẫn thường làm.” (1Tê. 5:11)
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_chobosunhomlai.pdf
File Size: 484 kb
File Type: pdf
Download File


“TƯ NIỆM”

22/8/2022

 
Picture
“ÂN TỨ THUỘC LINH (#3)”
(1Phi. 4:10)
“Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời”
(1Phi. 4:10)
​Trong thời gian gần đây, càng ngày càng có nhiều nhà hoạt động xã hội chú trọng đến sự bảo vệ cho việc thiết lập những chương trình nhằm giúp cho mọi người đều có cơ hội thoát khỏi những sự ràng buộc, trở ngại, hay bất công để họ có thể phát triển đầy đủ, hoàn toàn các thân năng vốn có của họ.
 
Thật ra, khái niệm “Chức Phận Quản Gia” trong Kinh Thánh có bao gồm một sự quan tâm như thế. Kinh Thánh chú trọng việc nhận biết và phát triển tối đa năng lực bản thân của từng cá nhân hầu cho mỗi người có điều kiện hội nhập vào việc thực hiện mục đích của Đức Chúa Trời trên đời sống của họ và cho cộng đồng mà họ đang sống.
 
Cho đến nay, giữa vòng Hội Thánh vẫn còn một “Cánh Đồng Hoang” mênh mông: Vẫn còn vô số nguồn nhân lực chưa được sử dụng đúng mức. Trên một chừng mực nhất định, đó chính là sự lãng phí. Lãng phí là có tội, vì vậy, mỗi người chúng ta phải tự nhắc mình hãy làm tròn chức phận quản gia đối với Đức Chúa Trời vì mỗi một người chúng ta là quản gia của Ngài, đang giữ trong mình các ân tứ của Ngài, các tài khéo của Ngài ban.
 
Để làm tròn cương vị quản gia đối với các ân tứ của Đức Chúa Trời, chúng ta cần phải:
(1) Có một sự nổ lực chân thành và khách quan để biết mình phải làm gì để có thể làm được một điều gì đó cho Đức Chúa Trời;
(2) Có một sự cố gắng thiết tha nhằm phát triển các khả năng vốn có của mình;
(3) Có một sự gắn bó hết lòng để để đem cả đời sống cùng các ân tứ có được đóng góp vào Vương Quốc của Đức Chúa Trời.
 
I. BIẾT ĐÁNH GIÁ ĐÚNG. 
 
Nhiều khi chúng ta có những ân tứ mà chúng ta không hề hay biết vì chúng ta không quan tâm đến việc đánh giá năng lực bản thân của mình, hoặc đánh giá không đúng. Có thể quí vị có ơn khích lệ, ơn tiếp khách, ơn ca hát… Cũng có thể quí vị có khả năng hướng dẫn các buổi nhóm thông công hay học Kinh Thánh tại nhà riêng nhưng quí vị chưa bao giờ dám thử lấy một lần! Hãy thực hiện một bước đi theo đức tin qua việc thưa với Đức Chúa Trời rằng “Lạy Chúa, có con đây! Chúa ôi, con muốn được làm một điều gì đó có ích cho Vương Quốc của Đức Chúa Jêsus. Xin hãy giúp con tìm thấy được một sự đóng góp nào đó trong Hội Thánh của Ngài”. Xin đừng in trí rằng mình không có ân tứ gì hết! Nghĩ như thế là sai, chính Đức Chúa Trời phán với quí vị rằng nghĩ như thế là sai:
 
“Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7). “Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta…” (Rô. 12:6)
 
Theo lời này của Đức Chúa Trời, mỗi người đang có mặt trong phòng nhóm này đều có thể làm ít nhất một điều tốt đẹp nào đó cho Đức Chúa Jêsus và Hội Thánh của Ngài!
 
Trong công việc Chúa giữa vòng Hội Thánh, chúng ta thường ngần ngại. Ngày xưa, Môise cũng đã từng ngần ngại; và chính Đức Chúa Trời đã giải quyết cho sự ngần ngại của Môise bằng sự xác nhận của Ngài. Ngày nay, nhiều người trong chúng ta cũng cảm thấy như Môise khi đối diện với Đức Chúa Trời trong Bụi Gai Cháy (Xuất. 3-4). Môise cảm thấy không xứng hiệp và chưa được sẵn sàng để bước vào công việc. Nhưng đó lại chính là điều Đức Chúa Trời kêu gọi Môise. Phần lớn chúng ta đều có thể liệt kê ra những lý do khiến chúng ta có quyền thoái thác cũng như Môise đã từng làm. Khi Đức Chúa Trời kêu gọi Môise, Môise nêu lên năm điều khiến ông không thể bước vào sự kêu gọi của Đức Chúa Trời được. Hãy chú ý về cách Đức Chúa Trời đã đáp lời Môise:
 
(1) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Tôi là ai?” (Xuất. 3:11), Môise ở trong sự tranh chiến với “bản sắc” của mình. Môise thấy mình không đủ bản lĩnh. Môise cho rằng Đức Chúa Trời đã chọn sai người. Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là: “Ngươi là ai không thành vấn đề. Ta đã kêu gọi ngươi, Ta sẽ ở cùng ngươi” (Sv. Xuất. 3:12).
(2) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Ngài là ai?” (Xuất. 3:13), Môise đang ở trong sự tranh chiến với “sự thành thạo”. Môise không biết đủ về Đức Chúa Trời để có thể trình bày Ngài với dân sự. Mối quan hệ giữa Môise với Đức Chúa Trời vốn còn quá nông cạn. Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là như thế này: “TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU”, nghĩa là “Ta là tất cả sự có cần của ngươi” (Sv. Xuất. 3:14).
(3) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Nếu họ không nghe lời tôi thì sao?” (Xuất. 4:1), Môise đang ở trong sự tranh chiến với “sự bảo đảm”. Môise lo lắng về sự phản ứng của dân sự đối với mình. Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là như thế này: “Một khi Ta được tỏ ra, họ sẽ nghe lời ngươi. Hãy tin cậy Ta” (Sv. Xuất. 4:2-9).
(4) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Tôi chẳng phải là một tay nói giỏi” (Xuất. 4:10), Môise ở trong sự tranh chiến với “sự bất xứng”. Ai sẽ theo Môise nếu Môise nói năng không trôi chảy? Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là như thế này: “Thử đoán xem ai đã tạo ra miệng ngươi? Ta chính là nguồn của các ân tứ của ngươi” (Sv. Xuất. 4:11-12).
(5) Khi thưa với Đức Chúa Trời rằng “Ôi! lạy Chúa, Chúa muốn sai ai đi, thì sai” (Xuất. 4:13), Môise đang ở trong sự tranh chiến với “sự tự ti”. Môise so sánh mình với những người giỏi hơn, và Môise cảm thấy mình thấp kém. Sự đáp trả của Đức Chúa Trời là như thế này: “Được, Ta sẽ cho Arôn đi với ngươi... Nhưng Ta vẫn cứ kêu gọi ngươi” (Sv. Xuất. 4:14-17).
 
Thông thường, chúng ta tự thấy mình không có đủ bản lĩnh, không có đủ sự thành thạo, không có đủ sự bảo đảm, không có đủ sự xứng hiệp - nói chung là tự thấy mình tầm thường, thấp kém - tức là thấy mình không có ân tứ nào hết. Thế nhưng, đây chính là sự kêu gọi và là sự xác nhận của Đức Chúa Trời trong Thời Kỳ Hội Thánh hiện nay cho tất cả chúng ta:
 
“Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10).
 
Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết rằng tất cả các tín hữu đều được Ngài ban ân tứ. Mỗi tín hữu của Đức Chúa Trời trong Hội Thánh của Ngài đều có được sự cho phép Thiên Thượng để góp phần tích cực của mình. Vì vậy, việc của mỗi tín hữu không phải là ngồi yên chờ đợi một giấc chiêm bao, một sự mách bảo từng hồi, từng lúc nào đó mà là phải tin và làm theo Lời Ngài trong Kinh Thánh. Tất cả mọi tín hữu trong Hội Thánh phải biết đánh giá đúng khả năng của mình, phải biết thực nghiệm xem mình có thể làm được gì trong Vương Quốc và cho Vương Quốc của Đức Chúa Trời.
 
II. BIẾT PHÁT TRIỂN HẾT.
 
Cathy Rigby là một Vận Động Viên môn Thể Dục Dụng Cụ trong kỳ Thế Vận Hội Olympic năm 1972. Cho đến ngày bước vào cuộc thi đấu, tất cả mọi nổ lực cao độ của cô là nhằm giành Huy Chương Vàng, trở thành Vận Động Viên hàng đầu của thế giới trong môn Thể Dục Dụng Cụ. Giới truyền thông lúc ấy cũng đã đánh giá cô rất cao, nhiều người đã cho rằng cô sẽ đạt được mục tiêu của mình. Cathy Rigby đã luyện tập gian khổ, đã thể hiện được tất cả tài năng của mình, nhưng cô đã không giành được huy chương vàng như mong muốn. Cathy Rigby thực sự bị sụp đổ, cô đã chạy băng về phía Cha Mẹ mình đang ngồi. Cathy Rigby ôm lấy Mẹ mình, vừa khóc vừa nói: “Mẹ, con xin lỗi Mẹ, con hết lòng muốn thắng cuộc, con cũng đã cầu nguyện nhiều để được thắng cuộc, nhưng con đã không thắng cuộc được!”. Mẹ của Cathy Rigby nói: “Cathy, Con hãy nghe Mẹ nói đây: Con giỏi lắm, con đã thể hiện hết sức mình. Bố Mẹ rất quí con, và đầy lòng tự hào về con. Dầu con không thắng cuộc, Bố Mẹ vẫn cứ yêu con vì con đã thể hiện hết sức mình!”. Sau đó Cathy Rigby đã làm chứng rằng lời nói sau đây của Mẹ cô đã giúp thay đổi cả quãng đời còn lại của cô: “Việc Cố Gắng Hết Sức Quan Trọng Hơn Là Việc Giành Được Giải Nhất”.
 
Đó chính là triết lý mà mỗi Cơ Đốc Nhân chúng ta phải theo đuổi. Chúng ta cứ làm hết sức mình, và hãy để phần còn lại cho Đức Chúa Trời. Đừng bận tâm đến việc nhất thiết phải trở thành Cơ Đốc Nhân Số Một, nhưng phải bảo đảm được rằng Ưu Tiên Số Một nhất thiết phải là sống một đời sống Cơ Đốc hết mình. Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải chuyên tâm:
 
“Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta” (Côl. 3:23); “Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (2Ti. 2:15).
 
Cậy ơn Đức Chúa Trời để phát triển hết tất cả những gì mình có trong tay nhằm làm vinh hiển danh thánh của Ngài là tất cả vấn đề đối với một Cơ Đốc Nhân. Samsôn đã làm vinh hiển Đức Chúa Trời khi trong tay chỉ có một cái hàm lừa mà chung quan mình có đến cả ngàn quân Philitin (Quan. 15:15). Thậm chí, với hai tay không nhưng nhờ biết nương cậy Đức Chúa Trời, lúc chết Samsôn đã giết được nhiều quân thù hơn là lúc sinh thời (Quan. 16:28-30).
 
III. BIẾT NHIỆT TÌNH SỬ DỤNG.
 
Mục đích cao nhất của các ân tứ và thân năng được Đức Chúa Trời ban cho là để sử dụng cho việc gây dựng Hội Thánh:
 
“Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10); “Hầu cho trong Thân không có sự phân rẽ, mà các chi thể phải đồng lo tưởng đến nhau” (1Cô. 12:25).
 
Cái gì làm cho con diều bay được? Cái khung của con diều có thể nói “Nhờ tôi”. Đuôi của con diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Giấy bồi thành con diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Sợi dây giữ cho con diều bay cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Gió cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Đứa bé cầm sợi dây thả diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”… Thật ra, con diều bay được là nhờ tất cả những điều ấy hợp lại với nhau, mỗi điều ấy giữ một vai trò nhất định của mình. Nếu khung diều hỏng, đuôi diều mắc vào cành cây, giấy bồi diều rách, dây thả diều dứt, hay gió ngừng thổi,… nhất định con diều sẽ không còn bay được nữa. Muốn cho công việc Chúa trong Hội Thánh được thành công, từng người chúng ta phải hoàn thành xuất sắc phần công việc của mình. Chúng ta có thể làm chứng, chăm sóc, giảng, dạy,… và vô số việc khác để giúp cho Hội Thánh thành công và phát triển miễn là chúng ta biết hiệp tác với nhau trong tinh thần đồng đội, trong đó Đội Trưởng chính là Đức Chúa Trời:
 
“Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta…” (Rô. 12:6);“Vả, chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời; anh em là ruộng của Đức Chúa Trời cày, nhà của Đức Chúa Trời xây” (1Cô. 3:9).
 
Khi đến dự một buổi nhóm thờ phượng, phần đông đều trông mong đến giờ giảng luận để nghe diễn giả trình bày về tình yêu thương và ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong các ân tứ thuộc linh, ơn giảng luận vẫn thường được trân trọng một cách đặc biệt và vẫn được xem là ân tứ “Số Một”. Thật ra, mỗi người ngay khi bước đến với một buổi nhóm, trước giờ giảng luận của diễn giả khá lâu, đều đã có thể giảng về tình yêu thương và ý muốn của Đức Chúa Trời đối với Hội Thánh của Ngài! Trước khi diễn giả bước lên tòa giảng, mỗi người trong quí vị đều phải giảng, có thể giảng, và đã giảng:
 
- Quí vị giảng một sứ điệp bằng lời chào mừng nhau một cách vui vẻ thật thà ngay tại nhà gửi xe!
- Quí vị giảng một sứ điệp khi vui vẻ đưa tay đón người đến sau ngồi vào chỗ gần với mình chứ không phải chỉ đưa mắt nhìn họ như ngầm bảo “Hãy lại đằng kia mà ngồi đi!”
- Quí vị giảng một sứ điệp khi hát thánh ca tôn vinh Chúa một cách vui mừng và thiết tha!
- Quí vị giảng một sứ điệp khi quí vị tỏ ra chăm chú lắng nghe một cách trân trọng những lời làm chứng về ơn phước của Đức Chúa Trời trên đời sống của anh, chị, em mình trong Hội Thánh!
- Quí vị giảng một sứ điệp khi quí vị nồng nhiệt chào đón  khách đến thăm Hội Thánh!
- Quí vị giảng một sứ điệp khi đi nhóm quí vị có mang theo Kinh Thánh, và quí vị chăm chú tra xem Kinh Thánh khi nghe giảng!
 
Quí vị còn có thể giảng nhiều điều khác đến nỗi không sao kể hết được. Điều có thể gây cho quí vị bất ngờ là nếu suy xét cho cùng, quí vị sẽ thấy đó chính là những biểu hiện thực hành của các ân tứ thuộc linh trong Hội Thánh! Phẩm chất Cơ Đốc một khi được bày tỏ ra một cách thực hành sẽ tác động mạnh mẽ hơn bất cứ điều gì được nói bằng môi miệng. Đối với những ai biết nhiệt tình sử dụng các ân tứ thuộc linh đã được ban cho, họ không cần phải lo sợ thất bại; vì đây là lời hứa dành cho họ: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phil. 4:13).
 
Tất cả các ân tứ thuộc linh đều có đặc điểm chung là sự ban cho của Đức Chúa Trời để sử dụng vào việc gây dựng Hội Thánh của Ngài và trong tay của mỗi tín hữu đều có ít nhất một ân tứ thuộc linh nào đó. Nếu quí vị cảm thấy những gì đang có trong tay mình sao mà yếu ớt quá; hãy nói chuyện với Samsôn để biết bí quyết nào khiến yếu biến thành mạnh. Nếu quí vị cảm thấy điều mình có trong tay ít quá, không làm sao chia sẻ được; hãy đi hỏi thăm người đàn bà góa đã dâng hai đồng tiền ăn một phần tư xu để được biết phải làm thế nào. Nếu quí vị thấy sao khó buông ra những gì hiện có trong tay quá; hãy nói chuyện với Anne để biết nhờ đâu mà Bà dám dâng cho Đức Chúa Trời đứa con cầu duy nhất của mình. Nếu người ta chê cười về những gì quí vị hiện có trong tay là tầm thường; hãy nói chuyện với Đavít để nhớ lại bài học về cái trành ném đá đã giết tên khổng lồ Gôliát. Nếu quí vị thấy những gì có trong tay làm cho mình đau quá; hãy thưa với Đức Chúa Jêsus để được xem dấu đinh trên tay của Ngài và được Ngài dùng sự đau đớn mà làm cho trở nên trọn lành!
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
a4_antuthuoclinh_3.pdf
File Size: 347 kb
File Type: pdf
Download File


<<Previous

    Author

    “Side-By-Side Support
    To Help God's Leaders Become As He Desires”
    ("The Coach")

    Archives

    March 2023
    February 2023
    January 2023
    December 2022
    November 2022
    October 2022
    September 2022
    August 2022
    July 2022
    June 2022
    May 2022
    April 2022

    Categories

    All

    RSS Feed

Picture
  • Tư Phong
  • Tư Niệm
  • Tư Biện
  • Tư Cách