“NHỮNG KẺ HAY THƯƠNG XÓT” (Ma. 5:7) “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót.” (Ma. 5:7) Có chuyện kể rằng một ngày nọ John Westley đến thăm tướng Ogelthorpe khi vị này còn cai trị Georgia như một thuộc địa. Tướng Ogelthorpe kể cho John Westley nghe về chuyện một người nọ đã làm cho ông tức giận. Tướng Ogelthorpe nói một cách cương quyết: “Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho người này cả!”. Nghe nói thế, John Westley ôn tồn nói: “Thưa ngài, vậy tôi hy vọng rằng ngài sẽ không bao giờ phạm tội cả!”. Hiển nhiên là John Westley muốn ngầm nhắc nhở cho vị tướng nghiêm khắc kia về lời dạy của Đức Chúa Jêsus: “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót” (Ma. 5:7). Với sự dạy dỗ này của Đấng tể trị cả vũ trụ, chúng ta có thể nói rằng việc sống mà không có lòng thương xót chính là giấy bảo đảm cho một quá trình chết không được xót thương! Tại sao? Ấy là vì Đấng Tối Cao dạy rằng muốn nhận được sự thương xót thì người ta phải sống tha thứ, nhân từ. Vậy, thế nào là sự thương xót? Cơ Đốc Nhân thế nào để có thể sống giàu lòng thương xót? Và, người ta sẽ nhận được những gì từ nếp sống thương xót của mình? I. SỰ THƯƠNG XÓT LÀ GÌ? Từ liệu “thương xót” được dùng khoảng 250 lần trong Kinh Thánh Cựu Ước. Từ liệu này cũng còn có thể được hiểu là “lòng nhân từ” (96 lần), “lòng tốt” (38 lần). Từ liệu này xuất hiện 6 lần trong Kinh Thánh Tân Ước (Ma. 5:7; Lu. 6:36; 18:13; Hê. 2:17; 8:12) trong đó có 1 lần được dịch trong Kinh Thánh Tân Ước là “tha thứ” (Hê. 8:12). “Thương xót” theo Kinh Thánh không phải chỉ thuần túy là cảm xúc; sự thương xót hợp Kinh Thánh không bao giờ chỉ thuần túy là một phó sản của chủ nghĩa cảm xúc cả! “Hay thương xót”, tức là “giàu lòng thương xót”, vượt xa hơn việc “chảy nước mắt” do xúc động vì thương cảm. Tất nhiên là những người giàu lòng thương xót lắm khi đã khóc thể theo sự xúc cảm dấy lên trong lòng họ. Chính Đức Chúa Jêsus cũng đã không cần phải kiềm chế nước mắt của Ngài trước nỗi đau quằn quại của Mathê và Mari đối với cái chết của anh họ là Laxarơ; Kinh Thánh cho biết rằng “Đức Chúa Jêsus khóc” (Gi. 11:35). Một lần khác, khi Đức Chúa Jêsus nhìn thành Giêrusalem, nghĩ về tai họa tương lai của thành, Ngài cũng đã khóc cho thành. Thật đáng để chúng ta ghi nhận rằng dầu là Đấng Chủ Tể cả vũ trụ, Đức Chúa Jêsus cũng đã khóc. Thế nhưng, Đức Chúa Jêsus đã làm nhiều hơn là khóc: Ngài không những chỉ khóc cho chúng ta, Ngài còn phó mình Ngài để chuộc chúng ta ra khỏi sự khóc lóc đời đời nữa. Vấn đề chính không phải chỉ có khóc, có lắm người đã khóc rất nhanh và rất nhiều nhưng đó là cái khóc vô nghĩa và không hề đem lại một kết quả có ích nào cả. “Sự thương xót” hợp Kinh Thánh không phải chỉ là chủ nghĩa nhân đạo mà chúng ta thường thấy: “Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi” (1Cô.13:3). “Sự thương xót” chân chính vượt xa hơn việc phân phát y phục, lương thực, thuốc men,… cho các nạn nhân. Người ta có thể cho mà không hề yêu gì cả. Hành vi thương xót sẽ vô nghĩa nếu thái độ của sự thương xót không chân thực và chính đáng (chân chính). “Sự thương xót” mà Đức Chúa Jêsus phán dạy ở đây không phải chỉ thuần túy là hành vi thương xót máy móc. Về căn bản, “giàu lòng thương xót” không phải là sự xúc cảm đối với tình huống mà là thái độ sống. Sự xúc cảm trước những tình huống nhất định và sự nhận thức về một thái độ sống phải có thường xuyên là hai điều khác nhau. “Giàu lòng thương xót” là một nếp sống. Đó là một điều không thể “bật lên” hay “tắt đi” theo xúc cảm chủ quan của một người được. “Đức thương xót” chân chính không thể là một cái gì đó có thể biến động “theo mùa” được. “Sự thương xót” hợp Kinh Thánh mà Đức Chúa Jêsus đã từng biểu lộ trong cuộc sống phận người của Ngài chính là một dạng thức cảm nhận chân chính của tâm trí, làm nền tảng cho một thái độ sống, thể hiện ra qua một lối sống cao thượng một cách thường xuyên. Cơ Đốc Nhân “thương xót” là nhìn nhận tha nhân theo cùng một cách mà Đức Chúa Jêsus nhìn nhận họ, và thấu cảm tha nhân theo cùng một cách mà Đức Chúa Jêsus thấu cảm họ. “Giàu lòng thương xót” là thái độ thương xót phổ quát dành cho tất cả mọi người. Sự thương xót của Đức Chúa Trời phổ quát trên nhân loại như thế nào thì đức thương xót trong Cơ Đốc Nhân cũng phải phổ quát cho đồng loại mình như thế ấy. Trên một phương diện, thái độ thương xót thể hiện ra qua đức bác ái Cơ Đốc của cộng đoàn Cơ Đốc với biểu hiện cuối cùng là các hoạt động từ thiện cho xã hội. Thái độ “thương xót” biểu hiện ra qua hành động. Nếu một người thực sự có lòng thương xót, lòng thương xót của người ấy phải được thể hiện bằng hành vi. “Sự thương xót” hợp Kinh Thánh không thể là một cái gì đó bí mật hay tiềm ẩn (bí ẩn)t mà phải được chuyển hóa thành hành động. Không thể nói rằng mùa Xuân đã về mà chưa hề có lấy bất cứ một sự chuyển dịch nào theo hướng tươi đẹp hơn của mùa Đông. “Sự thương xót”, nếu có, nhất định phải được bộc lộ ra qua nhiều cách khác nhau. Nếu chúng ta thực sự có lòng thương xót, chúng ta sẽ tỏ ra nhân từ, độ lượng trong việc xét đoán người khác. Chúng ta sẽ tỏ ra quan tâm đến phúc lợi của người khác. Khi thực sự có lòng thương xót, nếu có ai đó làm hại chúng ta, chúng ta sẽ không còn hoàn toàn bị sự căm hận cuốn hút mà sẽ biết tìm hiểu vì sao người ta lại phạm tội như thế, và sẽ quyết định tha thứ cho họ chứ không phải là trừng phạt họ. Khi thực sự có lòng thương xót, chúng ta không còn cố tìm lý lẽ để buộc tội mà là để giải tội cho tha nhân. Thương xót nghĩa là chăm sóc cho tha nhân để họ sống tốt đẹp hơn. Đức thương xót khiến Cơ Đốc Nhân dám hy sinh để dấn thân cất đi gánh nặng cho người khác, mà nặng nhất là gánh nặng về án phạt của tội lỗi trên đời sống họ. Thương xót nghĩa là tha thứ: Không có biểu hiện nào của sự thương xót cao hơn là sự tha thứ (vì thế mà Hê. 8:12 được dịch là “tha thứ”). Khi một người hoàn toàn có quyền trả thù nhưng lại quyết định tha thứ, người ấy đã đạt đến đỉnh cao của sự thương xót, và phần thưởng là sự bình an và niềm vui chan chứa luôn luôn cặp theo quyết định thánh thiện ấy. Như vậy, “sự thương xót” chính là một biến thể của Ân Điển: Dành cho tha nhân điều đáng lẽ ra họ không thể có được. Cơ Đốc Nhân nhận Ân Điển của Đức Chúa Trời và sống thể hiện Ân Điển Ngài trên đời sống mình bằng đức thương xót. II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ THỂ SỐNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT? “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót”, đây là một sự dạy dỗ và cũng là lời hứa tốt đẹp, quí hóa; thế nhưng phải làm những gì để có thể sống giàu lòng thương xót được? Muốn sống được như thế quả thật là rất khó, và đó là con đường hẹp mà Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta đi. Xét đoán, phê phán, kết án luôn luôn dễ làm hơn là thương xót, tha thứ. Chúng ta cần phải như thế nào để có thể vượt lên trên bản chất của con người cũ vốn có của chúng ta, sống theo đức thương xót mà Đức Chúa Trời kêu gọi? Trước hết, đừng quên rằng chính mỗi người chúng ta đều cần có được sự tha thứ. Trước mặt Đức Chúa Trời, mỗi người chúng ta “thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm” (Gia. 3:2), chúng ta cần sự đối đãi giàu lòng thương xót của Đức Chúa Trời đối với chúng ta, chúng ta cần được Ngài tha thứ. Vậy chúng ta cũng cần phải đối dãi một cách giàu lòng thương xót với mọi người, phải tha thứ cho người khác một cách tương tự: “Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi” (Ma. 6:12). “Vả, nếu ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi” (Ma. 6:14). Chúng ta rất dễ rơi vào chỗ thiếu tha thứ, thường tỏ ra rất nặng tay đối với người khác, và hay quên rằng sự yếu đuối và nguy cơ bị cám dỗ không phải chỉ riêng có ở người khác mà thôi: “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng” (Gal. 6:1). Để có thể sống giàu lòng thương xót, chúng ta phải biết để cho Đức Chúa Jêsus bày tỏ sự thương xót của Ngài qua chúng ta. Cơ Đốc Nhân là chỗ để cho Chúa bày tỏ sự vinh hiển của Ngài ra cho Dân Ngoại được biết, để rồi họ sẽ đặt niềm tin nơi Ngài: “Vì Đức Chúa Trời muốn khiến họ biết sự vinh hiển của sự mầu nhiệm đó ở giữa Dân Ngoại là thể nào, nghĩa là Đấng Christ ở trong anh em, là sự trông cậy về sự vinh hiển” (Côl. 1:27). Bằng sức riêng, chúng ta không thể nào thực sự thương xót tha nhân theo như Đức Chúa Trời muốn được. Chỉ khi nào chúng ta trình dâng hết nỗi cay đắng, buồn phiền của chúng ta cho Đức Chúa Jêsus, bằng lòng để cho Ngài sống và hành động qua con người của chúng ta thì đức thương xót mới có thể trở nên một thái độ thường trực trong nếp sống của chúng ta được: “12Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhượng, mềm mại, nhịn nhục, 13nếu một người trong anh em có sự gì phàn nàn với kẻ khác, thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau: Như Chúa đã tha thứ anh em thể nào, thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy” (Côl. 3:12-13). III. PHẦN THƯỞNG CHO ĐỨC THƯƠNG XÓT Trước hết, trong sự dạy dỗ này của Đức Chúa Jêsus có kèm theo một lời hứa về sự “được thương xót”: “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót” (Ma. 5:7). Một khi Đức Chúa Jêsus đã phán hứa như thế thì chắc chắn là người sống giàu lòng thương xót sẽ được hưởng phước từ nơi Ngài, vì Ngài là thành tín. Trước hết, người có đức thương xót được hưởng sự bình an. Người có đức thương xót là người chịu để Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành động trong tấm lòng của họ, qua đời sống của họ. Người sống giàu lòng thương xót không còn bị dày vò bởi sự tranh chiến nội tâm do khuynh hướng tự cao, ương ngạnh và lòng nặng nề, căm tức, bực bội,… Được Đức Thánh Linh thanh tẩy các xúc cảm tiêu cực, người có đức thương xót sẽ kinh nghiệm được niềm vui, đời sống tinh thần của họ sẽ được thăng hoa, hướng thượng: “13Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài. 14Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự, 15hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phil. 2:13-15). Người có đức thương xót sẽ nhận được sự thương xót của tha nhân. Trên một phương diện, cuộc đời này như một tấm gương phẳng có tác dụng phản chiếu những gì người ta đặt trước nó. Qui luật “gieo và gặt” vẫn nghiệm đúng đối với đức thương xót . Ngoài ra, nếu tình yêu sản sinh ra tình yêu thì sự thương xót cũng sẽ đem về sự thương xót: “36Hãy thương xót như Cha các ngươi hay thương xót. 37Đừng đoán xét ai, thì các ngươi khỏi bị đoán xét; đừng lên án ai, thì các ngươi khỏi bị lên án; hãy tha thứ, người sẽ tha thứ mình. 38Hãy cho, người sẽ cho mình; họ sẽ lấy đấu lớn, nhận, lắc cho đầy tràn, mà nộp trong lòng các ngươi; vì các ngươi lường mực nào, thì họ cũng lường lại cho các ngươi mực ấy” (Lu. 6:36-38). Tuy nhiên, quan trọng hơn hết là người có đức thương xót sẽ được chính Đức Chúa Trời thương xót: “14Vả, nếu ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. 15Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi” (Ma. 6:14-15). Bằng sức riêng của bản chất người thiên nhiên, người ta chỉ có thể yêu thương, tha thứ, nhân từ đối với những ai yêu thương, tha thứ, nhân từ đối với họ mà thôi. Cơ Đốc Nhân là người mới trong Đức Chúa Jêsus (2Cô. 5:17), họ phải được đổi mới nhờ quyền năng Đức Thánh Linh. Mệnh lệnh đối với Cơ Đốc Nhân là phải giàu lòng thương xót, và lời hứa dành cho họ là họ sẽ được thương xót. Dầu vậy, đức thương xót của Cơ Đốc Nhân không phải chỉ để được thưởng mà chính yếu là để trở nên giống với Đấng kêu gọi họ: “46Nếu các ngươi yêu những kẻ yêu mình, thì có được thưởng gì đâu? Những kẻ thâu thuế há chẳng làm như vậy sao? 47Lại nếu các ngươi tiếp đãi anh em mình mà thôi, thì có lạ gì hơn ai? Người ngoại há chẳng làm như vậy sao? 48Thế thì các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn” (Ma. 5:46-48). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“NHỮNG KẺ CÓ LÒNG TRONG SẠCH” (Ma. 5:8) “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời.” (Ma. 5:8) Billy Graham có lần đã nói như thế này: “Tất cả chúng ta đều phải chịu khổ vì một chứng bệnh chung trên toàn thế giới. Nan đề chính của thế giới không phải là vấn đề chủng tộc. Nan đề chính của thế giới không phải là vấn đề chiến tranh. Nan đề chính của cả thế giới này là vấn đề sự bệnh hoạn của tấm lòng”. Kinh Thánh tuyên cáo vấn đề ấy một cách tỏ tường và đầy nghiêm túc: “9Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất xấu xa: Ai có thể biết được? 10Ta, Đức Giêhôva, dò xét trong trí, thử nghiệm trong lòng, báo cho mỗi người tùy đường họ đi, tùy kết quả của việc họ làm” (Giê. 17:9-10). MỘT THỰC TRẠNG Về nguyên tắc cũng như theo thực tế, điều gay go là ở chỗ tấm lòng của con người đều đã bại hoại theo những chừng mực nhất định nào đó. Mỗi một người chúng ta đều bị lúng túng trong một sự mâu thuẫn muôn thuở giữa việc toàn tâm, toàn trí theo Chúa với việc thỏa mãn các sự đòi hỏi tự nhiên của con người chúng ta. Cuộc tranh chiến giữa hai con đường ấy được Sứ Đồ Phaolô xác nhận: “18Vả, tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn. 19Vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. 20Ví bằng tôi làm điều mình không muốn, ấy chẳng phải là tôi làm điều đó nữa, nhưng là tội lỗi ở trong tôi vậy. 21Vậy tôi thấy có luật này ở trong tôi: Khi tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi” (Rô. 7:18-21). Chúng ta phải biết rõ và phải nhìn nhận một thực trạng là sức mạnh của tội lỗi vẫn còn hiện hữu trong con người chúng ta. Chúng ta phải nhìn nhận rằng sự hoành hành của tội lỗi trong xác thịt của chúng ta đã làm lu mờ hình ảnh của Cứu Chúa mà chúng ta vốn đã nhận được khi tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài. Chúng ta phải thành thật ngay với chính mình để quay lại trong sự nương cậy: “24Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? 25Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ ơn Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!” (Rô. 7:24-25). MỘT SỰ KÊU GỌI Trong “Bài Giảng Trên Núi”, Đức Chúa Jêsus đã đề cập đến một nguyên lý chi phối toàn bộ đời sống chúng ta: “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời” (Ma. 5:8). Dầu rằng chỉ là một lời dạy ngắn gọn nhưng đây chính là tấm bản đồ chỉ đường cho Cơ Đốc Nhân đi đến với lời hứa về cuộc hạnh ngộ riêng tư với Đức Chúa Trời. Sự kêu gọi ở đây là sự kêu gọi về tấm lòng trong sạch. Lời phán này của Đức Chúa Jêsus cho thấy rằng tấm lòng của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời có vai trò quan trọng quyết định. Trong cương vị là tín hữu của Đức Chúa Trời, ưu tiên hàng đầu của chúng ta là phải giữ cho được một tấm lòng trong sạch đối với Ngài. Đức Chúa Trời quan tâm một cách đặc biệt đến tình trạng của tấm lòng chúng ta; Đối với Ngài, mọi sự khác đều kém quan trọng hơn: “Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì Ta đã bỏ nó. Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (1Sa. 16:7). Đức Chúa Trời bỏ qua ngoại hình của một người, và ngoại hiện của hành vi người ấy để nắm bắt thẳng vào vấn đề chính: Đó là tình trạng của tấm lòng: “Các đường lối của loài người đều chính đáng theo mắt họ;_Song Đức Giêhôva cân nhắc cái lòng” (Châm. 21:2). Đức Chúa Trời “cân nhắc” (Hb. takan) tức là Ngài xem xét và đánh giá xem có phù hợp theo ý chỉ đời đời và các chuẩn mực thiện hảo của Ngài hay không. Từ thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã luôn luôn nêu cao vấn đề thái độ công chính của tấm lòng. Đavít tỏ ra thấu đáo về mối quan tâm ấy của Đức Chúa Trời khi ông dâng lời cầu nguyện cho Salômôn có được “một tấm lòng trọn vẹn”: “Tôi xin Chúa hãy ban cho Salômôn, con trai tôi, một tấm lòng trọn vẹn, để gìn giữ các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Chúa, cùng làm cho các công việc nầy, xây cất cái đền mà tôi đã sắm sửa tài liệu cho” (1Sử. 29:19). Tấm lòng quan trọng vì trạng thái của tấm lòng sẽ qui định địa vị của một người trước mặt Đức Chúa Trời. Nói cách khác, khi tấm lòng không biết “đói khát sự công bình” (Ma. 5:7), tức không có khát vọng về Chúa, người ta sẽ bị điều ác cuốn hút mất: “Rôbôam làm điều ác, vì không rắp lòng tìm cầu Đức Giêhôva” (2Sử. 12:14). Như vậy, chúng ta cần phải học cho biết khi Đức Chúa Jêsus phán về vấn đề tấm lòng “trong sạch”. Sự trong sạch mà Ngài đòi hỏi có nghĩa như thế nào? Phải chăng “trong sạch” là “hoàn hảo”, hay “vô nhiễm”? Và, nếu quả thật sự “trong sạch” mà Đức Chúa Jêsus dạy ở đây có nghĩa như thế thì tất cả chúng ta đều bị nguy to! “Trong sạch” được dịch từ katharos là một từ liệu Hylạp. Từ liệu này có nghĩa là “làm cho trở nên thanh khiết bằng cách tẩy rửa cho sạch”. Sự “trong sạch” nói về việc tẩy rửa cho tâm trí, ý chí, và tình cảm khỏi các sự ô uế; nhiên hậu, đem đặt dưới và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời: “Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: Thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia. 1:27). Lòng “trong sạch” là tấm lòng được tẩy rửa cho khỏi sự chi phối của một tâm trí mê muội bởi tri thức ngụy xưng, một ý chí ngoan cố, và một tình cảm không trong sáng. Khi Kinh Thánh Cựu Ước nói về tấm lòng, cả ba lĩnh vực tâm trí, ý chí, và tình cảm đều được bao gồm trong đó: “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết,_Vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra” (Châm. 4:23). Tương tự như vậy, Kinh Thánh Tân Ước cũng gồm tóm ba lĩnh vực ấy trong phạm trù “tấm lòng”: “Vì từ nơi lòng mà ra những ác tưởng, những tội giết người, tà dâm, dâm dục, trộm cướp, làm chứng dối, và lộng ngôn” (Ma. 15:19). “Tấm lòng” gồm luôn cả tâm trí và ý chí chứ không phải chỉ có tình cảm. Tấm lòng của một người sẽ qui định toàn bộ hành vi của người ấy. Hiển nhiên là khi Đức Chúa Jêsus phán dạy về “lòng trong sạch”, Ngài kêu gọi về động cơ trong sạch cho hành vi chứ không phải chỉ là sự xúc cảm của nội tâm, Ngài kêu gọi về hành động chứ không phải chỉ là sự cảm động: “7Vậy, hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10). MỘT TƯƠNG LAI Theo lời phán dạy này của Đức Chúa Jêsus, lý do duy nhất khiến chúng ta phải có cho được “lòng trong sạch” là để “thấy Đức Chúa Trời”. Theo cách diễn đạt dưới ngòi bút của Sứ Đồ Giacơ, “Thấy Đức Chúa Trời” là được Ngài đến gần, và để được Ngài “đến gần” Cơ Đốc Nhân phải chủ động đến gần Ngài. Tuy nhiên, “thấy” phải được hiểu như thế nào cho đúng theo ý chỉ Thiên Thượng là một vấn đề quan trọng. Bà Helen Keller vừa mù, vừa điếc. Một ngày kia, có người tỏ ra thấu cảm hoàn cảnh của bà và đã nói như thế này: “Bà ơi, vừa mù lại vừa điếc quả thật là quá khủng khiếp nhỉ?”. Helen Keller đã làm cho mọi người phải kinh ngạc đến sửng sốt khi câu trả lời của bà như sau: “Thà tôi mù mà thấy được bằng tấm lòng của mình còn hơn là sáng cả hai mắt nhưng lại chẳng thấy gì hết!”. Một sự thật hiển nhiên là người ta có thể “thấy” bằng tấm lòng của mình trên những phương diện nào đó. Một khi Đức Chúa Jêsus đã phán rằng “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời” thì có nghĩa là nếu tấm lòng càng được trong sạch, người ta sẽ càng nhìn thấy Đức Chúa Trời rõ hơn! Khi một người càng “đói khát sự công bình”, người ấy sẽ càng “được no đủ” (Ma. 5:7). Một khi tấm lòng càng xu hướng về Đức Chúa Trời thì càng được những sự thuộc về Đức Chúa Trời cuốn hút; người ta càng ít bị chi phối, xao lãng bởi các sự khác; họ đơn thuần hơn, chân thành hơn trong việc tìm kiếm Đức Chúa Trời; tấm lòng của họ trở nên thuần thành với Đức Chúa Trời hơn vì chỉ có sự khát khao Đức Chúa Trời là mãnh liệt hơn hết trong lòng họ mà thôi. Một khi tấm lòng của chúng ta càng trở nên “trong sạch”, Lời Chúa càng được khắc ghi sâu đậm trong lòng chúng ta. Khi được Lời Đức Chúa Trời đáp đậu trong tấm lòng, chúng ta luôn nhận ra được ý muốn, tình yêu thương, và khải tượng mà Đức Chúa Trời dành cho đời sống mình: “Nguyền xin Lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời” (Côl. 3:16). Chúng ta chẳng những được sống vui thỏa mà còn được chia sẻ sự vinh hiển của Cứu Chúa chúng ta, sống bày tỏ Ngài qua đời sống chúng ta nữa. Một khi lòng chúng ta trong sạch, chúng ta có năng lực cảm thụ cao độ các giá trị mà Ngài quan tâm. Các thuộc tính vinh hiển của Đức Chúa Trời được Ngài bày tỏ khi chúng ta đến gần Ngài sẽ được chúng ta thực hành bởi sự ban quyền năng của Đức Thánh Linh. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sẽ được tha nhân nhận ra ngay trên đời sống chúng ta: “Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển của Chúa như trong gương, thì hóa nên cũng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh” (2Cô. 3:18). Tuy nhiên, đỉnh cao của cuộc hạnh ngộ giữa người “có lòng trong sạch” với Đức Chúa Trời là thuộc về tương lai, khi họ được đối diện Đức Chúa Trời trong thân thể mới! Chúng ta chưa biết được một cách đầy đủ lắm về ngày phước hạnh ấy, nhưng chúng ta có thể chắc chắn là trong nháy mắt, ngay vào tích tắc đầu tiên được đối diện Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ tận hưởng một niềm vui mà cả đời này gộp lại cũng không bằng. Chúng ta sẽ được quyến rũ đến ngất ngây bởi sự vinh hiển của Ngài. Kinh Thánh luôn dạy cho chúng ta rằng niềm khát khao “thấy Đức Chúa Trời” là đỉnh cao của sự trông cậy. “Thấy Đức Chúa Trời” là một quá trình tiệm tiến trong đời sống Cơ Đốc Nhân; là niềm tin và lẽ sống của những người “có lòng trong sạch” theo nghĩa hợp Kinh Thánh: “25Còn tôi, tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống,_Đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất._26Sau khi da tôi, tức xác thịt nầy, đã bị tan nát,_Bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa Trời;_27Chánh tôi sẽ thấy Ngài,_Mắt tôi sẽ nhìn xem Ngài, chớ chẳng phải kẻ khác,_Lòng tôi hao mòn trong mình tôi” (Gióp 19:25-27). “Người có lòng trong sạch” là một nhân chủng hiếm hoi trong xã hội loài người thời hiện đại, nhưng họ không thể bị tiệt chủng được bất chấp mọi nổ lực diệt chủng của Satan và các quỉ sứ của nó! Tính hiếm hoi có thể nhận ra ngay giữa vòng các Hội Thánh Địa Phương của Đức Chúa Trời! Thực tế hiển nhiên là chúng ta dễ thất vọng khi khó tìm thấy được giữa vòng Dân Sự Đức Chúa Trời những người có tâm tình đơn thuần, có đời sống thành tâm tận hiến cho Ngài. Tuy nhiên, phương tiến triển của Hội Thánh của Đức Chúa Trời là xu thế tất yếu vì “Các cửa Âm Phủ chẳng thắng được Hội đó” (Ma. 16:18)! Điều mà Đức Chúa Trời muốn đối với mỗi người chúng ta là chúng ta “9Hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10). Đức Chúa Trời muốn chúng ta đến với Ngài, và cách để làm được việc ấy không phải là lý sự mà là tâm sự với Ngài: “Đức Chúa Trời ôi! Hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch,_Và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng” (Thi. 51:10). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ CHỊU BẮT BỚ VÌ SỰ CÔNG BÌNH” (Ma. 5:10) “Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.” (Ma. 5:10) Sứ Đồ PhaoLô đã từng mô tả nhiều hình thức bắt bớ mà ông phải chịu trong quãng đời hầu việc Chúa ở cương vị người giảng Tin Lành. PhaoLô kể cho chúng ta biết Đức Chúa Trời đã giải cứu ông qua tất cả những điều ấy. Các từng trải cá nhân của Sứ Đồ PhaoLô được Đức Thánh Linh cảm thúc thành lời: “12Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ. 13Nhưng những người hung ác, kẻ giả mạo thì càng chìm đắm luôn trong điều dữ, làm lầm lạc kẻ khác mà cũng lầm lạc chính mình nữa” (2Ti. 3:12-14). Đức Chúa Trời không hề hứa cho những người tin Ngài về một đời sống “thoải mái”! Thật ra, sống giữa thế gian này, nếu ai kính yêu Đức Chúa Trời thì tất phải gặp bắt bớ; chỉ có điều là việc ấy thuộc trong chương trình tốt đẹp của Đức Chúa Trời: “10Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy. 11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:10-12). Cơ Đốc Nhân thường chịu bắt bớ vì hai lý do chính: Thứ nhất, vì họ sống một đời sống công nghĩa theo tiêu chí của Đức Chúa Trời. Thứ hai, họ không còn chịu ở dưới sự điều khiển của tên chủ nô ngày trước mà đã thuộc về Đức Chúa Trời: “Phước cho các ngươi khi vì cớ Con Người, thiên hạ sẽ ghét, đuổi, mắng nhiếc các ngươi, bỏ tên các ngươi như đồ ô uế…” (Lu. 6:22). I. MỘT SỐ HÌNH THỨC BẮT BỚ… A. HẠI HÀNH… Ý nghĩa căn bản của từ liệu “bắt bớ” (Gk. dioko) là xua đuổi hay săn đuổi, săn lùng. Từ liệu này bao hàm cả sự hại hành, sách nhiễu, ngược đãi mà tình trạng tù tội hay bị sát hại là các biểu hiện tập trung trong mọi giai đoạn lịch sử của xã hội loài người. Kể từ ngày Êtiên bị ném đá cho chết (Công. 7:54-60) vì sự kết ước sắt son với Cứu Chúa của mình, sự bắt bớ thuộc thể trên các Cơ Đốc Nhân không ngừng gia tăng. Giacơ, con của Xêbêđê, bị chém đầu. Tục truyền rằng trên đường ra pháp trường, kẻ cáo giác Giacơ đã rất cảm kích trước lòng dũng cảm của Giacơ nên đã ăn năn tội, cũng đã tự nhận mình là Cơ Đốc Nhân để cùng chịu xử tử hình với Giacơ. Sứ Đồ Philíp đã bị bỏ tù và cuối cùng bị xử đóng đinh năm 54 SC. Sứ Đồ Mathiơ đã phải chịu chết dưới lưỡi gươm. Sứ Đồ Mathia bị ném đá tại thành Giêrusalem trước khi bị chém đầu. Anhrê, em của Sứ Đồ Phierơ, đã bị đóng đinh trên thập tự giá hình chữ X. Sứ Đồ Mác đã phải bị ngựa kéo trên pháp trường tại thành Alécxandria, thân thể nát tan thành hàng trăm mảnh. Người ta kể rằng khi Sứ Đồ Phierơ bị xử đóng đinh, ông đã xin một đặc ân là được treo ngược đầu xuống đất vì ông cảm thấy mình chẳng xứng để chịu cùng một loại pháp hình với Đức Chúa Jêsus. Sứ Đồ PhaoLô đã bị chém đầu. Sứ Đồ Giuđe bị xử đóng đinh. Sứ Đồ Batêlêmy đã bị đánh đập tơi bời trước khi đem treo lên thập tự giá. Sứ Đồ Thôma đã bị giáo đâm xuyên qua ngực cho chết. Theo truyền thuyết, Sứ Đồ Luca bị treo cổ trên một cây Ôlive. Sứ Đồ Simôn bị xử đóng đinh năm 74 SC. Banaba cũng đã bị hành hình trước đó một năm, năm 73 SC. B. SỈ NHỤC… Trút đổ những lời thóa mạ, hằn học hay trêu chọc nham nhở đối với các Cơ Đốc Nhân là chuyện thường tình. Làm công dân của Nước Thiên Đàng là chấp nhận mọi điều phỉ báng của thế gian. Đến như Đức Chúa Jêsus cũng đã từng phải chịu bạt tai, đánh đâp, sỉ vả suốt quãng đường lên đồi Gôgôtha. Lòng trung tín với Đức Chúa Jêsus của Cơ Đốc Nhân nhất định phải được trả giá bằng mọi loại lời lẽ sỉ nhục, chế nhạo. Không phải chỉ ở những xứ mà Cơ Đốc Giáo là thiểu số Cơ Đốc Nhân mới chịu khổ. Ngay tại các quốc gia tiên tiến cũng vẫn thế. Cơ Đốc Nhân tại Hoa Kỳ vẫn phải gặp sự chế nhạo, đố kỵ, kỳ thị,… Họ vẫn có thể bị chủ đuổi việc vì niềm tin tôn giáo của họ cũng giống như Cơ Đốc Nhân ở các nước Châu Á, Châu Phi,… C. VU CÁO… Không những chỉ chịu sỉ nhục trước mặt, Cơ Đốc Nhân còn bị cáo kiện sau lưng nữa. Trong lịch sử nhân loại, Cơ Đốc Nhân là đối tượng để người ta “đổ thừa”: Đốt thành, giết trẻ em, ăn thịt người, lật đổ chế độ… Chúng ta không nên lấy làm lạ về những điều ấy, cả Giăng Báptít lẫn Đức Chúa Jêsus đều cùng chịu cáo buộc tương tự: “18Vì Giăng đã đến, không ăn, không uống, người ta nói rằng: Giăng bị quỉ ám. 19Con Người đến, hay ăn, hay uống, thì họ nói rằng: Kìa, là người ham mê ăn uống, bạn bè với người thâu thuế cùng kẻ xấu nết. Song le, sự khôn ngoan được xưng là phải, bởi những việc làm của sự ấy” (Ma. 11:18-19). II. PHẢN ỨNG CỦA CHÚNG TA… Cơ Đốc Nhân chỉ có duy nhất một thái độ để theo trước các sự bắt bớ đối với niềm tin của họ. Đó là sự vui vẻ chấp nhận: “Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ,…” (Ma. 5:12a). Đây là một sự dạy dỗ lạ lùng: “Hãy vui vẻ” (Gk. chairo). Làm thế nào chúng ta có thể vui vẻ được khi phải chịu bắt bớ? Chúng ta chỉ có thể có thái độ ấy nếu thật lòng tin vào chương trình “Tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2). Chúng ta sẽ có thể vui vẻ đối với sự bắt bớ vì cớ niềm tin tôn giáo của mình khi tin quyết rằng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn phần thưởng cho chúng ta: “… Vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; …” (Ma. 5:12b). Thánh đồ mọi thời đại đều biết vui vẻ, họ chấp nhận “Chịu đau đớn với Ngài hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài’ (Rô. 8:17). Sứ Đồ PhaoLô viết bởi Đức Thánh Linh để dạy chúng ta: “… 3Chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh sự nhịn nhục, 4sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy. 5Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rô. 5:3-5). Sứ Đồ Phierơ cũng viết dạy chúng ta theo cùng một ý tưởng ấy: “Nếu có ai vì làm tín đồ Đấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn: Thà hãy vì Danh ấy ngợi khen Đức Chúa Trời là hơn” (1Phi. 4:16). Cơ Đốc Nhân chỉ có thể vui vẻ trước các sự bắt bớ khi họ nhận thức được một cách rõ ràng rằng đời sống trên thế gian này là tạm, và họ kể rằng “Đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời” (Côl. 3:3). Cơ Đốc Nhân chỉ có thể vui vẻ trước các sự bắt bớ khi họ không “19Chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; 20nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy” (Ma. 6:19-20). Sự vui vẻ của Cơ Đốc Nhân trước các sự bắt bớ sẽ đến khi họ biết được rằng họ thuộc về đại gia đình các thánh đồ của mọi thời đại: “ … Bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:12c, Sv. Hê. 11:32-40). Đức Tổng Giám Mục John Chrysostom (Tức John of Antioch, 347-407 SC., được tấn phong Linh Mục năm 386 SC., Tổng Giám Mục tại Constantinople năm 407 SC.) đã từng mạnh mẽ giảng dạy để vạch trần tội lỗi đến nỗi làm mếch lòng Hoàng Hậu Eudoxia cũng như nhiều chức sắc Giáo Hội khác. Khi Hoàng Đế Arcadius cho đòi vào để răn đe rằng nếu không chịu ngưng sự giảng dạy ấy sẽ bị lưu đày. John Chrysostom trả lời Hoàng Đế Arcadius: “Thưa Ngài, Ngài không thể nào lưu đày tôi được, vì cả thế gian này là nhà của Cha tôi!”. Khi Hoàng Đế Arcadius dọa giết, John Chrysostom dõng dạc trả lời: “Ngài không thề giết được tôi đâu, vì sự sống của tôi đã được giấu với Đức Chúa Jêsus Christ trong Đức Chúa Trời”. Tức giận, Hoàng Đế Arcadius hét lên: “Giỏi! Ta sẽ tịch thu hết tài sản nhà ngươi!”. John Chrysostom trả lời: “Thưa Ngài, đó cũng là một điều Ngài không sao làm được, vì tôi đã chứa của cải của tôi ở trên trời là nơi không ai có thể đào ngạch khoét vách mà lấy được!”. Hoàng Đế Arcadius ra quyết định: “Trẫm sẽ bắt nhà ngươi đến một nơi hoang vu, xa lạ; phải sống cô đơn không có bất cứ ai ở bên cạnh nhà ngươi cả”. John Chrysostom trả lời: “Không khi nào Ngài có thể làm được như thế vì Đức Chúa Trời của tôi có hứa rằng Ngài sẽ không bao giờ lìa bỏ tôi!”. Sau đó John Chrysostom đã bị phát vãn. Ban đầu phải chịu biệt cư ở Armenia. Vẫn không thỏa lòng, những kẻ bắt bớ John Chrysostom quyết định đày ông xa hơn về phía Hắc Hải, tại Pytius. Thế nhưng Arcadius đã không thể được toại nguyện vì trên đường đi Pytius, Đức Chúa Trời đã đón linh hồn John Chrysostom về Thiên Đàng để vui hưởng phước hạnh đời đời, thoát khỏi sự bắt bớ của đời ác này… “10Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy. 11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ, và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm; bởi vì người ta cũng từng bắt bớ các Đấng Tiên Tri trước các ngươi như vậy” (Ma. 5:10-12). III. PHẢI HIỂU CHO ĐÚNG… Để có thể hưởng được ơn phước Thiên Thượng, chúng ta cần phải hiểu đoạn văn Kinh Thánh này cho đúng. Phước hạnh và sự an ủi của đoạn văn Kinh Thánh này không dành cho tất cả những ai “bị bắt bớ’ mà chỉ dành cho những ai “chịu bắt bớ vì sự công bình”. Trong lịch sử nhân loại, có nhiều hoạt động tôn giáo và khá nhiều nhà hoạt động tôn giáo phải chịu bắt bớ, thế nhưng không phải tất cả các sự bắt bớ vì tôn giáo đều là “bắt bớ vì sự công bình”: “Trong anh em chớ có ai chịu khổ như kẻ giết người, như kẻ trộm cướp, như kẻ hung ác, như kẻ thày lay việc người khác…” (1Phi. 4:15). Phước hạnh không dành cho những người thực hành niềm tin tôn giáo của mình một cách lập dị, trái khoáy. Phước hạnh không dành cho những người phát triển niềm tin tôn giáo của mình một cách ngạo mạn, dối gạt, hay kém thiếu về đức khiêm nhường. Phước hạnh cũng không dành cho những con người giả danh tôn giáo… Kinh Thánh không hề hứa sự phước hạnh cho những con người ngoan cố, ngỗ ngáo. Kinh Thánh dạy: “16Kìa, Ta sai các ngươi đi khác nào như chiên vào giữa bầy muôn sói. Vậy, hãy khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bồ câu. 17Hãy coi chừng người ta; vì họ sẽ nộp các ngươi trước tòa án, đánh đòn các ngươi trong Nhà Hội…” (Ma. 10:16-17). Thật ra, những người “chịu bắt bớ vì sự công bình” chính là những người có đời sống bày tỏ được các mỹ đức của Đức Chúa Jêsus, họ có đời sống giống như Cứu Chúa của mình và cho Cứu Chúa của mình: “14Nếu anh em phải vì sự công bình mà chịu khổ, ấy thật là có phước. Chớ sợ điều họ sợ và đừng rối trí; 15nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ” (1Phi. 3:14-15). “Ví bằng anh em vì cớ Danh Đấng Christ chịu sỉ nhục, thì anh em có phước; vì sự vinh hiển và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đậu trên anh em” (1Phi. 4:14). “18Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét Ta trước các ngươi. 19Nếu các ngươi thuộc về thế gian; thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và Ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi” (Gi. 15:18-19). Lời hứa trong sự dạy dỗ ở đây tương đồng với lời hứa dành cho “những kẻ có lòng khó khăn” (Ma. 5:3). Cả hai đối tượng này cùng được hưởng “Nước Thiên Đàng”. Trên một phương diện, “Nước Thiên Đàng” chính là kinh nghiệm bản thân về sự điều khiển, dắt dẫn của Đức Chúa Trời trên đời sống cá nhân. Để hưởng được “Nước Thiên Đàng”, trước hết người ta phải mở cửa lòng mình ra để đón nhận (Ma. 5:3). “Nước Thiên Đàng” là năng lực cảm thụ và đáp ứng với quyền năng Thiên Thượng khiến cho Cơ Đốc Nhân không còn sống theo các tiêu chí của thế gian. Một khi “Nước Thiên Đàng” ngự trị trong đời sống một người, bông trái Thánh Linh tất yếu phải được bày tỏ, và cũng chính vì thế mà Cơ Đốc Nhân phải “chịu bắt bớ” (Ma. 5:10). Ngày nay, thế gian bắt bớ Cơ Đốc Nhân vì cùng một lý do mà ngày xưa người ta đã bắt bớ Đức Chúa Jêsus. Cơ Đốc Nhân “chịu bắt bớ” vì phẩm hạnh của họ có tác dụng vạch trần tính chất bại hoại của đời này. Phẩm hạnh Cơ Đốc luôn luôn là mẫu đối chứng để thế gian nhận biết mỹ đức Thiên Đàng. Sự khác biệt giữa Cơ Đốc Nhân và người đời là một sự khác biệt căn bản, đó là sự khác biệt giữa sáng và tối. “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hế nhận lấy sự sáng…” (Gi. 1:5). “Họ thấy anh em chẳng cùng họ theo sự dâm dật bậy bạ ấy, thì họ lấy làm lạ và gièm chê…” (1Phi. 4:4). Nhưng nào có hề gì! “19Sự cuối cùng của họ là hư mất, họ lấy bụng mình làm Chúa mình, và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi. 20Nhưng chúng ta là công dân trên trời, ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa của mình là Đức Chúa Jêsus Christ, 21Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật” (Phil. 3:19-21). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHƯỚC CHO KẺ LÀM CHO NGƯỜI HÒA THUẬN” (Ma. 5:9) “Phước cho những kẻ làm cho người hòa thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời.” (Ma. 5:9) Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy sự đấu đá và tranh cạnh mà mọi lĩnh vực xã hội đều chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. Giữa một bối cảnh như vậy, Đức Chúa Trời kêu gọi Dân Ngài hãy sống làm người hiếu hòa. “Phước cho những kẻ làm cho người hòa thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời” (Ma. 5:9). Để có thể hiểu được điều gì Đức Chúa Trời muốn cho chúng ta sống theo, cần phải hiểu rõ thế nào là “bất hòa”, thế nào là “ngụy hòa”, và thế nào mới là “hiếu hòa” theo ý muốn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. I. NGƯỜI BẤT HÒA Người bất hòa là người theo đuổi một đường lối làm suy yếu, đổ vỡ các mối quan hệ để tạo nên các sự trục trặc và chia rẽ. Người bất hòa chỉ biết lôi kéo người khác để thỏa mãn ý muốn chủ quan và bản ngã của họ. Kinh Thánh có những lời dạy về họ rất dứt khoát, minh bạch: “17Hỡi anh em, tôi khuyên anh em coi chừng những kẻ gây nên bè đảng và làm gương xấu, nghịch cùng sự dạy dỗ mà anh em đã nhận. Phải tránh xa họ đi. 18Vì những kẻ đó chẳng hầu việc Đấng Christ, Chúa chúng ta, song hầu việc cái bụng họ, và lấy những lời ngọt ngào dua nịnh dỗ dành lòng kẻ thật thà” (Rô. 16:17-18). Hội Thánh của Đức Chúa Trời không thể nào dung túng những con người bất hòa được, vì người bất hòa sẽ thủ tiêu các nguyên tắc sống còn của Hội Thánh Địa Phương. Những người bất hòa luôn chống lại sự vận hành của Đức Chúa Trời, họ là tác nhân ngăn trở đối với sự phấn hưng theo ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống Hội Thánh. Ngược lại, Kinh Thánh đề cao sự hòa thuận, lấy đó làm nguyên tắc sống cho đời sống của cộng đoàn Dân Chúa: “1Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau_Thật tốt đẹp thay!_2Ấy khác nào dầu quí giá đổ ra trên đầu,_Chảy xuống râu, tức râu của Arôn,_Chảy đến trôn áo người…” (Thi. 133:1-2). Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể loại bỏ sự bất hòa (cũng như người bất hòa) khỏi Hội Thánh nếu từng người chúng ta biết tra xét chính tấm lòng của mình! “1Hỡi anh em, trong vòng anh em chớ có nghiều người tự lập làm thầy, vì biết như vậy, mình sẽ phải chịu xét đoán càng nghiêm hơn. 2Chúng ta thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm. Nếu có ai không vấp phạm trong lời nói mình, ấy là người trọn vẹn, hay hãm cầm cả mình” (Gia. 3:1-2). Con đường ngắn nhất để đi đến sự bất hòa là việc sử dụng môi miệng vô nguyên tắc: Nói hành, nhiều chuyện, phao phản, xét đoán,… Đó chính là điều sẽ tạo ra rạn nứt, phân rẽ dẫn đến sụp đỗ. Gài cho Cơ Đốc Nhân mắc bẫy bằng chính môi miệng của họ là một loại vũ khí dầu rất cổ điển nhưng vô cùng lợi hại mà Satan luôn luôn tận dụng để phá hoại Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải hết sức thận trọng trong sự tiết độ môi miệng: “9Bởi cái lưỡi chúng ta khen ngợi Chúa, Cha chúng ta, và cũng bởi nó chúng ta rủa sả loài người, là loài tạo theo hình ảnh Đức Chúa Trời. 10Đồng một lỗ miệng mà ra cả sự khen ngợi và rủa sả! Hỡi anh em, không nên như vậy!” (Gia. 3:9-10). II. NGƯỜI NGỤY HÒA Đức Chúa Trời đòi hỏi phải loại trừ sự bất hòa (cũng như người bất hòa) ra khỏi Hội Thánh của Ngài. Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng không hỗ trợ cho thái độ ngụy hòa: “14Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc, 15nhưng muốn chúng ta lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng Làm Đầu, tức là Đấng Christ” (Êph. 4:14-15). Người ngụy hòa cho rằng “hòa thuận” là không được có bất kỳ sự tranh luận, dị biệt nào cả; là phải chấp nhận tất cả. Đối với người ngụy hòa, lẽ thật Kinh Thánh không cần phải có vị trí ưu tiên hàng đầu, mà ưu tiên hàng đầu là sự đầu hàng: Cất bỏ tất cả mọi sự, kể cả lẽ thật Kinh Thánh, để có thể chấp nhận tất cả mọi sự, kể cả những điều phi Kinh Thánh và phản Kinh Thánh. Người ngụy hòa sẵn sàng uốn cong Lời Kinh Thánh theo chủ trương của họ. Họ coi thường các sự dạy dỗ Kinh Thánh để theo đuổi xúc cảm riêng và tham vọng ích kỷ một cách rất bản năng: “…10Những kẻ nầy, hễ điều gì không biết thì khinh dễ hết, và mọi điều chúng nó tự nhiên mà biết cũng như con thú vật vô tri, thì dùng mà làm hư mình. 11Khốn nạn thay cho chúng nó, vì đã theo đường của Cain, lấy lòng tham lợi mà gieo mình vào sự sai lạc của Balaam, và bị hư mất về sự phản nghịch của Côrê” (Giu. 10-11). Trên phương diện bản chất, thái độ ngụy hòa chính là một biến tướng của chủ nghĩa thỏa hiệp. Trên phương diện lý thuyết, thái độ ngụy hòa là phi hiện thực và phản Kinh Thánh. Trên phương diện thực tế, không thể nào dung hợp được giữa sự sáng và sự tối. Cuộc đấu tranh giữa sáng và tối là một cuộc đấu tranh không khoan nhượng. Trước thái độ ngụy hòa (tức chủ nghĩa thỏa hiệp), Cơ Đốc Nhân, nếu là Cơ Đốc Nhân chân chính, phải để Lời Kinh Thánh “nói ra lẽ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng Làm Đầu, tức là Đấng Christ”: “Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng” (Gi. 1:5). “14Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông đồng với nhau được chăng? 15Đấng Christ và Bêlian nào có hòa hiệp chi, hay là kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin?... 17Bởi vậy Chúa phán rằng:_Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó,_Đừng đá động đến đồ ô uế,_Thì Ta sẽ tiếp nhận các ngươi” (2Cô. 6:14-15, 17). “Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do, vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa” (Gal. 5:1). Kinh Thánh không cho phép Cơ Đốc Nhân thỏa hiệp, đầu hàng mà là phải vững vàng, triệt để trong cuộc chiến cho lẽ thật của Đức Chúa Trời: “…Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ” (1Phi. 3:15). “Song điều tôi làm, tôi còn làm nữa, để cất mọi mưu của kẻ tìm mưu, hầu cho trong những sự họ lấy mà khoe mình, chẳng có một sự nào trỗi hơn chúng tôi được” (2Cô. 11:12). A. W. Tozer viết như sau: “‘Một cây làm chẳng nên non’ là câu nói cửa miệng của những nhà lãnh đạo chính trị nham hiểm, và Satan cũng biết cách làm thế nào để lừa bịp Dân Chúa bằng câu ‘Ba cây chụm lại thành hòn núi cao’… Sức mạnh nằm bên trong sự hiệp nhất của những yếu tố tương đồng, và cũng nằm bên trong sự phân rẽ của những yếu tố dị biệt… Mọi người đều mong ước sự hòa bình, nhưng phấn hưng chỉ có thể đến sau lưỡi gươm của Đức Chúa Jêsus Christ”. Đức Chúa Jêsus phán: “34Chớ tưởng rằng Ta đến để đem sự bình an cho thế gian; Ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo. 35Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; 36và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình” (Ma. 10: 34-36). III. NGƯỜI HIẾU HÒA Ai cũng biết Đức Chúa Jêsus là Sứ Giả Bình An từ Thiên Thượng, Ngài là Đấng Hiếu Hòa, nhưng chính Ngài lại phán những lời lạ lùng ấy! Điều này giúp cho chúng ta biết được rằng sự bình an mà Đức Chúa Jêsus thiết lập không cùng một loại theo quan niệm của thế gian. Sự bình an mà Đức Chúa Jêsus đem đến cho chúng ta không chỉ có nghĩa là một trạng thái không tranh chiến. Sứ mệnh thiêng liêng của Đức Chúa Jêsus là đem mọi người trở về với Đức Chúa Trời. Việc đem nhân loại trở về với Đức Chúa Trời là việc lội dòng nước ngược, là làm thay đổi các thứ tự ưu tiên. Đem nhân loại trở về với Đức Chúa Trời là giúp cho “những kẻ có lòng khó khăn” biết “than khóc” cho thân phận mình để trở thành “những kẻ nhu mì”, biết “đói khát sự công bình”, trở nên “hay thương xót”, và “có lòng trong sạch”. Đem nhân loại trở về với Đức Chúa Trời đồng nghĩa với việc chấp nhận một cuộc tranh chiến toàn diện và triệt để! Tuy nhiên, đó mới là sự vận động chân chính của quá trình dẫn đến hình thành con người hiếu hòa, thái độ hiếu hòa: Hòa thuận với Đức Chúa Trời, hòa hợp chính trong bản thân, nhiên hâu mới hòa bình được với tha nhân. Đức Chúa Jêsus là xuất phát điểm mà cũng là đích điểm của tiến trình ấy: “Bởi huyết Ngài trên thập tự giá, thì đã làm nên hòa bình, khiến muôn vật dưới đất trên trời đều nhờ Ngài mà hòa thuận cùng chính mình Đức Chúa Trời” (Côl. 1:20). Không thể làm một người hiếu hòa khi vấn đề tội lỗi đối với Đức Chúa Trời chưa được xử lý xong. Tuy nhiên, không thể xử lý được vấn đề tội lỗi đối với Đức Chúa Trời mà không thông qua Đức Chúa Jêsus: “Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ…” (1Ti. 2:5). “Vả, Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời…” (1Phi. 3:18). “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Rô. 5:1). Trạng thái nội tại của con người khi chưa tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus là trạng thái tự tranh chiến giữa các yếu tố xung khắc nhau trong lý trí, ý chí, và tình cảm. Sự bình an với Đức Chúa Trời sẽ thay đổi nhân sinh quan, thế giới quan, và phương pháp luận của mỗi người đã từng một thời bị cầm tù trong sự lừa dối của kẻ thù thuộc linh là tư dục, thế gian, và ma quỉ. Sự bình an ấy có tác dụng khai phóng viễn cảnh của chúng ta. Một người sau khi thiết lập trở lại quan hệ phải lẽ với Đức Chúa Trời qua việc tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus vẫn mang tên gọi cũ, vẫn còn thân xác cũ, nhưng lại là một con người đã được đổi mới về bản chất và trong các mối quan hệ; và mọi sự trở nên hòa hợp trong họ: “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17). “Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 4:17). Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời là “hãy cầu sự bình an với mọi người” (Côl. 3:15), thế nhưng sự bình an thể hiện qua thái độ hiếu hòa chân chính chỉ có thể có trong đời sống công nghĩa của những con người đã được xưng công nghĩa bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời: “Vả, bông trái của điều công bình thì gieo trong sự hòa bình, cho những kẻ nào làm sự hòa bình vậy” (Gia. 3:18). “Mọi điều đó đến bởi Đức Chúa Trời, Ngài đã làm cho chúng ta nhờ Đấng Christ mà được hòa thuận lại cùng Ngài, và đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng ta” (2Cô. 5:18). “Con Đức Chúa Trời” có hai nghĩa: (1) Nghĩa xác lập: Được tái sanh bởi Đức Chúa Trời, và (2) Nghĩa thể hiện: Sống đời sống tái sanh. Theo phương diện thứ nhất, chỉ có trở thành con cái của Đức Chúa Trời bằng việc tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus người ta mới có thể trở nên “kẻ làm cho người hòa thuận”. Theo phương diện thứ hai, “kẻ làm cho người hòa thuận” xác lập được chức phận con Đức Chúa Trời của mình trong thực tế cuộc sống bằng đời sống hiếu hòa. Trong lời dạy “Phước cho những kẻ làm cho người hòa thuận, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời”, từ liệu “con” (Gk. huios) nhấn mạnh đến địa vị cao trọng được thể hiện ra trong đời sống thực tiễn. “Được gọi là con Đức Chúa Trời” tức là được nhìn nhận qua thực tế rằng đã có được sự bình an thật mà Đức Chúa Trời trao ban trong và qua Đức Chúa Jêsus, có sự bình an bản thân của một đời sống tái sanh, và có sự bình an với tha nhân trong chức vụ giảng hòa bằng Tin Lành Cứu Rỗi: “Con Đức Chúa Trời” phải sống rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi họ “ra khỏi nơi tối tăm, đến nới sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9). Họ là “kẻ làm cho người hòa thuận” chứ không còn là người thỏa hiệp, đầu hàng, hay gieo bất hòa vì lợi ích ích kỷ nữa. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI VUI MỪNG GIỮA CẢNH GIAN TRUÂN” (Gia. 1:1-4) “Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn.” (Gia. 1:2) Ngay từ lời mở đầu, Sứ Đồ Giacơ “chúc bình an” cho các Cơ Ðốc Nhân Do Thái bị tản lạc khắp trong thế giới La Mã. Giacơ hiểu được rằng họ đang phải ở giữa cảnh gian truân; họ không những bị bắt bớ bởi người ngoại giáo mà lại còn phải chịu sự phỉ báng của những người đồng chủng tộc với mình nữa. Hoàn cảnh thật đen tối. Thế nhưng với một tấm lòng đầy yêu thương, đồng cảm, Sứ Đồ Giacơ chúc cho họ được bình an ngay giữa cơn đại nạn. Lời “Chúc bình an” (Gk. “chairo”) ở đây là một lời chào kêu gọi sự vui mừng: “Hãy vui mừng lên!”. Hiển nhiên đây là một sự kêu gọi các Cơ Ðốc Nhân về một tinh thần, thái độ, niềm tin, lối sống,… chứ không phải chỉ thuần túy là một sự cầu mong được an lành qua cơn gian truân. I. PHẢI BIẾT VUI MỪNG NGAY GIỮA CẢNH GIAN TRUÂN (Câu. 2) Ở vào địa vị của những độc giả đầu tiên của Thư Tín này, ai cũng phải tự hỏi vì sao Sứ Đồ Giacơ lại đưa ra một lời cầu chúc, nói đúng hơn là một sự dạy dỗ, như thế? Một cách hết sức tự nhiên, người ta sẽ đặt câu hỏi rằng liệu như thế có bình thường hay không? 1. Vui Mừng Giữa Cảnh Gian Truân Là Điều Có Thể Thực Hiện Được. Sự vui mừng giữa cảnh gian truân là điều có thể thực hiện được, nhưng chỉ với các Cơ Ðốc Nhân chân thực mà thôi. Đối với một người thế gian, lời kêu gọi của Sứ Đồ Giacơ là một điều không bình thường, không thể nào chấp nhận được, và quả thực đó là một điều họ không sao hiểu được. Đối với một người khắc kỷ, khi lâm vào vòng nghịch cảnh, cố gắng hết sức thì họ cũng chỉ có thể tự kiềm chế mình để có thể thuận theo tình thế bắt buộc mà thôi. Đối với người theo chủ nghĩa hưởng lạc, trong trường hợp lâm cảnh gian truân, họ không thể nào tự mình xoay xở để thoát khỏi tai ương. Chỉ duy nhất những người có đức tin đặt nơi Ðức Chúa Trời mới nắm vững được thuật luyện vàng trong đời sống đức tin để có thể biến buồn ra vui được. 2. Vui Mừng Giữa Cảnh Gian Truân Là Biết Vâng Lời. Vui mừng ngay giữa vòng gian truân là điều vốn có trong sự hiểu biết, đức tin và niềm hy vọng của mọi Cơ Ðốc Nhân chân chính. Các Cơ Ðốc Nhân đều biết rằng Ðức Chúa Trời là Cha của mình, và họ biết chắc rằng Ngài yêu quí con cái Ngài. Các Cơ Ðốc Nhân biết chắc rằng Ðức Chúa Trời có một sự sắp đặt để đem lại điều tốt nhất cho họ (Rô. 8:28). Các Cơ Ðốc Nhân trưởng thành biết rõ rằng ngay cả trong trường hợp phải sửa phạt các con cái vi phạm của mình, Ðức Chúa Trời vẫn cứ giữ tấm lòng người Cha nhân từ đối với họ. Không có gì có thể phân rẽ các Cơ Ðốc Nhân khỏi tình yêu thương của Ðức Chúa Trời được. Các Cơ Ðốc Nhân tin quyết rằng tất cả những nghịch cảnh và tai ương trên đời này chỉ là “sự hoạn nạn nhẹ và tạm” để rồi sẽ đem lại cho họ “sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng vô biên” (2Cô. 4:17). Những từng trải đau thương của các Cơ Ðốc Nhân chỉ là cách để tô điểm cho họ nét đẹp của đời sống mới để rồi “Ngó như buồn rầu, mà thường được vui mừng” (2Cô. 6:10). 3. Vui Mừng Giữa Cảnh Gian Truân Để Nêu Gương Tốt. Sự vui mừng giữa cảnh gian truân chính là phẩm cách cao quí hơn hết của đức tin. Môise đã “Coi sự sỉ nhục về Ðấng Christ là quí hơn của châu báu xứ Êdíptô, vì người ngửa trông sự ban thưởng” (Hê. 11:26). Tại thành Philíp, Sứ Đồ Phaolô vẫn hát ngợi khen Chúa dầu cho chân đang bị khóa chặt trong cùm (Công. 16:24, 25). Sứ Đồ Phierơ dạy chúng ta rằng “Nếu có ai vì làm tín đồ Ðấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn; thà hãy vì danh ấy ngợi khen Ðức Chúa Trời là hơn” (1Phi. 4:16). Vị Sứ Đồ dũng cảm này vừa khích lệ, vừa nêu gương cho chúng ta “Hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Ðấng Tạo Hóa thành tín” (1Phi. 4:19). Có biết bao gương sáng về sự vui mừng giữa cảnh gian truân mà những người vâng lời Ðức Chúa Trời đã nêu. Bunyan chịu đựng cảnh lao tù suốt 12 năm dài trước khi qua đời và kể đó là thời gian ông được ở trong tiền sảnh của Thiên Đàng. Chính vì biết rằng “Có phần trong sự đau đớn, thì cũng có phần trong sự yên ủi” (2Cô. 1:7) mà tiến sĩ Arnold, ngay giữa khi cơn bạo bệnh bộc phát, đã nói rằng “Con xin cảm tạ Chúa về sự đau đớn này!”. Không thể thấy hết và đếm hết được, nhưng thực ra mỗi ngày đều có hàng ngàn Cơ Ðốc Nhân biết sống đời sống làm chứng trong hoạn nạn, vì họ biết rằng “Hoạn nạn sanh ra nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy” (Rô. 5:3, 4). Khi các Cơ Ðốc Nhân biết vui mừng ngay giữa cảnh gian truân, họ nêu gương sáng về sự trông cậy nơi Ðức Chúa Trời; gương trông cậy của họ giúp khích lệ người khác cũng biết trông cậy như chính họ vậy. II. LỢI ÍCH CỦA SỰ GIAN TRUÂN (Câu 3, 4) Những gian truân đến trong đời sống các Cơ Ðốc Nhân chính là những thử thách ngoại lai. Trên cương vị con cái của Ðức Chúa Trời, Ngài cho phép thử thách đến để thăng tiến đời sống của họ. 1. Sự Thử Thách Thăng Tiến Sự Tự Thức Của Cơ Ðốc Nhân (Câu 3). Trên một phương diện, sự thử thách là bằng chứng của đức tin. Sự thử thách đến để thử nghiệm bản lãnh và tính cách của mỗi người. Khi đứng trên boong của một con tàu đang chìm người ta có thể nhận ra được mình là một tay anh hùng hay chỉ là một tên hèn nhát. Hoạn nạn làm bộc lộ ra ngoài những gì ẩn kín bên trong tấm lòng của một con người. Sự căng thẳng do tai ương đem lại có thể giúp bày tỏ được những nhược điểm của một tính cách mà không có cách nào khác làm cho chúng lộ rõ ra như thế được. Tai ương cũng giúp cho người ta thấy được mình đã đạt đến đâu trên tiến trình nên thánh. 2.Sự Thử Thách Giúp Phát Triển Đức Kiên Nhẫn (Câu 3). Trong suốt thư tín của mình, Sứ Đồ Giacơ luôn đề cao và khắc họa ân điển này. Lời của Sứ Đồ Giacơ ở đây là “sự nhịn nhục”, tức sự bền lòng chịu đựng. Đức kiên nhẫn Cơ Ðốc không đồng nghĩa với sự khuất phục một cách miễn cưỡng, cũng không đồng nghĩa với ý chí ngoan cố. Vốn được cảm kích bởi một tấm lòng tin kính sống động cho nên đức kiên nhẫn Cơ Ðốc có đầy sự thông biết và tính ngoan cường. Cốt lõi của đức kiên nhẫn Cơ Ðốc là ở việc yên lặng duy trì những phần nhất định nào đó trong bản chất của Cơ Ðốc Nhân theo như ý chỉ của Ðức Chúa Trời muốn họ phải duy trì, trong khi đó các nét tính cách khác của họ được sự kiên nhẫn ấy thực tập, rèn luyện. Theo cách nói ở đoạn Kinh Thánh này, Sứ Đồ Giacơ cho thấy đức kiên nhẫn Cơ Ðốc là một điều quí giá không tả xiết. Sứ Đồ Giacơ cho rằng ai có được đức kiên nhẫn ấy chính là người khôn ngoan hơn hết, thịnh vượng hơn hết vì nhờ đó mà họ có được “sự vui mừng trọn vẹn” (Gk. “pas”: mọi hình thức, tất cả,…). Ai biết vận dụng mọi gian truân trong đời sống mình để rèn luyện đức kiên nhẫn Cơ Ðốc theo cách như thế sẽ là người thắng cuộc. Họ sẽ không bị hoàn cảnh đè bẹp, và họ sẽ nhận được những lời chúc mừng của các anh, chị, em khác trong đức tin chứ không phải chỉ là những lời chia buồn ảm đạm như người trong thế gian. 3. Sự Thử Thách Góp Phần Cho Sự Hoàn Thiện Đạo Đức (Câu 4). Sự hoàn thiện đạo đức chính là một mục đích mà Ðức Chúa Trời muốn các con cái Ngài đạt được. Ðức Chúa Trời muốn các Cơ Ðốc Nhân “Trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào”; Ngài muốn chúng ta trở nên hoàn mỹ qua sự giáo hóa thuộc linh. Sự gian truân theo thánh ý luôn có tác dụng giáo dưỡng. Thói quen kiên cường trong gian truân và vui mừng trong sự chịu đựng giúp đem lại sự trưởng thành và sự cân đối cho linh hồn chúng ta. Một số những đức hạnh Cơ Ðốc như sự nhẫn nhục hay đức thấu cảm chỉ có thể có được nhờ sự gian truân. Một tinh thần Cơ Ðốc quân bình một cách tinh tế không phải là kết quả của một cuộc đời bình lặng không hề đối đầu sóng gió. Sự hoạn nạn chính là tác nhân giúp hình thành một tính cách cao đẹp, vì “Hoạn nạn sanh ra sự nhịn nhục” (Rô. 5:3). Từng trải sự gian truân giúp cho Cơ Ðốc Nhân trở nên trọn vẹn (2Cô. 12:9), và đó chính là một sự dạy dỗ xuyên suốt Kinh Thánh Tân Ước. Đời sống của chúng ta có lúc phải được nhào nặn bằng những va đập bất ngờ và mãnh liệt để có được một khuôn dạng đẹp ý Ðức Chúa Trời. Những sự buồn phiền trong đời sống Cơ Ðốc Nhân phải được biến thành những nấc thang thuộc linh giúp họ mỗi ngày càng trèo lên cao hơn để càng lúc càng thấy được sự chói lọi, vinh hiển của Ðức Chúa Trời rõ hơn. Trong gian truân và qua gian truân, linh hồn của chúng ta sẽ tiến gần đến Ðức Chúa Trời. III. Ý NGHĨA ĐÍCH THỰC CỦA SỰ GIAN TRUÂN Từng trải sự gian truân không phải chỉ là một sự chọn lựa tùy ý (2Ti. 3:12) mà là một phương thức thăng tiến cho các Cơ Ðốc Nhân (Rô. 8:28). Ý nghĩa đích thực của sự thử thách cần phải được nhìn nhận: 1. Theo Một Góc Nhìn Mới. Đối với những người chưa tin Chúa, họ luôn kêu ca, phàn nàn giữa cơn hoạn nạn vì phải chịu đựng ngoài ý muốn. Cơ Ðốc Nhân không được phép nhìn sự việc theo góc nhìn chật hẹp ấy. Không có điều gì xảy đến với Cơ Ðốc Nhân ngoài ý muốn của Ðức Chúa Trời. Ðức Chúa Trời luôn có mục đích tốt đẹp trong công việc của Ngài và cho những người nương cậy Ngài. Sự từng trải gian truân của các Cơ Ðốc Nhân không phải chỉ thuần túy là sự khuất phục một cách lãnh đạm, miễn cưỡng. Sự chịu đựng thử thách của Cơ Ðốc Nhân là việc bền lòng duy trì những đức hạnh Cơ Ðốc nhất định nào đó qua nghịch cảnh, đồng thời cũng kinh qua nghịch cảnh ấy mà phát triển các đức hạnh Cơ Ðốc khác nữa để đạt đến mức “Thành nhân, được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Ðấng Christ” (Êph. 4:13). 2. Trong Một Ý Nghĩa Mới. Biết được rằng những sự gian truân chính là những thập tự giá được gửi đến cho đời sống Cơ Ðốc (Ma. 16:24), Cơ Ðốc Nhân hoàn toàn có quyền vui mừng vì chính đó là phương thức Ðức Chúa Trời sử dụng để thăng tiến đời sống của họ. Sự gian truân trong đời sống Cơ Ðốc Nhân không còn mang ý nghĩa thường tình vốn có của nó. Đối với các Cơ Ðốc Nhân, sự gian truân trong đời sống họ chỉ là sự thử thách để họ có cơ hội được tự chứng về mình. Sự gian truân trong đời sống Cơ Ðốc hoàn toàn đồng nghĩa với sự rèn luyện cho được vững vàng hơn. 3. Với Tầm Quan Trọng Trong Sự Nghiệp Đời Đời. Mỗi Cơ Ðốc Nhân đều đứng trước một sự thử nghiệm có tính chất quyết định: Phải kinh qua thử thách một cách đắc thắng để đạt đến sự trưởng thành thuộc linh mà Ðức Chúa Trời đòi hỏi. Qui mô phần thưởng của các Cơ Ðốc Nhân tùy thuộc vào mức độ hoàn thành sự thử nghiệm của họ (Khải. 2:10; 22:12). Vinh hiển tương lai của Cơ Ðốc Nhân được bảo đảm bằng các thử thách hiện tại. Sự gian truân đến bởi thánh ý Ðức Chúa Trời không phải là hoạn nạn thất thường mà chính là phước hạnh Thiên Thượng. Nhằm mục đích tối hậu là giáo dưỡng cho con cái Ngài đạt được sự viên thục thuộc linh, Ðức Chúa Trời ban đến đời sống chúng ta những thử thách ngoại lai để vừa kiểm chứng, vừa để rèn luyện bản lĩnh thuộc linh của chúng ta. Nhận thức được ý nghĩa đích thực của sự gian truân trong đời sống người theo Chúa, chúng ta hoàn toàn được khích lệ để không những chẳng lo buồn mà còn có thể “Khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh ra sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy” (Rô. 5:3-4). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẬN SỰ TRI ÂN” (Lu. 17:11-19) “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa, vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy.” (1Tê. 5:18) Có một câu chuyện kể về hai người bạn vừa đi, vừa nói chuyện vui vẻ với nhau trên một cánh đồng. Đột nhiên họ nhận ra rằng có một con bò điên đang hung hăng lao về hướng họ. Không cần ai bảo ai, cả hai cùng cố sức chạy về phía một trang trại có rào chắn ở gần đó. Con bò lên cơn điên vẫn rượt theo họ rất gấp. Càng chạy, hai người càng thấy khó có hy vọng thoát khỏi tình huống hiểm nghèo. Một trong hai người là người chưa tin Chúa, anh này hổn hển nhắc người tín đồ kia hãy cầu nguyện, may ra “tai qua nạn khỏi”! Khổ nỗi, người tín đồ lại là người không có thói quen cầu nguyện nên tỏ ra rất lúng túng. Cuối cùng, anh này cũng nhớ được một lời cầu nguyện mà cha anh vẫn thường dùng nên tự động thốt lên: “Chúa ôi, xin ban cho con lòng tri ân Ngài về những gì Ngài cho phép xảy ra trên đời sống của con!”… Tất nhiên là người chưa tin Chúa kia không thể nào hiểu thấu được triết lý của lời cầu nguyện ấy, và khó lòng mà chấp nhận nó được. Thế nhưng, liệu có phải tất cả các Cơ Đốc Nhân đều có thể nói “Amen” với một lời cầu nguyện như thế không? I. PHẬN SỰ TRI ÂN Chúng ta có thể học sự dạy dỗ của Kinh Thánh về phận sự tri ân ở nhiều nơi; tuy nhiên, câu chuyện về “Mười Người Phung” (Lu. 17:11-19) là một sự dạy dỗ rất phong phú về thái độ tri ân mà Cơ Đốc Nhân phải có. Đối với con cái Đức Chúa Trời, thái độ tri ân không thể là một cái gì đó “theo mùa”, “tùy tiện” mà phải là một thái độ thường xuyên. Tri ân là lối sống của Cơ Đốc Nhân để qua đó Cơ Đốc Nhân tự khẳng định mình là Cơ Đốc Nhân: “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa, vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê. 5: 18). Theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, thái độ tri ân không phải chỉ là “thiện chí” của một người mà là phận sự bắt buộc đối với Đức Chúa Trời: Hoặc người ta có lòng tri ân Đức Chúa Trời và như vậy là đáp ứng thuận với huấn mệnh của Ngài, hoặc người ta không có lòng tri ân Đức Chúa Trời và bởi đó mà phạm tội cùng Ngài. Hãy chú ý đến địa vị của “Mười Người Phung”: “11Đức Chúa Jêsus đương lên thành Giêrusalem, trải qua bờ cõi xứ Samari và Galilê. 12Nhằm khi vào làng kia, có mười người phung đến đón rước Ngài, đứng đằng xa, 13lên tiếng rằng: Lạy Jêsus, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi cùng!” (Cc. 11-13). Chúng ta có thể có một số nhận xét về những người phung này. Trước hết, Sứ Đồ Luca cho biết rằng họ “đứng đằng xa” (C. 12). Trong xã hội Cựu Ước, chẳng còn chứng bệnh nào đáng sợ hơn bệnh phung. Sự đau đớn mà các bệnh nhân phung phải chịu thật ghê gớm, nhưng đó chưa phải là điều ghê gớm nhất. Điều kinh khủng nhất đối với bệnh nhân phung là phải chịu cách ly với xã hội họ đang sống. Bệnh nhân phung không được tiếp xúc với bất cứ ai trong gia đình mình, và họ không được để cho bất cứ người nào giáp mặt, vì Luật Pháp Cựu Ước kể họ là ô uế. Một người phung phải chấp nhận mọi bất tiện của bịnh chứng và tình trạng cách ly, họ phải sống trong nỗi dằn vặt của người không biết đến bao giờ mới được sum họp lại với những con người thân thương trong gia đình, với các sinh hoạt quen thuộc của xã hội mà họ đã được sinh ra và lớn lên. Ngay cả các cộng đoàn tôn giáo của địa phương cũng không hề dành cho họ bất cứ một sự dung nạp nào cả. Trái lại, theo sự qui định tôn giáo, mỗi khi họ di chuyển trên đường, để tránh cho người khác khỏi phải chạm mặt, họ phải vừa đi vừa la lớn: “Ô uế! Ô uế!...”. Thật chẳng còn gì khủng khiếp hơn! Trên một phương diện, hoàn cảnh quá khứ của chúng ta khi chưa tiếp nhận sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus, và chưa được tái sanh, cũng có điểm tương đồng. Chúng ta hoàn toàn ở trong sự mù tối thuộc linh, hoàn toàn bị cách ly với Đức Chúa Trời, và vì vậy phải luôn sống trong một tình trạng tranh chiến triền miên dưới nhiều hình thức chẳng những với đồng loại của mình mà cũng còn với ngay chính bản thân mình nữa. Kinh Thánh khẳng định tình trạng bi đát của chúng ta lúc chưa được tái sanh: “28Tại họ không lo nhìn biết Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời đã phó họ theo lòng hư xấu, đặng phạm những sự chẳng xứng đáng. 29Họ đầy dẫy mọi sự không công bình, độc ác, tham lam, hung dữ, chan chứa những điều ghen ghét, giết người, cãi lẫy, dối trá, giận dữ; 30hay mách, gièm chê, chẳng tin kính, xấc xược, kiêu ngạo, khoe khoang, khôn khéo về sự làm dữ, không vâng lời cha mẹ; 31dại dột, trái lời giao ước, không có tình nghĩa tự nhiên, không có lòng thương xót. 32Dầu họ biết mạng lịnh của Đức Chúa Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết, thế mà họ chẳng những tự làm thôi đâu, lại còn ưng thuận cho kẻ khác phạm các điều ấy nữa” (Rô. 1:28-32). Trên một phương diện, “Mười Người Phung” trong sự trước thuật này còn có mặt tích cực hơn những người dầu rất sáng láng về ngoại hình nhưng lại mù tối thuộc linh. “Mười Người Phung” trong câu chuyện này là những người “có lòng khó khăn”(Ma. 5:3), họ biết hoàn cảnh ngặt nghèo mà họ không thể tự cứu được mình: “Lạy Jêsus, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi cùng!” (C. 13). “Mười Người Phung” trong câu chuyện này biết rằng Luật Pháp cách ly họ nhưng Đức Chúa Jêsus lại là Đấng sẵn sàng tiếp cận họ để cho họ có thể tiếp nhận Ngài. Đức Chúa Jêsus tiếp nhận mọi người theo hiện trạng vốn có của họ, miễn là họ đến với Ngài bằng tấm lòng của người “có lòng khó khăn”; tức là sự nhận biết về tình trạng bất lực của bản thân, ăn năn, và kêu cầu Ngài. Được đến với Đức Chúa Jêsus để được Ngài thương xót quả thật là một điều đáng để tri ân. Nếu lòng chúng ta bị nguội lạnh về sự tri ân, hãy biết rằng chúng ta vốn đã được chuộc cho khỏi bị hư mất và đã được nhận làm con nuôi của Đức Chúa Trời : “4Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, 5để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài” (Gal. 4:4-5). II. ĐỂ BIẾT TRI ÂN Đức Chúa Jêsus đã đến thế gian để cứu vớt tội nhân. Con đường của Đức Chúa Jêsus là con đường hạ mình. Con đường của Ngài cũng là con đường vâng lời. Sự hạ mình và vâng phục của Đức Chúa Jêsus là mẫu mực cho Cơ Đốc Nhân noi theo: “5Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có. 6Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ, 7chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phil. 2:5-8). Bản chất của con người cũ không phải là con người hạ mình và vâng phục, con đường xưa là con đường mà sự tự cất mình lên “làm cho mình bằng Đấng Rất Cao” (Ês. 14:14) đã ảnh hưởng, và là “con cái bội nghịch, dòng dõi nói dối” (Ês. 57:4). Động cơ và năng lực hạ mình và vâng phục chỉ thực sự bắt đầu có trong một người “có lòng khó khăn” (Ma. 5:3) là người bắt đầu nhận thức được nhu cần thuộ c linh của mình. Người phung Samari không thể nào “trở lại, lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời” (C. 15), không thể nào “lại đến sấp mặt xuống đất, nơi chân Đức Chúa Jêsus, mà tạ ơn Ngài”(C. 16) nếu như người ấy chưa từng cất tiếng van xin Đức Chúa Jêsus rằng “Lạy Jêsus, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi cùng!” (C. 13), chưa tùng “thấy mình đã được sạch” (C. 15), chưa từng bắt đầu có “đức tin” (C. 19) đặt nơi Đức Chúa Jêsus. Để có thể biết tri ân, một sự tự nhận thức hợp Kinh Thánh cần phải được thực hiện: “9Hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:9-10). Không còn cách nào khác! Con đường dẫn đến sự tri ân luôn luôn là con đường hạ mình và vâng phục. Chưa ai thấy những người đang ở trong một tâm trạng “tự đắc”, “tự mãn” biết hạ mình! Chưa ai thấy những con người đang ở trong một tâm trạng “tự kỷ”, “tự cường” lại biết vâng phục bao giờ! Cho đến chừng nào mà người ta vẫn còn say sưa trong những điều họ có, họ vẫn còn chưa có lòng tri ân. Chỉ khi nào người ta biết nghĩ về sự thiếu thốn của mình họ mới biết vâng theo sự đòi hỏi của Ân Điển: “Khi Ngài thấy họ, liền phán rằng: Hãy đi, tỏ mình cùng Thầy Tế Lễ. Họ đương đi thì phung lành hết thảy” (C. 16). Điều đáng cho chúng ta lưu ý ở đây là Kinh Thánh chép rằng “họ đương đi thì phung lành hết thảy”. “Mười Người Phung” được lành giữa lúc họ vâng lời Đức Chúa Jêsus để đến tỏ mình cùng Thầy Tế Lễ; họ được lành khi họ chịu vâng phục Đức Chúa Jêsus. “Mười Người Phung” đã không được lành nhờ giấy chứng nhận sạch phung của Thầy Tế Lễ, nhưng họ đã được lành nhờ vâng lời Ngài mà đến với Thầy Tế Lễ. Thẩm quyền Hội Thánh không cứu được Cơ Đốc Nhân, nhưng Cơ Đốc Nhân tự chứng mình là Cơ Đốc Nhân bằng việc hạ mình vâng lời Đức Chúa Jêsus trong sự kết ước tận hiến của chính họ trong Hội Thánh. Được Đức Chúa Trời “xỏ tai” (Thi. 40:6, Sv. Xuất. 21:5-6) là có lòng vâng phục theo ý muốn của Ngài: “Chúa không thích đẹp hy sinh hoặc của lễ chay:_Chúa đã xỏ tai tôi._Chúa không có đòi của lễ thiêu hay là của lễ chuộc tội” (Thi. 40:6). Vâng lời Đức Chúa Trời là một việc quan trọng không những vì thái độ ấy dẫn đến lòng tri ân mà còn giúp biết tri ân đúng đối tượng. III. ĐẤNG PHẢI TRI ÂN Giấy chứng nhận sạch phung của Thầy Tế Lễ cấp cho người phung hết sức quan trọng trong xã hội Cựu Ước vì đó là tài liệu bắt buộc phải có để một người phung có thể tái hội nhập vào gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh thì Thầy Tế Lễ không phải là đối tượng chính để tri ân. Trong nhiều trường hợp, thái độ vô ơn đối với một người nào đó có thể biểu hiện ra tấm lòng vô ơn đối với Đức Chúa Trời; thế nhưng Đức Chúa Trời luôn luôn là đối tượng tri ân chung cuộc của Cơ Đốc Nhân: “15Có một người trong bọn họ thấy mình đã được sạch, bèn trở lại, lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời; 16lại đến sấp mặt xuống đất, nơi chân Đức Chúa Jêsus, mà tạ ơn Ngài. Vả, người đó là người Samari” (Lu. 17: 15-16). Cơ Đốc Nhân nếu thực sự là Cơ Đốc Nhân thì Đức Chúa Trời luôn luôn là Đấng tối cao để họ tri ân thể theo bản chất vốn có của Ngài: “…5Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét Ta, Ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba, bốn đời, 6và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta” (Xuất. 20:5b-6). “Ta là Đức Giêhôva: Ấy là Danh Ta. Ta chẳng nhường sự vinh hiển Ta cho một đấng nào khác, cũng không nhường sự tôn trọng Ta cho những tượng chạm” (Ês. 42:8). Thái độ tri ân đối với duy nhất Đức Chúa Trời chứng minh được đức tin của một người đặt nơi Ngài, và chính nhờ một đức tin như thế mà Cơ Đốc Nhân mới có thể đồng đi với Ngài trong linh trình trên đời tạm này: “Ngài lại phán rằng:Đứng dậy, đi; đức tin ngươi đã cứu ngươi” (Lu. 17:18b). Để có lòng tri ân đúng đối tượng là Đức Chúa Trời, Cơ Đốc Nhân phải kinh nghiệm được Ngài qua việc biết vâng lời Ngài. Cơ Đốc Nhân không thể sống hạ mình và vâng phục theo mẫu mực của Đức Chúa Jêsus nếu họ xao lãng phận sự bắt buộc là thái độ tri ân. Trên một phương diện, Cơ Đốc Nhân là một nhân chủng đặc biệt; họ có lòng tri ân đối với Đức Chúa Trời và sống cho sự vinh hiển của Ngài: “…Anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức Thầy Tế Lễ Nhà Vua, là Dân Thánh, là Dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9). “Hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được trở nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy Đạo Sự Sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phil. 2:15). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI VÂNG LỜI CHÚA” (Ma. 7:24-27) “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá.” (Ma. 7:24) Không phải tất cả những người tự nhận rằng mình thuộc về Đức Chúa Trời đều sẽ được Đức Chúa Trời nhìn nhận. Có một viễn cảnh rất ấn tượng mà chúng ta phải quan tâm: “22Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhân danh Chúa mà trừ quỉ sao? Và lại nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? 23Khi ấy, Ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, Ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi Ta” (Ma. 7:22-23). Ấy là vì không phải tất cả những người xưng rằng mình giảng Lời Đức Chúa Trời đều giảng dạy theo ý muốn của Ngài. Tương tự, không phải tất cả những người nghe giảng đều làm theo Lời Đức Chúa Trời. Đối với một số người, giữa việc nghe Lời Đức Chúa Trời với việc vâng theo Lời Ngài vẫn thường có một sự bất định, một khoảng cách: “24Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá. 25Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không sập, vì đã cất trên đá. 26Kẻ nào nghe lời Ta phán đây, mà không làm theo, khác nào như người dại cất nhà mình trên đất cát. 27Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều” (Ma. 7:24-27). Dầu vậy, với ẩn dụ về việc xây nhà trên đá hay trên cát mà Đức Chúa Jêsus giảng dạy trong phân đoạn Kinh Thánh này, bài học về phận sự phải vâng lời Đức Chúa Trời là một yêu cầu tất yếu. I. ĐỜI SỐNG MỖI NGƯỜI LÀ MỘT CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG Mỗi người đều tự xây cho mình một “ngôi nhà”, vì công việc của cả đời người sẽ gắn kết lại thành một chỗ ở cho họ: Ai biết tìm sự sống đời đời và sống bằng sự sống đời đời sẽ được vào ở Thiên Đàng, ai từ chối sự sống đời đời sẽ đời đời đắm chìm trong Hỏa Ngục: “Hỡi các ngươi được Cha Ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy Nước Thiên Đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất” (Ma. 25:34). “Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi Ta; đi vào lửa đời dời đã sắm sẵn cho Ma Quỉ và những quỉ sứ nó” (Ma. 25:41). Ngay cả giữa vòng những người đang có sự sống đời đời là Chúa Cứu Thế Jêsus Christ (Gi. 17:3) cũng vẫn còn có những người không biết chuyên tâm cho việc xây dựng ngôi nhà của mình. Bằng một sự thờ ơ, hờ hững, họ đang xây cho mình một công trình hết sức tạm bợ. Công trình mà những người đang theo Chúa một cách vô tâm, vô tứ xây dựng chỉ là những lều, trại rất mong manh “Khác nào như người dại cất nhà mình trên đất cát” (C. 26). Tuy nhiên, cũng có những người đang theo Chúa một cách đáng khen. Họ biết sống một đời sống có kỷ luật: Tách ly với thế gian (1Gi. 2:15-17), và tận hiến cho Đức Chúa Trời (Rô. 12:1-3). Tất cả những gì họ đang cố gắng trong đời sống này là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời. Những người như thế đang xây dựng cho mình một ngôi nhà bền vững, ngôi nhà “Đời đời tại trên trời”. Ngôi nhà họ đang xây là lâu đài hạnh phúc đích thực chẳng những cho đời này mà còn cho cõi đời đời nữa (2Cô 5:1-5). Mỗi người nhất định sẽ phải ở trong ngôi nhà mà mình đã xây. Không ai có thể thoát khỏi kết quả - hoặc hậu quả - công việc cả đời của mình được: “Bởi vì chúng ta thảy đều phải ứng hầu trước tòa án Đấng Christ, hầu cho mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hay điều ác mình đã làm lúc còn trong xác thịt” (2Cô. 5:10). Tùy theo cách người ta sống những ngày tháng trên thế gian này, ngôi nhà của mỗi người sẽ là nơi nương náu bền vững, hoặc sẽ chỉ là một đống đổ nát sẵn sàng đổ sập xuống đầu họ lúc nào không biết! (Sv. Lu. 12:20-21). II. NỀN MÓNG CÓ TÁC DỤNG QUYẾT ĐỊNH SỰ AN TOÀN CỦA CÔNG TRÌNH Hình tượng mà Đức Chúa Jêsus đem vào làm ẩn dụ ở đây rất có thể là những hình ảnh có thể trực quan được cho những người đang nghe Ngài giảng lúc bấy giờ. Xét bối cảnh của đoạn văn Kinh Thánh này, người ta có thể nghĩ rằng Đức Chúa Jêsus đang giảng ở Ghênêxarét hoặc một nơi nào gần đấy (Ma 14:34; Mác 6:53). Ghênêxarét khá nổi tiếng với đất đai màu mỡ, tên của xứ bằng Tiếng Hêbơrơ có nghĩa là “Vườn Tráng Lệ” (Ganne Sarim). Xứ này rất đẹp, uốn dài theo bờ biển chừng 5 km, nhưng rất hẹp: Từ mép nước cho đến chân núi chưa được 2 km nên có rất nhiều công trình phải được xây dựng trên sườn núi. Những ngôi nhà được xây dựng trên sườn núi cheo leo ở đây thường phải được đặt nền trên những chỗ có nền đá ổn định mới có thể chịu nổi dòng chảy xiết từ trên cao đổ xuống vào những ngày mưa lớn. Những khu vực có một nền đá ổn định vốn có tính ổn định được chứng tỏ qua rất nhiều năm. Dầu vậy, chen giữa những khu vực như thế còn có những vùng trông bằng phẳng, nhưng thấp hơn, và không có nền đá là những nơi nhiều con suối trong hệ thống núi đồi ở đây và các dòng chảy khi có mưa lớn có thể xâm phạm vào. Chọn một nền móng cho việc xây nhà là một việc quan trọng. Khi đề cập đến điều này, những người đang nghe Đức Chúa Jêsus giảng có thể hiểu được sự việc một cách nhanh chóng và sâu sắc vì trong kinh nghiệm sống cũng như theo quan cảnh chứng kiến được ở Ghênêxarét, ai cũng phải nhìn nhận rằng một ngôi nhà chỉ có thể an toàn nếu nó được lập nền móng trên một nơi vững chắc, ổn định mà thôi. Việc thiết kế sai cho nền móng của một ngôi nhà có thể dẫn đến việc làm hư ngôi nhà ấy. Dầu sao, một ngôi nhà bị hư hay bị sụp đổ cũng còn có cơ hội xây dựng lại được. Thế nhưng nếu đặt niềm tin sai chỗ - hoặc chỉ có một niềm tin mờ nhạt - không có tác dụng thực hành, người ta có thể bị mất cả linh hồn là điều không gì có thể đổi lại được. Sự an ninh cho một linh hồn phụ thuộc vào việc người ta đáp ứng như thế nào đối với Lời Chúa: “31Nếu các ngươi hằng ở trong Đạo Ta, thì thật là môn đồ Ta; 32các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Gi. 8:31-32). Phước hạnh và sự vâng lời Chúa luôn luôn đi cặp theo với nhau. Đức Chúa Trời chỉ có thể ban phước cho những người Ngài có thể ban phước là người biết tôn trọng và vâng theo Lời Ngài: “Nhưng kẻ nào xét kỹ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:25). III. NỀN MÓNG CỦA CÔNG TRÌNH PHẢI ĐƯỢC XÂY ĐÚNG CHỖ VÀ CHỊU ĐƯỢC THỬ THÁCH (C. 26, 27) Trong điều kiện bình thường, mọi ngôi nhà trông đều tốt như nhau. Đôi khi những ngôi nhà không xây trên nền đá lại có vẻ thuận tiện cho việc sinh sống và sự đi lại hơn! Vấn đề ở chỗ không phải khí hậu, thời tiết lúc nào cũng tốt. Hết nắng tất phải đến mưa, đó là qui luật muôn thuở của thiên nhiên. Khi có mưa dầm lâu ngày, hàng loạt biến đổi cơ học, hóa học, vật lý diễn ra làm thay đổi cấu trúc địa chất, làm biến động địa mạo hết sức mạnh mẽ, sâu rộng. Nước chảy xiết từ trên sườn núi xuống có thể khoét vào những lớp đất có cấu trúc không bền nằm giữa các tầng đá và cuốn trôi đi. Thêm vào đó còn có cả mưa dồi, gió dập tạo ra những ảnh hưởng lớn trên các công trình xây dựng nữa. Trong những thời kỳ thử thách như thế, công trình xây dựng nào có nền móng không bền vững tất phải bị “Hư hại rất nhiều”. Trước hết, “Vầng Đá” (C. 24), hay “Đá” (C. 25) chỉ về chính Đức Chúa Jêsus. “Đất cát” (C. 26) nói về nổ lực của con người. Theo Lu. 6:46-49 là một đoạn văn Kinh Thánh tương hiệp với đoạn văn chúng ta đang học: “Kẻ nào đến cùng Ta” (Lu. 6:47)… “Giống như một người kia cất nhà, đào đất cho sâu, xây nền trên Vầng Đá” (Lu. 6:48) chỉ về đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus. Chỉ có thể có kết quả tốt đẹp nếu người ta chịu đặt niềm tin mình nơi Chúa Cứu Thế Jêsus, tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình: “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Gi. 3:36). Thứ hai, nếu một công trình xây dựng phải chịu nổi thử thách thì đức tin của mỗi cá nhân cũng phải kinh qua thử thách. Đức Chúa Jêsus phán rằng “Nếu ai muốn theo Ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo Ta” (Lu. 9:23). Lời Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết rằng “Hết thảy mọi người muốn sống cách nhơn đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ” (2Ti. 3:12). Sự thử thách là một phần tất yếu trong cuộc sống của người theo Chúa. “Cất nhà mình trên Vầng Đá” là thực sự có đức tin nơi Đức Chúa Jêsus, đồng thời cũng có nghĩa là “Châm rễ và lập nền trong Ngài” (Côl. 2:7) để có thể chịu đựng được thử thách chứ không phải chỉ là hạng người “Nghe Đạo, liền vui mừng chịu lấy; song trong lòng không có rễ, chỉ tạm thời mà thôi, đến khi vì Đạo mà chịu sự cực khổ, sự bắt bớ, thì liến vấp phạm” (Ma. 13:20-21). “Không có rễ” cũng chính là “Cất nhà mình trên đất cát” (Ma. 7:26), “Bị sập, hư hại rất nhiều” (Ma. 7:27) cũng chính là “Vấp phạm” (Ma. 13:21). IV. NỀN BỀN VỮNG CỦA ĐỨC TIN CHÍNH LÀ SỰ VÂNG LỜI CHÚA (C. 24, 25) Điều đáng cho chúng ta để ý là “Người dại” trong ẩn dụ này không phải là người không có đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus. Trong các câu 24 và 26, dầu rằng “Nghe” (Gk. akouo) không mang nghĩa trọn vẹn như “nghe” trong Ma. 10:14 nhưng hàm ý “nghe, hiểu, và chấp nhận chứ không bác bỏ”. Hành động “Nghe” của “Người dại” được Đức Chúa Jêsus nêu lên ở đây cho thấy họ có sự ưng thuận với lẽ thật ở một chừng mực nhất định (Sv. Công. 2:22; Khải. 1:3; Gi. 5:24). Như vậy vấn đề chính là ở chỗ “Làm theo” (C. 24) hay “Không làm theo” (C. 26) những sự dạy dỗ đã được nghe. Ẩn dụ mà Đức Chúa Jêsus dạy có một bài học về sự thực hành đức tin. “Vầng Đá” (C. 24), hay “Đá” (C. 25) không những chỉ về Đức Chúa Jêsus mà còn làm hình bóng cho sự bền lòng thực hành những điều đã tin nhận. “Đất cát” (C. 26) không chỉ nói về nổ lực của con người mà còn làm hình bóng cho cảm xúc nhất thời của con người đối với chân lý Thiên Thượng nữa. Thực tế là luôn luôn có những người cũng tỏ ra cảm ứng rất thuận lợi trước các sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời nhưng họ không biết đem những gì đã được nghe ứng dụng vào đời sống thường ngày của mình. Điều Đức Chúa Trời trông đợi là chúng ta phải được giải thoát khỏi xiềng xích của Ma Quỉ, thế gian, và sức mạnh của tội lỗi nội tại trong bản thân bằng việc chúng ta nhờ sức Ngài để thực hành Lời Ngài (Gi. 8:32; 15:3). Đức Chúa Jêsus đã dùng ẩn dụ này để dạy dỗ chúng ta đừng nên dừng lại ở một sự xưng nhận bề ngoài về lòng trung thành của chúng ta đối với Ngài. Những kẻ giả danh cũng hoàn toàn có thể xưng nhận như thế được (Ma. 7:22-23). Tất cả sẽ vô dụng nếu thiếu sự vâng lời (Lu. 6:46). Đức tin phải có việc làm minh chứng cho đức tin (Gia. 2:17). Không phải tự thân việc Ápraham dâng con mình là Ysác lên bàn thờ khiến cho Ápraham được xưng công bình. Việc làm ấy minh chứng cho một đức tin trọn vẹn vốn có trong con người của Ápraham, và bởi đức tin ấy mà Ápraham được Đức Chúa Trời xưng công bình (Gia. 2:21-23). Chỉ những ai biết đứng trên vầng đá thực hành đức tin đã đặt nơi “Vầng Đá” Đức Chúa Jêsus Christ mới minh chứng được cho đức tin mà mình đã xưng nhận, và mới có thể kết quả một cách bền vững ở trong Ngài. Những người như thế được kể là “Người khôn ngoan” (Gk. phrominos # sophos: “hiểu biết đường lối thực hành”): “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá” (C. 24). Ngược lại, xúc cảm nhất thời không giúp sinh bông trái trên đời sống người theo Chúa được. Phải biết duy trì và biến đổi xúc cảm đối với Chúa thành nếp sống vâng lời Ngài luôn luôn thì mới có thể khỏi bị kể là hạng “Người dại” (Gk. moros: “không tin kính”). Mọi hành vi của người ta khi sống trên thế gian này sẽ hình thành cho họ một chổ ở: Hoặc vui sướng vinh hiển đời đời, hoặc “Chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời” (Đa. 12:2). Đó là một sự thật, và là một tất yếu khách quan đối với con người trên thế gian này tùy theo cách đáp ứng của họ đối với Cứu Chúa của thế gian là Đức Chúa Jêsus Christ. Ngay cả những người đã đặt niềm tin của nơi Đức Chúa Jêsus cũng cần phải thận trọng trong cách bước theo Chúa của mình. Việc xưng nhận niềm tin sẽ trở thành vô nghĩa và vô ích nếu người ta không hết lòng làm theo những gì Đức Chúa Trời phán với họ. Sự vâng lời Đức Chúa Trời của mỗi người nói lên được họ là hạng người nào theo cách nhìn nhận của Ngài. Quan trọng hơn thế, sự vâng lời Chúa quyết định hiện tại và tương lai đời đời của người theo Chúa. Xóa bỏ sự bất cập giữa “Nghe và làm theo” để luôn luôn vâng lời Đức Chúa Trời không phải là một sự chọn lựa tùy ý mà phải là một phận sự bắt buộc đối với mỗi người chúng ta. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI THÀNH TÂM VÀ TRUNG TÍN” (Giô. 24:14-15) “Vậy, bây giờ hãy kính sợ Đức Giêhôva, và phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín…” (Giô. 24:14) Sách Giôsuê mở đầu bằng những lời như thế này: “1Sau khi Môise, tôi tớ của Đức Giêhôva, qua đời, Đức Giêhôva phán cùng con trai của Nun, tôi tớ của Môise, mà rằng: 2Môise, tôi tớ Ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả dân sự này hãy đứng dậy đi qua sông Giôđanh, đặng vào xứ mà Ta ban cho dân Ysơraên… 10Bấy giờ Giôsuê truyền lịnh cho các quan trưởng của Dân Sự mà rằng: 11Hãy chạy khắp trại quân, truyền lịnh nầy cho Dân Sự rằng: Hãy sắm sẵn thực vật, vì trong ba ngày nữa các ngươi sẽ đi ngang qua sông Giôđanh nầy, đặng đánh lấy xứ mà Giêhôva Đức Chúa Trời các ngươi ban cho mình làm sản nghiệp” (Giô. 1:1-2, 10-11). Giôsuê đã thành tâm và trung tín trong chức nghiệp hầu việc mà Đức Chúa Trời ủy thác cho mình cho đến hơi thở cuối cùng. Lời của Giôsuê nói ra theo ý muốn của Đức Chúa Trời đã được Dân Sự nghe và làm theo, và họ đã chiếm được xứ mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Giữa vòng Hội Thánh ngày nay, lời của đầy tớ Đức Chúa Trời có còn được Dân Sự của Ngài lắng nghe, giữ lấy, và làm theo một cách thành tâm và trung tín hay không? NGHE LỜI PHẢI NGHE Những lời dặn dò cuối cùng của một người trước lúc lâm chung luôn luôn quan trọng. Trong một chừng mực nhất định, những lời cuối cùng là một cách tóm tắt hoài bão của cả một đời người bằng việc đề cập những điều bức xúc nhất. Chẳng hạn, Giôsép nói trong những lời cuối cùng của mình như sau: “24Em sẽ chết, nhung Đức Chúa Trời sẽ đến viếng anh em thật; đem các anh em về xứ mà Ngài đã thề hứa cùng Ápraham, Ysác, và Giacốp. 25Giôsép biểu các con trai của Ysơraên thề mà rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em; xin anh em hãy dời hài cốt tôi khỏi xứ nầy” (Sáng. 50:24-25). Chúng ta cũng có thể nhắc đến những lời cuối cùng của Môise tổng kết một chặng đường dài thoát khỏi xứ nô lệ.: “Ồ! Ysơraên, ngươi có phước dường bao!_Hỡi dân được Đức Giêhôva cứu rỗi, ai giống như ngươi?_Ngài là cái thuẫn giúp đỡ ngươi,_Thanh gươm khiến cho ngươi nên vinh hiển._Kẻ thù nghịch ngươi sẽ đến dua nịnh ngươi;_Còn ngươi, ngươi sẽ lấy chân giày đạp các nơi cao của chúng nó” (Phục. 33:29) Sứ Đồ Phaolô cũng có những lời cuối cùng cho Hội Thánh qua việc dặn dò người môn đồ của mình là Timôthê: “Nguyền xin Chúa ở cùng tâm thần con! Cầu xin Ân Điển ở cùng các anh em!” (2Ti. 4:22). Những lời cuối cùng của Giôsuê chứa đựng cả một sự thúc giục đầy nhức nhối cho mỗi ngươi chúng ta suy gẫm, hầu làm nền tảng để chúng ta xây dựng đời sống tin kính của mình. Theo thời điểm của đoạn văn Kinh Thánh này (Giô. 24: 14-15), đó chính là lúc Giôsuê sắp qua đời, là lúc Giôsuê muốn dặn dò Dân Sự Đức Chúa Trời về phận sự bao quát nhất của họ: “14Vậy, bây giờ hãy kính sợ Đức Giêhôva, và phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín; hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô, phải phục sự Đức Giêhôva. 15Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva, thì ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự, hoặc các thần mà tổ phụ các ngươi đã hầu việc bên kia sông, hoặc các thần dân Amôrít trong xứ mà các ngươi ở; nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giêhôva” (Giô. 24:15-15). Đoạn văn này là sự kêu gọi thiết tha đối với Dân Sự Đức Chúa Trời. Đây là một sự kêu gọi được đặt dưới dạng giao ước. Sứ điệp của Giôsuê là sứ điệp kêu gọi lòng trung thành kết ước của các Cơ Đốc Nhân trong đời sống theo Chúa của họ. Sứ điệp này vẫn còn nguyên giá trị cho mỗi Cơ Đốc Nhân trong Hội Thánh! TRẢ GIÁ PHẢI TRẢ Để sống thành tâm và trung tín cho Đức Chúa Trời, có một giá mà người tín hữu phải trả, Giôsuê tuyên bố rõ ràng : “Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva…” Từ liệu “chẳng thích” được sử dụng ở đây là một từ liệu Hêbơrơ (Hb. ra’ah’) có nghĩa khá rộng: “Dở”, “không thuận lợi”, hay “kém”, “xấu” hoặc ngay cả đến “tai họa” như Môise đã dùng khi nhấn mạnh với Dân Sự Đức Chúa Trời về con đường mà họ chọn để theo: “Hãy xem, ngày nay ta đặt trước mặt ngươi sự sống và phước lành, sự chết và tai họa (Hb. ra’ah)” (Phục. 30:15). Và, sự phước lành hay sự rủa sả là tùy ỏ sự chọn lựa cá nhân: “Ngày nay ta bắt trời và đất làm chứng cho các ngươi rằng ta đã đặt trước mặt các ngươi sự sống và sự chết, sự phước lành và sự rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống” (Phục. 30:19). Từ liệu này có nghĩa rộng vì nó không hàm ý trực tiếp về điều ác, điều xấu, hay sự tai họa mà thường thường có nghĩa là “không vui lòng’, “không thấy thú vị”, “miễn cưỡng”,… do các sự khó khăn thể chất hay tinh thần tạo ra. Giôsuê nhận thức được rằng Dân Sự Đức Chúa Trời đã phải trải qua vô vàn khó khăn, thử thách trên bước đường theo Ngài nên từ liệu được dùng ở đây là để nói về hậu quả bất lợi trên tâm lý, thần kinh của con người. Giôsuê lãnh đạo một tập thể phải lặn lội suốt 40 năm trong sa mạc và các miền cận sa mạc. Họ đã phải chịu đựng khí hậu khắc nghiệt. Họ đã trải qua những ngày, tháng đói cơm, khát nước. Họ đã phải đối diện từ nguy hiểm này đến nguy hiểm khác của quân thù. Họ đã phải vâng lệnh vượt sông giữa mùa nước tràn bờ. Họ đã phải chịu cắt bì giữa lúc quân thù đang kề cận một bên và vì vậy mà chỉ một đám binh tầm thường cũng đã thắng được họ. Họ đã thất bại ê chề tại thành Ahi vì tội lỗi giữa vòng Dân Sự. Họ cũng đã phải chứng kiến cái chết đau đớn của những người thân của mình khi họ không chịu vâng lời Đức Chúa Trời… Dầu rằng Dân Sự Đức Chúa Trời đã chiến đấu và chiến thắng nhưng những mất mác quá khứ và hiện tại vẫn thường xuyên gặm nhấm khiến họ mỏi mòn. Dầu họ có một mối tương giao thường trực và gần gũi với Đức Chúa Trời nhưng không phải nhờ đó mà họ được miễn trừ cái giá phải trả. Trái lại, giá phải trả của một Cơ Đốc Nhân thật là thật: “Hãy nhớ lời Ta đã nói cùng các ngươi. Đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Ta, ắt họ cũng bắt bớ các ngươi; bằng họ đã giữ lời Ta, ắt cũng giữ lời các ngươi” (Gi. 15:20). Cơ Đốc Nhân thật không ngại giá phải trả để vâng lời Cứu Chúa yêu dấu của mình, họ xả thân cho mối tương giao mật thiết mà Đấng Sáng Tạo và Tể Trị đã đẹp ý chiếu cố đối với họ là loài thọ tạo hữu hạn của Ngài. Cơ Đốc Nhân thật không xem các yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với họ là quá cao. Cơ Đốc Nhân thật sống xả thân nhờ sự giàu có vô lượng vô biên thể theo thuộc tính vốn có của Đức Chúa Trời chứ không lợi dụng sự giàu có, rời rộng của Đức Chúa Trời cho sự giàu sang ích kỷ và tạm bợ của mình trên thế gian này. Đức Chúa Trời không thể nào là chỗ lợi dụng của ai được cả! Người ta sống là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời chứ không phải Đức Chúa Trời hiện hữu là để chìu theo ý muốn của người ta! Cách duy nhất để người ta có thể hưởng lợi từ sự giàu có vô lượng, vô biên của Đức Chúa Trời là dấn thân cho Ngài: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Ma. 6:33). “… 24Nếu ai muốn theo Ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 25Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ Ta mà mất sự sống thì sẽ được lại. 26Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy thì ngươi lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?” (Ma. 16:24-26). Để có thể chấp nhận giá phải trả, Cơ Đốc Nhân cần phải có một tấm lòng trung thực. Tất cả vấn đề là ở tấm lòng (Châm. 4:23): Thích hay không thích! TRÁNH CÁM DỖ PHẢI TRÁNH Giôsuê đã vạch trần một sự thật: “Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva…” Nếu đã có điều “không thích” thì tất phải có điều “thích”. Một khi Giôsuê đã nêu lên vấn đề “chẳng thích” thì có nghĩa là không phải tất cả mọi Cơ Đốc Nhân đều thành tâm, trung tín phục sự Đức Chúa Trời của mình; mà cũng còn có những người, dầu vẫn được nhìn nhận là Cơ Đốc Nhân, thích những điều gì đó không phù hợp theo “ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2). Đó chính là những người không biết rằng giữa thế gian này, làm một Cơ Đốc Nhân là làm một “người dại”: “13Chúng tôi là kẻ ngu dại vì cớ Đấng Christ, nhưng anh em được khôn ngoan trong Đấng Christ; chúng tôi yếu đuối, anh em mạnh mẽ; anh em quí trọng, chúng tôi khinh hèn. 11Cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần mình, bị người ta vả trên mặt, lưu lạc rày đây mai đó. 12Chúng tôi dùng chính tay mình làm việc khó nhọc; khi bị rủa sả, chúng tôi chúc phước; khi bị bắt bớ, chúng tôi nhịn nhục, 13khi bị vu oan, chúng tôi khuyên dỗ; chúng tôi như rác rến của thế gian, cặn bã của loài người, cho đến ngày nay” (1Cô. 4:10-13). Thành thật mà nhìn nhận, phần lớn chúng ta đã đánh mất tầm nhìn này. Giữa vòng Cơ Đốc Nhân, có không ít người khát khao một cách điên cuồng sự vinh thân, phì gia. Về mặt danh nghĩa là người theo Chúa nhưng trên phương diện thực tế họ chạy theo các tiêu chuẩn thế gian. Giữa vòng Dân Sự Đức Chúa Trời ngày nay, nan đề không phải ở chỗ thiếu “người khôn” mà là có quá nhiều “người khôn”; họ không “khôn” theo Đức Chúa Trời mà “khôn” theo tiêu chuẩn thế gian. Tại sao? Đây là câu trả lời của Kinh Thánh: “Bởi vì sự rồ dại của Đức Chúa Trời là khôn sáng hơn người ta, và sự yếu đuối của Đức Chúa Trời là mạnh hơn người ta” (1Cô. 1:25). “15Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Trời chẳng ở trong người ấy. 16Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra. 17Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (1Gi. 2:15-17). Sự khôn ngoan theo ý riêng luôn luôn đem người ta ra khỏi ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống của họ, chính vì thế mà Giôsuê khẳng định: “14Vậy,… hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô... 15… hoặc các thần dân Amôrít trong xứ mà các ngươi ở…” (Giô. 24:15-15). Tôn giáo đích thực phải là một cuộc hạnh ngộ vô tận giữa cá nhân với chân thần duy nhất là Đức Chúa Trời, là cuộc tận hiến cá nhân để tận hưởng phước hạnh thiên thượng. Tôn giáo đích thực không phải chỉ là ý tưởng để theo đuổi, không phải chỉ là khái niệm để trầm tư, và nhất định không phải là trang sức để tô điểm hay công cụ để thu đoạt. “Hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô…” Đó chính là những đam mê ngày xưa khi còn ở trong đêm dài tội lỗi, khi chưa được cứu: “17Vậy, nầy là điều tôi nói và điều tôi nhân danh Chúa mà rao ra: Ấy là anh em chớ nên ăn ở như người ngoại đạo nữa, họ theo sự hư không của ý tưởng mình, 18bởi sự ngu muội ở trong họ, và vì lòng họ cứng cỏi nên trí khôn tối tăm, xa cách sự sống của Đức Chúa Trời. 19Họ đã mất cả sự cảm biết, đành bỏ mình trong một đời buông lung, đem lòng mê đắm không biết chán mà phạm hết mọi điều ô uế. 20Nhưng anh em học cho biết Đấng Christ thì chẳng phải như vậy, 21vì anh em đã nghe Đạo Ngài, và được dạy dỗ trong Ngài (y theo lẽ thật trong Đức Chúa Jêsus) 22rằng anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, 23mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, 24và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và thánh sạch của lẽ thật” (Êph. 4:17-24). Tôn giáo đích thực không bao giờ có thể là một thứ thời trang để gắn thêm vào người cho thêm rườm rà “hoa lá cành”. Tôn giáo đích thực phải có tác dụng của một cuộc lột xác trên đời sống cá nhân. Tôn giáo đích thực phải có tác dụng trả lại vẻ khôi ngô, tuấn tú vốn có của “Hoàng Tử Cóc” và trả lại vẻ mỹ miều thiên tiên của “Cô Tấm” trong chuyện đời xưa… “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17). Mặt khác, “trước cổng Thiên Đàng vẫn còn đường đi Địa Ngục”! Cám dỗ vẫn cứ còn đeo đuổi người đã được cứu để vô hiệu hóa đời sống theo Chúa của họ, làm cho đời sống của họ không có bông trái cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đó chính là “các thần dân Amôrít trong xứ mà các ngươi ở…”! Đây chính là lời cảnh báo của Giôsuê về những tội lỗi còn vấn vương trên đời sống các Cơ Đốc Nhân: “1Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta cũng nên quên hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta, 2nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin, tức là Đấng vì sự vui mùng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, và hiện nay ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời” (Hê. 12:1-3). Lời thách thức mà Giôsuê đặt ra trước Dân Sự của Đức Chúa Trời là lời kêu gọi về sự thành tâm và trung tín. Để được ở trong Đạo của Đức Chúa Trời, thành tâm và trung tín là những yếu tố không thể nào thiếu được. Cơ Đốc Nhân phải luôn luôn tỉnh thức trên từng bước đi của mình; biết rõ điều gì cần phải nghe và chấp nhận giá phải trả, điều gì cần phải nghe và làm theo, điều gì cần phải nghe và tránh không phạm vào. Cơ Đốc Nhân phải phấn đấu hết lòng để giữ vững lòng trung thành sắc son đối với Đấng yêu thương và cứu chuộc mình, hoàn thành sự kêu gọi vinh quang từ Thiên Thượng: “Vậy, bây giờ hãy kính sợ Đức Giêhôva, và phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín…” (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI TẬN HIẾN ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN” (Rô. 12:1-2) “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Ðức Chúa Trời là thể nào.” (1Phi. 4:10) Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh kêu gọi chúng ta phải có đời sống tách ly và tận hiến. Chúng ta phải tách ly ra khỏi sự bất khiết của thế gian, nhưng chỉ có thế thì chưa đủ. Nếu chỉ có tách ly khỏi thế gian không thôi, chúng ta dễ bị rơi vào một trạng thái trống không có thể khiến cho đời sống cá nhân chúng ta có những thái độ và hành động bất khiết thuộc linh như kiêu ngạo, phản kháng, vạch lá tìm sâu... Để đời sống tin kính của mỗi cá nhân không có “tư tưởng cao quá lẽ” mà là có một “tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã phú cho từng người”, cùng với việc tự phân rẽ mình ra khỏi sự bất khiết của thế gian, nhất thiết chúng ta cũng phải có sự tận hiến mình cho Đức Chúa Trời (Rô. 6:11-13; 12:1-3). Sự tận hiến đời sống cá nhân cho Đức Chúa Trời nói về việc chúng ta dâng mình cho Đức Chúa Jêsus và dâng cuộc sống của chúng ta cho Ngài (2Cô. 5:15). Chính từ việc dâng đời sống cá nhân cho Chúa mà Ngài mới có thể được biểu hiện qua đời sống của chúng ta (Gal. 2:20). Vốn đã tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa, chúng ta có bổn phận của người tín hữu là tận hiến hoàn toàn cho Chúa và công việc của Chúa trong thế gian này (Rô. 12:1; Sv. Ês 6:8). Chúng ta làm sự ấy bằng quyết định của tấm lòng và bằng sự cầu nguyện. Sứ Đồ Phaolô cho thấy việc tận hiến này có các phương diện sau đây: I. TẬN HIẾN LÀ GÌ? (Câu 1) Người tin theo Chúa không còn là “chủ nhân” của chính mình nữa (Rô. 14:8). 1. Bản Chất Của Việc Tận Hiến Việc tận hiến có bản chất của sự dâng hiến. Tận hiến là hành động đầu phục Đức Chúa Trời một cách đầy đủ và thỏa đáng để được chuyển hóa cho giống Đức Chúa Jêsus, và để được sử dụng vào công việc và ý chỉ của Ngài. Tận hiến là chúng ta dâng cho Đức Chúa Trời toàn bộ con người của chúng ta: Dâng đời sống của chúng ta, tài sản của chúng ta, thân thể của chúng ta cho Đức Chúa Trời để trở nên điều Ngài muốn, để làm những gì Ngài muốn chúng ta làm, và để đi bất cứ nơi nào Ngài muốn chúng ta đi. Chúng ta thực hiện việc dâng hiến này bằng [1] sự quyết định của tấm lòng và [2] biến quyết định này thành hành động qua sự cầu nguyện (Ês. 6:8), và sự vâng lời (Lu. 6: 46). 2. Tính Chất Của Việc Tận Hiến Việc tận hiến đời sống cá nhân giống với việc dâng cho Đức Chúa Trời một của lễ. Đó chính là hành vi dâng cho Ngài một điều gì đó quí giá mà chúng ta có (2Sa. 24:24). Tận hiến đời sống cá nhân là kết ước dâng cho Chúa chính tự thân chúng ta, là dâng cho Chúa một sự sở hữu cá nhân quí giá nhất của chúng ta. Sứ Đồ Phaolô kể sự dâng hiến này như thể là: a. Một Của Lễ Sống Tại lúc được cứu rỗi, chúng ta đã chết đối với các ác bá thuộc linh ngày xưa và đã được làm nên sống động cho Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jêsus là Chủ Nhân mới của chúng ta (Gal. 2:20 > Rô. 6:11). Chúng ta phải nhìn nhận lẽ thật thuộc linh này và càng trở nên thuận phục Đức Chúa Trời nhiều lần hơn là ngày trước đi theo tội lỗi, thế gian, và Satan. b. Một Của Lễ Thánh Bằng sự kết ước tận hiến đời sống cá nhân, chúng ta tự phân rẽ ra khỏi tội lỗi để dâng mình cho Đức Chúa Trời và thể hiện mục đích sống của chúng ta là làm đồ dùng công nghĩa của Đức Chúa Trời chứ chẳng còn là công cụ của sự tà ác nữa (Rô. 6: 12-13 > 2Ti. 2: 21). c. Một Của Lễ Đẹp Lòng Đức Chúa Trời Sự kết ước tận hiến đời sống cá nhân làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (Sv. Êph. 5:10 > 2Cô. 5: 9). Sự kết ước ấy cho phép Ngài tiếp sức, dẫn dắt, và sử dụng chúng ta làm theo ý muốn của Ngài và qua đó làm sáng danh Ngài (Êph. 2: 10). 3. Lý Do Của Việc Tận Hiến Việc tận hiến đời sống cá nhân để hầu việc Đức Chúa Trời là một điều phải lẽ. Sự việc rằng hầu việc Chúa là phải lẽ có ít nhất ba nguyên nhân: Thứ nhất, Đó là một nghĩa vụ hợp lý. Chúng ta phải theo sát sự dạy bảo và dẫn dắt của Chúa như đã được ban cho qua Kinh Thánh chứ không phải chỉ chờ sự mách bảo của Ngài và nhờ sự phỏng đoán của chúng ta (Êph. 5:10 > Êph. 5:17). Thứ hai, Đó là một nghĩa vụ bắt buộc. Việc tự dâng mình chúng ta cho Đức Chúa Trời là điều phải lẽ vì Đức Chúa Jêsus đã ban chính mình Ngài cho chúng ta (Ma. 20:28 > 2Cô. 5:15). Thứ ba, Đó là một nghĩa vụ khôn ngoan. Việc dâng mình làm đồ dùng cho sự công bình của Đức Chúa Trời vì sự vinh hiển của Ngài, và để làm ích cho bản thân cũng như cho tha nhân, hiển nhiên là khôn ngoan hơn là làm công cụ cho sự không công bình, bất xứng đối với Đức Chúa Trời, có hại cho chính mình và cho cả người khác (Rô. 6:1 > 2Ti. 2:21). 4. Mục Đích Của Sự Tận Hiến Việc tận hiến đời sống cá nhân là nhằm mục đích hầu việc Đức Chúa Trời. Người ta không thể hầu việc Đức Chúa Trời mà không có sự kết ước tận hiến cả đời sống mình. Sự thật bi đát là nếu thiếu một sự kết ước như vậy, người ta sẽ cứ tiếp tục ở trong vòng ảnh hưởng và sự phục vụ cho các ác bá thuộc linh cũ của mình mà thôi (Sv. Êph. 4:22-24). 5. Động Cơ Của Việc Tận Hiến Sứ Đồ Phao-lô đã thiết tha kêu gọi các độc giả của mình thực hiện việc “dâng thân thể” của mỗi cá nhân “làm của lễ sống và thánh”. Đây là điều bức thiết vì [1] luôn có sự đe dọa của các kẻ thù thuộc linh (1Phi. 5:8), vì [2] tầm quan trọng của công việc Chúa (Êph. 5:27), và vì [3] trách nhiệm làm con dân của Đức Chúa Trời (2Cô. 5:10). Sứ Đồ Phaolô còn viện dẫn đến Ân Điển Thiên Thượng, nhờ đó Đức Chúa Trời đã tha cho chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi. Chính vì thế nên chúng ta mắc nợ Đức Chúa Trời mọi sự (2Cô. 5:14-15). II. LÀM GÌ ĐỂ TẬN HIẾN? (Câu 2) Khi chúng ta tận hiến đời sống cá nhân mình cho Chúa, chúng ta bày tỏ sự sẵn lòng tuân thủ theo sự dạy dỗ và đòi hỏi của Ngài (Ma. 11:29b). Hãy để ý hai sự đòi hỏi sau đây: 1. Phải Chấm Dứt Làm Theo Đời Này (Câu 2a) Sự kết ước của chúng ta với Đức Chúa Trời đòi hỏi rằng chúng ta phải chấm dứt làm theo nếp sống tà ác của đời này cùng mọi loại suy nghĩ và thái độ không tin kính. Làm theo đời này là mặc lấy một nếp sống không phù hợp với những gì dân Chúa phải có (Êph. 2:10 >1Phi. 2:9), và không bày tỏ sự giống Chúa, tức là sự sống đời đời (Êph 5:8, 17 > Côl. 3:10). 2. Phải Luôn Luôn Làm Theo Ý Muốn Của Đức Chúa Trời (Câu 2b) “Biến hóa” nói về sự thể hiện ra bên ngoài một thực tại vốn có ở bên trong. Có Chúa Jêsus trong đời sống, chúng ta phải để cho Ngài thể hiện chính Ngài qua thái độ, tính cách và hành vi của chúng ta (Gal. 4:19 > 2:20). Chúng ta làm điều này bằng việc dâng mình cho Ngài mỗi ngày và bằng việc thực hành nếp sống đạo theo Kinh Thánh hầu bày tỏ được Ngài (Rô. 13:12-14 > Êph. 5:17-20 > Côl. 3:1-4 > Ma 5:48). Điều này đòi hỏi chúng ta phải học biết ý Chúa và làm theo một cách hết lòng trong quyền năng của Đức Thánh Linh hầu làm sáng danh Chúa. Đời sống và sự hầu việc Cơ Đốc đòi hỏi phải có sự kết ước của chúng ta với Đức Chúa Trời và ý muốn của Ngài, chẳng phải chỉ khởi sự rồi thôi mà phải duy trì mỗi ngày. Chúng ta cũng phải đầu phục Ngài trở lại mỗi khi chúng ta có sự mắc mướu với sự cám dỗ của các kẻ thù thuộc linh (Gia. 4:7-10). Chỉ duy nhất Chúa Jêsus là có toàn quyền điều khiển chúng ta mà thôi. Đấng đang nâng đỡ muôn vật và tể trị toàn vũ trụ này có thể gánh vác đời sống của chúng ta tốt hơn là tự chúng ta làm lấy. Sự kết ước hàng ngày của chúng ta với Đức Chúa Trời cho phép Đức Chúa Trời ban phước cho chúng ta và sử dụng chúng ta làm nguồn phước cho tha nhân. Xao lãng sự kết ước này sẽ làm cho chúng ta có thể bị tổn hại bởi tay các kẻ thù thuộc linh của chúng ta. III. TÁC DỤNG CỦA VIỆC TẬN HIẾN TRÊN ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN (Câu 3) Đời sống tận hiến đem lại cho người tín hữu một bản sắc và bản lĩnh mới. 1 Việc Tận Hiến Giúp Giải Thoát Khỏi Chủ Nghĩa Duy Ngã Tin Lành có tác dụng giải thoát chúng ta ra khỏi chủ nghĩa duy ngã; chúng ta sẽ dần dần không còn dám tự xem là đáng phải được ca ngợi mà chỉ còn biết quan tâm đến việc nhận biết và làm theo ý muốn của Ðức Chúa Trời trên đời sống mình (Gal. 2:20). Đó chính là một “Tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Ðức Chúa Trời đã phú cho từng người”. 2. Việc Tận Hiến Giúp Nhận Thực Được Tự Ngã Bằng việc chú tâm hoàn toàn vào ý chỉ khôn ngoan của Đức Chúa Trời (Câu 2b): “Thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng, và trọn vẹn của Đức Chúa Trời”), một sự tự thức khiêm tốn và tự nhiên (không gượng ép) được hình thành trên đời sống chúng ta. Trên bước đường tăng trưởng đức tin, nhờ ơn Thiên Thượng, mỗi ngày chúng ta sẽ càng thực lòng nhận biết được nhiều hơn những khiếm khuyết của bản thân, chúng ta sẽ giảm dần việc tự đánh giá quá cao về mình, và rồi sẽ thôi không còn có “Tư tưởng cao quá lẽ” nữa. 3. Việc Tận Hiến Giúp Tiếp Nạp Quyền Năng Thiên Thượng Việc tận hiến đời sống cá nhân sẽ đem lại quyền năng cho chúng ta. Tính cá nhân của chúng ta sẽ không còn bị chủ nghĩa tự ngã độc tôn cầm tù khi tấm lòng của chúng ta biết chọn đi theo con đường hạ mình mà Ðức Chúa Jêsus đã nêu gương (Phil. 2:5-8). Ngược lại, các phẩm chất cá nhân cao đẹp của mỗi người (Gal. 5:22-23) sẽ được phát triển theo một chiều kích mới. Tương phản với tinh thần tự tôn, tự đại mà người đời hết sức khát khao và đề cao; tính hạ mình Cơ Ðốc giúp cho Cơ Ðốc Nhân thoát khỏi vô số ràng buộc của thế gian, giũ bỏ được các lề thói cũ, và tiếp nạp cho họ một nhân cách Cơ Đốc với nếp nghĩ, cách làm được định hình, định hướng nhờ Lời Đức Chúa Trời và quyền năng Đức Thánh Linh (2Cô. 5:17). Một khi đời sống cá nhân được tận hiến cho Đức Chúa Trời, Ngài sẽ bởi Đức Thánh Linh mà ban quyền năng Thiên Thượng để trang bị cho họ sống làm đẹp ý Ngài như chính Đức Chúa Jêsus đã làm (Gi. 5:19). Không ồn ào, dữ dội như người thế gian; các Cơ Ðốc Nhân lặng lẽ nhưng mạnh mẽ phi thường trong từng bước đi khiêm hạ của mình trên con đường tận hiến đời sống cá nhân. Nhờ biết xem thân thể mình như đã được dâng lên cho Ðức Chúa Trời trên bàn thờ Ngài, người tín hữu Cơ Ðốc thoát ly được những ràng buộc của các lề thói thế gian để không ngừng được tăng trưởng theo mẫu mực của Đức Chúa Jêsus. Nhờ biết dâng chính “Thân thể mình làm của lễ sống và thánh”, tư duy, ý chí và tình cảm của người tín hữu được ở trong một mối thông công thường xuyên với Ðức Thánh Linh nên không hề thiếu quyền năng để sống đời sống đức tin thực hành. Một đời sống Cơ Ðốc bình dị, thanh tao, đẹp ý Ðức Chúa Trời chỉ có thể đến với người dám vâng lời để “Thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Ðức Chúa Trời là thể nào”. Đời sống của Cơ Đốc Nhân chẳng những là một đồi sống tách ly khỏi sự bất khiết của thế gian mà còn phải là một đời sống tận hiến cho Đức Chúa Trời nữa. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“PHẢI CÓ MỘT ĐỜI SỐNG KẾT ƯỚC” (1Phi. 4:10) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) Tháng Ba năm 1981, Tổng thống Hoa Kỳ là Ronald Reagan đã bị Hinclev, Jr. bắn bị thương phải nằm bệnh viện mất mấy tuần. Mặc dầu Tổng Thống Reagan là chuyên gia hàng đầu của cả nước, là Nguyên Thủ Quốc Gia, nhưng việc ông gác công việc lại để nằm điều trị ở bệnh viện chỉ ảnh hưởng rất ít đến toàn bộ công việc của Chính Phủ mà thôi. Tổng Thống vắng mặt, không làm việc được, nhưng Chính Phủ vẫn hoạt động được. Thế nhưng, hãy thử tưởng tượng tất cả những người quét rác của nước Hoa Kỳ đồng loạt đình công một thời gian cũng bằng thời gian Tổng Thống nằm bệnh viện: Việc gì sẽ xảy ra? Chắc chắn cả nước sẽ tràn ngập rác, và sẽ có người chết vì rác! Vậy có ai là người không cần thiết hay không? Đức Chúa Trời không muốn chúng ta làm những thành viên thụ động trong Hội Thánh. Ngài không muốn chúng ta là những con người nhàn cư, vô sự. Đức Chúa Trời đã định rằng mỗi thành viên của Hội Thánh đều là một thành viên hoạt động, tích cực. Ngài trao ban cho mỗi người chúng ta một chức năng trong Hội Thánh của Ngài, không miễn trừ bất cứ một ai. Chức phận đầy tớ thuộc về mọi thành viên trong Hội Thánh, mọi cá nhân trong Hội Thánh đều có một vị trí đặc biệt trong chương trình của Đức Chúa Trời, đều hữu dụng đối với kế hoạch của Ngài trong Hội Thánh: “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (1Phi. 4:10). I. KẾT ƯỚC PHẢI LÀ MỘT NHU CẦN “Tôi không có ơn như…”, đó là câu nói chúng ta thường nghe ở các tín hữu khi họ tự đem mình so sánh với người khác trong Hội Thánh. Điều ấy có thể đúng. Thế nhưng chỉ cần đổi khác một chữ thôi, câu nói sẽ thành ra sai hoàn toàn đối với sự dạy dỗ của Kinh Thánh: Đừng bao giờ nói “Tôi không có ơn gì…”. Khi một người thực lòng tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình, người ấy được Đức Thánh Linh ngự vào đời sống của họ; và vì có Đức Thánh Linh ở cùng, họ có được ít nhất một ân tứ thuộc linh nào đó để làm ích cho chính bản thân họ cũng như cho toàn Hội Thánh. Đây là lời Kinh Thánh phán: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi người cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7). Thật ra, vấn đề ở chỗ không phải người ta thiếu ơn mà là thiếu sự kết ước: Kết ước với Đức Chúa Trời và kết ước với tha nhân, trong đó có Hội Thánh của Ngài. Trên thực tế, có nhiều người tự nhận rằng mình đã được cứu, đã thuộc về Đức Chúa Trời nhưng họ vẫn còn thuộc về cái tôi của họ. Tín hữu thật phải là người chấp nhận gian truân để kết ước sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống mình, dốc lòng làm đẹp ý Ngài trong mọi sự, tin quyết rằng ý chỉ tốt đẹp của Đức Chúa Trời trên đời sống mình nhất định sẽ được hoàn thành. Sự kết ước không những là một đòi hỏi của Đức Chúa Trời mà còn là một nhu cần bức thiết của mỗi tín hữu, vì đó là dấu hiệu cơ bản của đời sống Cơ Đốc Nhân. Nếu hơn hai ngàn năm trước, sự kết ước của Cơ Đốc Nhân đã cần; ngày nay sự kết ước của Cơ Đốc Nhân chúng ta càng cần hơn thế. Trong suốt cả thư tín này (1Phi.), Sứ Đồ Phierơ vừa đặt nền tảng vừa nhấn mạnh nhu cần kết ước của đời sống Cơ Đốc Nhân theo dòng thời gian: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, là Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài lấy lòng thương xót cả thể khiến chúng ta lại sanh, đặng chúng ta nhờ sự Đức Chúa Jêsus sống lại từ trong kẻ chết mà có sự trông cậy sống… để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt” (1Phi. 1:3, 5); “Anh em vui mừng về điều đó, dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã ít lâu” (1Phi. 1:6); “Chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình, bèn là bởi huyết báu Đấng Christ, dường như huyết của Chiên Con không lỗi không vít, đã định sẵn trước buổi sáng thế, và hiện ra trong cuối các thời kỳ vì cớ anh em” (1Phi. 1:18-20). Đó là những sự dạy dỗ, khích lệ mang tính chất mạt thế luận (dạy về thời kỳ cuối cùng). Mạt thế luận sẽ vô nghĩa khi Cơ Đốc Nhân chỉ biết trông đợi suông, chỉ “hô khẩu hiệu” chứ không kết ước, không hành động: “Vậy, anh em hãy bền chí như thể thắt lưng, hãy tiết độ, lấy sự trông cậy trọn vẹn đợi chờ ơn sẽ ban cho mình trong khi Đức Chúa Jêsus hiện ra” (1Phi. 1:13); “Hỡi kẻ rất yêu dấu, anh em như người ở trọ, kẻ đi đường, tôi khuyên phải kiêng những điều xác thịt ưa thích, là điều chống trả với linh hồn. Phải ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, hầu cho họ, là kẻ vẫn gièm chê anh em như người gian ác, đã thấy việc lành anh em, thì đến ngày Chúa thăm viếng, họ ngợi khen Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:11-12); “Nhưng họ sẽ khai trình với Đấng đã sẵn sàng xét đoán kẻ sống và kẻ chết”. (1Phi. 4:5) Tất cả các sự dạy dỗ mà Sứ Đồ Phierơ đưa ra trong thư này đều nằm trong mối quan hệ với thời kỳ cuối cùng và nhằm kêu gọi phải có hành động thực tế. Đó là một thực tại khách quan. Bất luận muốn hay không, ngày phán xét sẽ đến và đã gần đến rồi, mọi người sẽ phải khai trình mọi việc với Đức Chúa Trời là Đấng Tối Cao. Để sẵn sàng và được ơn trong sự khai trình tương lai, Cơ Đốc Nhân phải có đời sống kết ước mật thiết với Đức Chúa Trời: “7Sự cuối cùng của muôn vật đã gần, vậy hãy khôn ngoan tỉnh thức mà cầu nguyện” (1Phi. 4:7). Trong thế giới ngày nay, có nhiều chủ nghĩa, nhiều học thuyết hô hào xây dựng các mối quan hệ xã hội tốt đẹp. Quan hệ xã hội giữa con người với nhau sẽ không thể thực sự tốt đẹp trong một bản chất tội lỗi, đã bị sa bại, hư hoại. Chỉ khi nào con người được tái sinh nhờ sự tha tội bởi sự ăn năn, sống trong sự nương cậy nơi Đấng Sáng Tạo và yêu thương mình, nhiên hậu, người ta mới có thể có sự kết ước tốt đẹp với tha nhân trong đó có anh em, chị em chung cùng một đức tin trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời: “8Nhứt là trong vòng anh em phải có lòng yêu thương sốt sắng; vì sự yêu thương che đậy vô số tội lỗi. 9Người nầy người khác phải tiếp đãi nhau, chớ có cằn rằn” (1Phi. 4: 8-9). Về cơ bản, tình yêu thương của Cơ Đốc Nhân là tình yêu thương hỗ tương giữa những người đã được cứu, có chung một mái nhà thuộc linh là Hội Thánh - bất chấp quá khứ, địa vị,… của mỗi người: “22Anh em đã vâng theo lẽ thật làm sạch lòng mình, đặng có lòng yêu thương anh em cách thật thà, nên hãy yêu nhau sốt sắng hết lòng; 23Anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời” (1Phi. 1:22-23). Biểu hiện cơ bản và tập trung của tinh thần kết ước Cơ Đốc giữa các Cơ Đốc Nhân với nhau là tấm lòng rộng rãi. Các Cơ Đốc Nhân có sự kết ước chân thực luôn biết vui vẻ chia sẻ cơm ăn, áo mặc cùng mọi sự dạy dỗ thuộc linh để giúp làm sống động, tươi mới anh em, chị em mình trong Hội Thánh. Sự “yêu thương sốt sắng hết lòng” ở Cơ Đốc Nhân không cho phép họ viện cớ để từ chối nhau. II. ĐỂ CÓ MỘT SỰ KẾT ƯỚC ĐẸP Ý CHÚA Làm thế nào mà người ta có thể sẵn sàng phục vụ, không tránh né, không từ chối được? Có nhiều yếu tố, nhưng không thể thiếu các yếu tố sau đây: Thứ nhất, biết rằng mình đã được Đức Chúa Trời ban ơn (1Cô. 12:7). Trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, ai là người được Ngài ban ơn (thuộc thể và thuộc linh)? “Tất cả mọi người”, không thiếu một ai; Thứ hai, biết rằng nhiệm vụ đối với những gì mình hiện có là nhiệm vụ quản lý (1Phi. 4:10). Trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, ai là người phải lấy trong những gì mình có (thuộc thể và thuộc linh) để chia sẽ với người khác? “Tất cả mọi người”, không miễn trừ một ai. Thứ ba, mục đích cao nhất của các ân tứ và thân năng được Đức Chúa Trời ban cho là để sử dụng cho việc gây dựng Hội Thánh, tôn vinh hiển về Đức Chúa Trời Ba Ngôi. “Tất cả mọi người” đều có thể làm được như thế: “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:11). Cái gì làm cho con diều bay được? Cái khung của con diều có thể nói “Nhờ tôi”. Đuôi của con diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Giấy bồi thành con diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Sợi dây giữ cho con diều bay cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Gió cũng có thể nói “Nhờ tôi”. Đứa bé cầm sợi dây thả diều cũng có thể nói “Nhờ tôi”… Thật ra, con diều bay được là nhờ tất cả những điều ấy hợp lại với nhau, mỗi điều ấy giữ một vai trò nhất định của mình. Nếu khung diều hỏng, đuôi diều mắc vào cành cây, giấy bồi diều rách, dây thả diều dứt, hay gió ngừng thổi,… nhất định con diều sẽ không còn bay được nữa. Muốn cho công việc Chúa trong Hội Thánh được thành công, từng người chúng ta phải hoàn thành xuất sắc phần công việc của mình. Chúng ta có thể làm chứng, chăm sóc, giảng, dạy,… và vô số việc khác để giúp cho Hội Thánh thành công và phát triển miễn là chúng ta biết hiệp tác với nhau trong tinh thần đồng đội, trong đó Đội Trưởng chính là Đức Chúa Trời: “Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta…” (Rô. 12:6); “Vả, chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời; anh em là ruộng của Đức Chúa Trời cày, nhà của Đức Chúa Trời xây” (1Cô. 3:9). Khi đến dự một buổi nhóm thờ phượng, phần đông đều trông mong đến giờ giảng luận để nghe diễn giả trình bày về tình yêu thương và ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong các ân tứ thuộc linh, ơn giảng luận vẫn thường được trân trọng một cách đặc biệt và vẫn được xem là ân tứ “Số Một”. Thật ra, mỗi người ngay khi bước đến với một buổi nhóm, trước giờ giảng luận của diễn giả khá lâu, đều đã có thể giảng về tình yêu thương và ý muốn của Đức Chúa Trời đối với Hội Thánh của Ngài! Trước khi diễn giả bước lên tòa giảng, mỗi người trong quí vị đều phải giảng, có thể giảng, và đã giảng: Quí vị giảng một sứ điệp bằng lời chào mừng nhau một cách vui vẻ thật thà ngay tại nhà gửi xe! Quí vị giảng một sứ điệp khi vui vẻ đưa tay đón người đến sau ngồi vào chỗ gần với mình chứ không phải chỉ đưa mắt nhìn họ như ngầm bảo “Hãy lại đằng kia mà ngồi đi!” Quí vị giảng một sứ điệp khi hát thánh ca tôn vinh Chúa một cách vui mừng và thiết tha! Quí vị giảng một sứ điệp khi quí vị tỏ ra chăm chú lắng nghe một cách trân trọng những lời làm chứng về ơn phước của Đức Chúa Trời trên đời sống của anh, chị, em mình trong Hội Thánh! Quí vị giảng một sứ điệp khi quí vị nồng nhiệt chào đón khách đến thăm Hội Thánh! Quí vị giảng một sứ điệp khi đi nhóm quí vị có mang theo Kinh Thánh, và quí vị chăm chú tra xem Kinh Thánh khi nghe giảng! Quí vị còn có thể giảng nhiều điều khác đến nỗi không sao kể hết được. Đó chính là những biểu hiện thực hành của những đời sống biết kết ước trong Hội Thánh! Phẩm chất Cơ Đốc một khi được bày tỏ ra một cách thực hành sẽ tác động mạnh mẽ hơn bất cứ điều gì được nói bằng môi miệng. Đối với những ai biết vâng lời Đức Chúa Trời, nhiệt tình sử dụng các ân tứ thuộc linh đã được ban cho, họ không cần phải lo sợ thất bại; vì đây là lời hứa dành cho họ: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phil. 4:13). Tất cả chúng ta đều có ít nhất một sự ban cho nào đó của Đức Chúa Trời để sử dụng vào việc gây dựng Hội Thánh của Ngài. Chúng ta phải có đời sống kết ước với Đức Chúa Trời và với Dân Sự của Ngài. Cơ Đốc Nhân phải là người chấp nhận gian truân để kết ước sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống mình, dốc lòng làm đẹp ý Ngài trong mọi sự, tin quyết rằng ý chỉ tốt đẹp của Đức Chúa Trời trên đời sống mình nhất định sẽ được hoàn thành. Nếu quí vị cảm thấy những gì đang có trong tay mình sao mà yếu ớt quá; hãy nói chuyện với Samsôn để biết bí quyết nào khiến yếu biến thành mạnh. Nếu quí vị cảm thấy điều mình có trong tay ít quá, không làm sao chia sẻ được; hãy đi hỏi thăm người đàn bà góa đã dâng hai đồng tiền ăn một phần tư xu để được biết phải làm thế nào. Nếu quí vị thấy sao khó buông bỏ những gì hiện có trong tay quá; hãy nói chuyện với Anne để biết nhờ đâu mà bà dám dâng cho Đức Chúa Trời đứa con cầu duy nhất của mình. Nếu người ta chê cười về những gì quí vị hiện có trong tay là tầm thường; hãy nói chuyện với Đavít để nhớ lại bài học về cái trành ném đá đã giết tên khổng lồ Gôliát. Nếu quí vị thấy những gì có trong tay làm cho mình đau quá; hãy thưa với Đức Chúa Jêsus để được xem dấu đinh trên tay của Ngài và được Ngài dùng sự đau đớn mà làm cho trở nên trọn lành! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |