7_(III.1)_“SỐNG THEO ĐỨC TIN LÀ SỐNG TRÊN ĐỊA VỊ CÔNG BÌNH” (Gal. 2:16; Sv. 2:11-21) “Đời sống đức tin theo Kinh Thánh là đời sống giỏi tuân theo các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho ngày càng trở nên giống với Đức Chúa Trời nhiều hơn và tôn vinh hiển Ngài nhiều hơn." I. KINH THÁNH “Dầu vậy, đã biết rằng người ta được xưng công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ, nên chính chúng tôi đã tin Đức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong Đấng Christ, chớ chẳng bởi các việc luật pháp; vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc luật pháp.” (Gal. 2:16; Sv. 2:11-21) II. GIẢI NGHĨA 1. Sống Theo Luật Pháp Là Không Sống Trên Địa Vị Công Bình (C. 16a) “Dầu vậy, đã biết rằng người ta được xưng công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Gal. 2:16a) (1) “được xưng công bình”: Gr. δικαιόω [dikaioo] > “được tuyên bố là vô tội” (2) “các việc luật pháp”: Gr. ἔργον νόμος [ergon nomos] > “các qui định của luật pháp” (3) “cậy đức tin”: Gr. διά πίστις [dia pistis] > “nhờ, bằng, qua đức tin” “Vả, bởi luật pháp, tôi đã chết cho luật pháp, để sống cho Đức Chúa Trời.” (Gal. 2:19) 2. Sống Trên Địa Vị Công Bình Là Sống Trong Và Qua Đức Chúa Jêsus Christ (C. 16b) “Nên chính chúng tôi đã tin Đức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong Đấng Christ.” (Gal. 2:16b) (1) “đã tin”: Gr. πιστεύω [pisteuo] > “đã phó thác” (2) “Đức Chúa Jêsus Christ”: Gr. εἰς Χριστός [eis Christos] > “trong Đức Chúa Jêsus Christ” (3) “để được xưng công bình”: Gr. δικαιόω [dikaioo] > “để được kể là vô tội” (4) “cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ”: Gr. ἐκ πίστις Χριστός [ek pistis Christos] > “nhờ đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ” “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.” (Gal. 2:20) 3. Sống Theo Đức Tin Là Sống Trên Địa Vị Công Bình (C. 16c) “Chớ chẳng bởi các việc luật pháp; vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc luật pháp.” (Gal. 2:16c) (1) “chẳng có ai”: Gr. πᾶς σάρξ [pas sarx] > “chẳng có xác thịt nào” (2) “được xưng công bình”: “được xưng công bình”: Gr. δικαιόω [dikaioo] > “được tuyên bố là vô tội” (3) “bởi các việc luật pháp”: Gr. ἐκ ἔργον νόμος [ek ergon nomos] > “nhờ việc giữ theo các qui định của luật pháp” “Tôi không muốn làm cho ân điển Đức Chúa Trời ra vô ích; vì nếu bởi luật pháp mà được sự công bình, thì Đấng Christ chịu chết là vô ích.” (Gal. 2:21) III. ÁP DỤNG 1. Phải Tự Tra Xét Lòng Mình: Sợ Hay Tin? (C. 16a) “Dầu vậy, đã biết rằng người ta được xưng công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Gal. 2:16a) 2. Phải Tự Tra Xét Đời Sống Mình: Ý Chúa Hay Ý Riêng? (C. 16b&c) “Nên chính chúng tôi đã tin Đức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong Đấng Christ, chớ chẳng bởi các việc luật pháp; vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc luật pháp.” (Gal. 2:16b&c) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
6_(II.3)_“ĐỨC TIN PHẢI LÀ ĐỨC TIN HOÀN TOÀN PHÙ HỢP VỚI KINH THÁNH” (Công. 17:11; Sv. 17:10-15; Ma. 13:23) “Đời sống đức tin theo Kinh Thánh là đời sống giỏi tuân theo các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho ngày càng trở nên giống với Đức Chúa Trời nhiều hơn và tôn vinh hiển Ngài nhiều hơn." I. KINH THÁNH “Những người nầy có ý hẳn hoi hơn người Têsalônica, đều sẵn lòng chịu lấy đạo, ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh, để xét lời giảng có thật chăng.” (Công. 17:11; Sv. 17:10-15; Ma. 13:23) II. GIẢI NGHĨA 1. Trước Hết Phải Chịu Nghe Sự Giảng Giải Về Đạo Với Lòng Trong Sạch, Cao Thượng (C. 11a) “Những người nầy có ý hẳn hoi hơn người Têsalônica, đều sẵn lòng chịu lấy đạo.” (Công. 17:11a) (1) “hẳn hoi”: Gr. εὐγενής [eugenes] > “trong sạch, cao thượng” (2) “chịu lấy đạo”: Gr. δέχομαι ὁ λόγος [dechomai ho logos] > “tiếp nhận sự giảng giải về đạo” “6 Anh em cũng đã bắt chước tôi và bắt chước Chúa, lấy sự vui vẻ của Đức Thánh Linh mà tiếp nhận đạo giữa lúc nhiều sự khốn khó, 7 đến nỗi anh em trở nên gương tốt cho hết thảy tín đồ ở xứ Maxêđoan và xứ Achai.” (1Tê. 1:6-7; Sv. 6-10; Ma. 7:21) 2. Sau Đó Phải Nhờ Kinh Thánh Để Xét Đoán Điều Gì Là Đáng Tin Để Làm Theo (C. 11b) “Ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh, để xét lời giảng có thật chăng.” (Công. 17:11b) (1) “ngày nào”: Gr. ἡμέρα [hemera] > “mỗi ngày, hàng này” (2) “tra xem”: Gr. ἀνακρίνω [anakrino] > “tra xét, xét đoán” (3) “Kinh Thánh”: Gr. γραφή [graphe] > “lời Kinh Thánh” (4) “có thật chăng”: Gr. εἰ ἔχω ταῦτα οὕτω [ei echo tauta houto] > “có được dạy cùng một cách như vậy không” “Bởi vậy, chúng tôi tạ ơn Đức Chúa Trời không thôi về sự anh em tiếp nhận lời của Đức Chúa Trời mà chúng tôi đã truyền cho, không coi như lời của loài người, bèn coi như lời của Đức Chúa Trời, vì thật là lời Đức Chúa Trời, cũng hành động trong anh em có lòng tin.” (1Tê. 2:13; Sv. 13-16; 1Gi. 4:1) III. ÁP DỤNG 1. Phải Luôn Tự Tra Xét Về Lòng Tin Của Mình (C. 11a) “Những người nầy có ý hẳn hoi hơn người Têsalônica, đều sẵn lòng chịu lấy đạo.” (Công. 17:11a; 2Cô. 13:5) 2. Phải Luôn Tra Xét Về Sự Tin Của Mình (C. 11b) “Ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh, để xét lời giảng có thật chăng.” (Công. 17:11b; 1Gi. 4:1) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
5_(II.2)_“ĐỨC TIN PHẢI LÀ ĐỨC TIN ĐƯỢC MINH THỊ QUA VIỆC LÀM” (Gia. 2:24-26; Sv. 2:14-26) “Đời sống đức tin theo Kinh Thánh là đời sống giỏi tuân theo các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho ngày càng trở nên giống với Đức Chúa Trời nhiều hơn và tôn vinh hiển Ngài nhiều hơn." I. KINH THÁNH “24 Nhân đó anh em biết người ta cậy việc làm được xưng công bình, chớ chẳng những là cậy đức tin mà thôi. 25 Đồng một thể ấy, kỵ nữ Raháp tiếp rước các sứ giả và khiến họ noi đường khác mà đi, người há chẳng phải cậy việc làm mà được xưng công bình sao? 26 Vả, xác chẳng có hồn thì chết, đức tin không có việc làm cũng chết như vậy.” (Gia. 2:24-26; Sv. 2:14-26) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Tin Thật Phải Được Minh Thị Bằng Việc Làm Thật Của Đức Tin (C. 24) “Nhân đó anh em biết người ta cậy việc làm được xưng công bình, chớ chẳng những là cậy đức tin mà thôi.” (Gia. 2:24) (1) “cậy”: Gr. ἐκ [ek] > “ra từ, nhờ, do bởi” (2) “việc làm”: Gr. ἔργον [ergon] > “việc có tác dụng công đức” (3) “đức tin mà thôi”: Gr. πίστις μόνος [pistis monos] > “đức tin đơn độc” “14 Hỡi anh em, nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? 15 Ví thử có anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hằng ngày, 16 mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng?” (Gia. 2:14-16) 2. Việc Làm Thật Luôn Có Tác Dụng Minh Thị Cho Đức Tin Thật (C. 25) “Đồng một thể ấy, kỵ nữ Raháp tiếp rước các sứ giả và khiến họ noi đường khác mà đi, người há chẳng phải cậy việc làm mà được xưng công bình sao?” (Gia. 2:25) (1) “cậy việc làm”: Gr. ἐκ ἔργον [ek ergon] > “do bởi công đức” (2) “được xưng công bình”: Gr. δικαιόω [dikaioo] > “được kể là phải” “Ápraham, tổ phụ chúng ta, khi dâng con mình là Ysác trên bàn thờ, há chẳng từng cậy việc làm được xưng công bình hay sao?” (Gia. 2:21) 3. Đức Tin Không Thể Được Minh Thị Bằng Việc Làm Là Đức Tin Mạo Xưng (C. 26) “Vả, xác chẳng có hồn thì chết, đức tin không có việc làm cũng chết như vậy.” (Gia. 2:26) (1) “xác không có hồn”: Gr. σῶμα χωρίς πνεῦμα [soma choris pneuma] > “xác vô hồn” (2) “đức tin không có việc làm”: Gr. πίστις χωρίς ὁ ἔργον [pistis choris ho ergon] > “đức tin không được việc làm minh thị” (3) “chết”: Gr. νεκρός [nekros] > “vô hồn” “Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết.” (Gia. 2:17) III. ÁP DỤNG 1. Đừng In Trí Về Đức Tin Của Mình (C. 24-25) “24 Nhân đó anh em biết người ta cậy việc làm được xưng công bình, chớ chẳng những là cậy đức tin mà thôi. 25 Đồng một thể ấy, kỵ nữ Raháp tiếp rước các sứ giả và khiến họ noi đường khác mà đi, người há chẳng phải cậy việc làm mà được xưng công bình sao?” (Gia. 2:24-25; Sv. 2Cô. 13:5a) 2. Phải Chú Ý Về Động Cơ Đức Tin Trong Mọi Việc Làm Của Mình (C. 26) “Vả, xác chẳng có hồn thì chết, đức tin không có việc làm cũng chết như vậy.” (Gia. 2:26; Sv. 2Phi. 1:5-7) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
4_(II.1)_“ĐỨC TIN PHẢI CÓ LÀ ĐỨC TIN TRONG VÀ QUA ĐỨC CHÚA TRỜI NHẬP THỂ” (1Gi. 4:1-3; Sv. 4:1-6) “Đời sống đức tin theo Kinh Thánh là đời sống giỏi tuân theo các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho ngày càng trở nên giống với Đức Chúa Trời nhiều hơn và tôn vinh hiển Ngài nhiều hơn." I. KINH THÁNH “1 Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ. 2 Bởi điều nầy, hãy nhận biết Thánh Linh của Đức Chúa Trời: Phàm thần nào xưng Đức Chúa Jêsus Christ lấy xác thịt mà ra đời, thần đó là bởi Đức Chúa Trời; 3 còn thần nào không xưng Đức Chúa Jêsus, chẳng phải bởi Đức Chúa Trời. Đó là thần của Kẻ Địch Lại Đấng Christ, mà các con đã nghe rằng hầu đến, và hiện nay đã ở trong thế gian rồi.” (1Gi. 4:1-3; Sv. 4:1-6) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Tin Cũng Cần Phải Được Phân Biệt Thật Giả! (C. 1) “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ.” (1Gi. 4:1) (1) “thần”: Gr. πνεῦμα [pneuma] > “người hoặc sự giảng dạy của người” Ghi Chú: Gr. πνέω [pneo] “hà hơi ra, thốt ra” (2) “thử”: Gr. δοκιμάζω [dokimazo] > “tra xét” (3) “tiên tri giả”: Gr. ψευδοπροφήτης [pseudoprophetes] > “tiên tri giả danh” “Kẻ ngu dốt tin hết mọi lời;Nhưng người khôn khéo xem xét các bước mình.” (Châm. 14:15) 2. Đức Tin Thật Là Đức Tin Nơi Đức Chúa Trời Trong Và Qua Đức Chúa Jêsus Christ Là Đức Chúa Trời Nhập Thể Thành Người! (C. 2) “Bởi điều nầy, hãy nhận biết Thánh Linh của Đức Chúa Trời: Phàm thần nào xưng Đức Chúa Jêsus Christ lấy xác thịt mà ra đời, thần đó là bởi Đức Chúa Trời” (1Gi. 4:2) (1) “Thánh Linh của Đức Chúa Trời”: Gr. πνεῦμα ὁ θεός [pneuma ho theos] > “Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời” Ghi Chú: - “nhận biết Thánh Linh của Đức Chúa Trời” = “biết có phải là Đức Thánh Linh hay đến từ Đức Thánh Linh hay không” - Gr. ἐν γινώσκω ὁ πνεῦμα θεός [en ginosko ho pneuma theos] > “cứ như thế này mà biết có phải là Đức Thánh Linh hay đến từ Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời hay không” (2) “xưng” Gr. ἐν enὁμολογέω [homologeo] > “nói ra điều đã tin” (3) “lấy xác thịt mà ra đời”: Gr. ἐν σάρξ xἔρχομαι [en sar erchomai] > “nhập thể thành người” “Simôn Phierơ thưa rằng: Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống.” (Ma. 16:16) 3. Mọi Sự Giảng Dạy Có Vi Phạm Đến Thần Tính Của Đức Chúa Jêsus Christ Đều Là Sai Trật! (C. 3) “Còn thần nào không xưng Đức Chúa Jêsus, chẳng phải bởi Đức Chúa Trời. Đó là thần của Kẻ Địch Lại Đấng Christ, mà các con đã nghe rằng hầu đến, và hiện nay đã ở trong thế gian rồi.” (1Gi. 4:3) (1) “Kẻ Địch Lại Đấng Christ”: Gr. ἀντίχριστος [antichristos] > “kẻ chống đối Đấng Mêsia” (2) “hầu đến”: Gr. ἔρχομαι [erchomai] > “sẽ phải đến” (3) “đã ở”: Gr. ἤδη [ede] > “đã có sẵn rồi” “Hãy coi chừng tiên tri giả, là những kẻ mang lốt chiên đến cùng các ngươi, song bề trong thật là muông sói hay cắn xé.” (Ma. 7:15) III. ÁP DỤNG 1. Phải Học Biết Lẽ Thật Để Có Thể Nhận Ra Các Sự Giảng Dạy Sai Trật! (C. 1) “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ.” (1Gi. 4:1) 2. Chỉ Tin Duy Nhất Đức Chúa Trời Trong Và Qua Đức Chúa Jêsus Christ! (C. 2-3) “2 Bởi điều nầy, hãy nhận biết Thánh Linh của Đức Chúa Trời: Phàm thần nào xưng Đức Chúa Jêsus Christ lấy xác thịt mà ra đời, thần đó là bởi Đức Chúa Trời; 3 còn thần nào không xưng Đức Chúa Jêsus, chẳng phải bởi Đức Chúa Trời. Đó là thần của Kẻ Địch Lại Đấng Christ, mà các con đã nghe rằng hầu đến, và hiện nay đã ở trong thế gian rồi.” (1Gi. 4:2-3) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
3_(I.3)_”ĐỨC TIN ĐẾN BỞI LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI” (Rô. 10:17; Sv. 10:14-17) “Đời sống đức tin theo Kinh Thánh là đời sống giỏi tuân theo các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho ngày càng trở nên giống với Đức Chúa Trời nhiều hơn và tôn vinh hiển Ngài nhiều hơn." I. KINH THÁNH “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.” (Rô. 10:17; Sv. 10:14-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức tin của Đức Chúa Trời đến với người được cứu từ chính Đức Chúa Trời là Đấng phán (C. 17a) “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe.” (Rô. 10:17a) (1) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] - Trên phương diện Đức Chúa Trời: Sự tự chứng về Ngài của Ngài. - Trên phương diện con người: Sự tín thác đời sống mình cho Ngài (2) “đến”: Gr. ἐκ [ek] > “từ bên ngoài vào” (3) “nghe”: Gr. ἀκοή [akoe] > “cảm thụ bằng thính giác” “Ví bằng Cha, là Đấng sai Ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng Ta, và Ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt.” (Gi. 6:44; Sv. Êph. 2:5) 2. Đức tin của Đức Chúa Trời đến với người được cứu nhờ chính Lời của Đức Chúa Trời đã phán (C. 17b) “Mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.” (Rô. 10:17b) (1) “lời của Đấng Christ”: Gr. ʽρῆμα θεός [rhema theos] > “sứ điệp của Đức Chúa Trời” - “Gr. ʽρῆμα [rhema]: “lời thốt ra từ một thực thể sống và thiêng liêng” - “Gr. θεός [theos]: “Đức Chúa Trời” “Anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 1:23) III. ÁP DỤNG 1. Phải cẩn thận phân biệt cho được về những sự mình nghe để chắc được rằng chỉ nghe từ chính Đức Chúa Trời (C. 17a) “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe.” (Rô. 10:17a) 2. Phải cẩn thận tra xét về tính phù hợp giữa lời được nghe với lời thành văn trong Kinh Thánh (C. 17b) “Mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.” (Rô. 10:17b) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
2_(I.2)_”ĐỨC TIN LÀ ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ ĐỂ ĐƯỢC SỰ CỨU RỖI” (Êph. 2:8-10) “Đời sống đức tin theo Kinh Thánh là đời sống giỏi tuân theo các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho ngày càng trở nên giống với Đức Chúa Trời nhiều hơn và tôn vinh hiển Ngài nhiều hơn." I. KINH THÁNH “8 Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. 9 Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình; 10 vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo.” (Êph. 2:8-10) II. GIẢI NGHĨA 1. Chúng Ta Được Cứu Là Duy Nhất Nhờ Đức Tin Nơi Đức Chúa Trời Trong Và Qua Đức Chúa Jêsus Christ (C. 8) “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời.” (Êph. 2:8) (1) “ân điển”: Gr. χάρις [charis] > “sự hạ cố” (2) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] > “sự tín thác” (3) “cứu”: Gr. σώζω [sozo] > “giải thoát khỏi sự nguy khốn” “24 Họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Jêsus Christ, 25 là Đấng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy.” (Rô. 3:24-25a) 2. Không Có Việc Công Đức Và Sự Tự Mãn Trong Sự Cứu Rỗi Của Đức Chúa Trời Trong Và Qua Đức Chúa Jêsus Christ (C. 9) “Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình.” (Êph. 2:9) (1) “việc làm”: Gr. ἔργον [ergon] > “việc có tác dụng công nghĩa” (2) “khoe”: Gr. καυχάομαι [kauchaomai] > “kể là vinh hiển cho mình” “Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh, chẳng phải theo việc làm chúng ta.” (2Ti. 1:9a) 3. Người Được Cứu Được Định Mạng Để Sống Cho Đẹp Ý Đức Chúa Trời Trong Và Qua Đức Chúa Jêsus Christ (C. 10) “Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo.” (Êph. 2:10) (1) “việc Ngài làm ra”: Gr. ποίημα [poiema] > “vật thọ tạo” (2) “đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ”: Gr. κτίζω ἐν Χριστός ʼΙησοῦς [ktizo en Christos Iesous] > “đã được dựng nên bởi Đức Chúa Jêsus Christ” (3) “việc lành”: Gr. ἔργον ἀγαθός [ergon agathos] > “việc công chính và nhân lành” “Bèn là theo ý riêng Ngài chỉ định, theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ từ trước muôn đời vô cùng.” (2Ti. 1:9b) III. ÁP DỤNG 1. Phải tra xét thường xuyên về sự tín thác đối với Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ (C. 8) “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời.” (Êph. 2:8) 2. Đừng để có thái độ đắc ý về việc công đức của mình (C. 9) “Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình.” (Êph. 2:9) 3. Phải chăm chỉ đối với việc làm đẹp ý Đức Chúa Trời trong mọi sự (C. 10) “Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo.” (Êph. 2:10) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
1_(I.1)_“ĐỨC TIN LÀ ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ ĐỂ ĐẾN VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI” (Hê. 11:6; Sv. 11:1-7) “Đời sống đức tin theo Kinh Thánh là đời sống giỏi tuân theo các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho ngày càng trở nên giống với Đức Chúa Trời nhiều hơn và tôn vinh hiển Ngài nhiều hơn." I. KINH THÁNH “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.” (Hê. 11:6; Sv. 11:1-7) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức tin là chứng cớ của sự cứu rỗi trên đời sống Cơ Đốc Nhân (C. 6a) “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài.” (Hê. 11:6a) (1) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] > “Sự tín thác đời sống mình cho Đức Chúa Trời”. Có ba yếu tố cấu thành chính trong “đức tin”: - Sự hiểu biết về Đức Chúa Trời theo Lời Kinh Thánh; - Sự ưng chịu đối với Đức Chúa Trời theo Kinh Thánh; - Sự hoàn toàn tín thác đời sống mình cho Đức Chúa Trời. (2) “chẳng hề có thể nào”: Gr. ἀδύνατος [adunatos] > “vô năng” (3) “ở cho đẹp ý Ngài”: Gr. εὐαρεστέω [euaresteo] > “làm đẹp ý” “Chính anh em hãy tự xét để xem mình có đức tin chăng. Hãy tự thử mình: Anh em há không nhận biết rằng có Đức Chúa Jêsus Christ ở trong anh em sao? Miễn là anh em không đáng bị bỏ.” (2Cô. 13:5) 2. Sự toàn tín đối với Đức Chúa Trời là chứng cớ của đức tin của Cơ Đốc Nhân (C. 6b) “Vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.” (Hê. 11:6b) (1) “đến gần”: Gr. προσέρχομαι [proserchomai] > “ưng chịu” (2) “Đấng hay thưởng”: Gr. μισθαποδότης [misthapodotes] > “Đấng ban thưởng” (3) “tìm kiếm”: Gr. ἐκζητέω [ekzeteo] > “hết lòng theo đuổi cho được” “18 Ngài lại thề với ai rằng không được vào sự yên nghỉ của Ngài? Há chẳng phải với những người không vâng lời sao? 19 Vả, chúng ta thấy những người ấy không thể vào đó được vì cớ không tin.” (Hê. 3:18-19) III. ÁP DỤNG 1. Phải nhờ các bông trái có được bởi đức tin mà tra xét xem có đức tin trong đời sống mình hay không (C. 6a). “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài.” (Hê. 11:6a; Sv. 2Cô. 13:5) 2. Phải thường xuyên để ý các dấu hiệu của sự toàn tín đối với Đức Chúa Trời để biết chúng ta đang xa hay gần Ngài (C. 6b) . “Vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.” (Hê. 11:6b; Sv. Hê. 3:18-19) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“ĐỂ GIÚP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN” “Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy.” (2Cô. 5:7) “Đời sống đức tin theo Kinh Thánh là đời sống giỏi tuân theo các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho ngày càng trở nên giống với Đức Chúa Trời nhiều hơn và tôn vinh hiển Ngài nhiều hơn." I. Đức Tin Phải Là Đức Tin Theo Lẽ Thật Kinh Thánh Nhờ Được Nghe Lời Kinh Thánh Chứ Không Phải Là Loại “Đức Tin” Chỉ Dựa Trên Sự Đòi Hỏi “Dấu Kỳ, Phép Lạ”. “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.” (Rô. 10:17) - 1_(I.1)_“Đức Tin Là Điều Kiện Phải Có Để Đến Với Đức Chúa Trời” “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.” (Hê. 11:6; Sv. 11:1-7) - 2_(I.2)_“Đức Tin Là Điều Kiện Phải Có Để Được Sự Cứu Rỗi” “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời.” (Êph. 2:8; Sv. 2:8-10) - 3_(I.3)_“Đức Tin Đến Bởi Lời Đức Chúa Trời” “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.” (Rô. 10:17; Sv. 10:14-17) II. Đức Tin Phải Là Đức Tin Có Phân Biệt Theo Lẽ Thật Kinh Thánh Chứ Không Phải Chỉ Là Loại “Đức Tin” Theo Diễn Giả Mà Mình Yêu Thích, Không Cần Phải Cân Nhắc. “Những người nầy có ý hẳn hoi hơn người Têsalônica, đều sẵn lòng chịu lấy đạo, ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh, để xét lời giảng có thật chăng.” (Công. 17:11) - 4_(II.1)_“Đức Tin Phải Là Đức Tin Trong Và Qua Đức Chúa Trời Nhập Thể” “1 Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ. 2 Bởi điều nầy, hãy nhận biết Thánh Linh của Đức Chúa Trời: Phàm thần nào xưng Đức Chúa Jêsus Christ lấy xác thịt mà ra đời, thần đó là bởi Đức Chúa Trời; 3 còn thần nào không xưng Đức Chúa Jêsus, chẳng phải bởi Đức Chúa Trời. Đó là thần của Kẻ địch lại Đấng Christ, mà các con đã nghe rằng hầu đến, và hiện nay đã ở trong thế gian rồi.” (1Gi. 4:1-3; Sv. 4:1-6) - 5_(II.2)_“Đức Tin Phải Là Đức Tin Được Minh Thị Qua Việc Làm” “24 Nhân đó anh em biết người ta cậy việc làm được xưng công bình, chớ chẳng những là cậy đức tin mà thôi. 25 Đồng một thể ấy, kỵ nữ Raháp tiếp rước các sứ giả và khiến họ noi đường khác mà đi, người há chẳng phải cậy việc làm mà được xưng công bình sao? 26 Vả, xác chẳng có hồn thì chết, đức tin không có việc làm cũng chết như vậy.” (Gia. 2:24-26; Sv. 2:16-26) - 6_(II.3)_ “Đức Tin Phải Là Đức Tin Hoàn Toàn Phù Hợp Với Kinh Thánh” “Những người nầy có ý hẳn hoi hơn người Têsalônica, đều sẵn lòng chịu lấy đạo, ngày nào cũng tra xem Kinh thánh, để xét lời giảng có thật chăng.” (Công. 17:11; Sv. 17:10-15) III. Sống Theo Đức Tin Là Sống Theo Lẽ Thật Kinh Thánh Chứ Không Phải Chỉ Là Loại “Đức Tin” Theo Sự Cảm Nhận Cá Nhân. “Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy.” (2Cô. 5:7) - 7_(III.1)_“Sống Theo Đức Tin Là Sống Trên Địa Vị Công Bình” “Dầu vậy, đã biết rằng người ta được xưng công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ, nên chính chúng tôiđã tin Đức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong Đấng Christ, chớ chẳng bởi các việc luật pháp; vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc luật pháp.” (Gal. 2:16; Sv. 2:11-21) - 8_(III.2)_“Sống Theo Đức Tin Là Sống Trong Tin Lành” “16 Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giuđa, sau là người Gờréc; 17 vì trong Tin Lành nầy có bày tỏ sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi đức tin mà được, lại dẫn đến đức tin nữa, như có chép rằng: Người công bình sẽ sống bởi đức tin.” (Rô. 1:16-17) - 9_(III.3)_“Sống Theo Đức Tin Là Sống Để Làm Đẹp Ý Đức Chúa Trời” “Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy.” (2Cô. 5:9; Sv. 5:6-11) IV. Đức Tin Là Mục Đích Tự Thân Và Duy Nhất Phải Theo Đuổi Chứ Không Phải Là Theo Đuổi Đức Tin Để Đời Sống Được An Bình, Thịnh Vượng. “16 Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giuđa, sau là người Gờréc; 17 vì trong Tin Lành nầy có bày tỏ sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi đức tin mà được, lại dẫn đến đức tin nữa, như có chép rằng: Người công bình sẽ sống bởi đức tin.” (Rô. 1:16-17) - 10_(IV.1)_“Đức Tin Là Điều Kiện Phải Có Cho Sự Sống Đời Đời” “11 Nhưng, hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, mà tìm điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại. 12 Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến.” (1Ti. 6:11-12; Sv. 6:11-16) - 11_(IV.2)_“Đức Tin Là Điều Kiện Phải Có Cho Đời Sống Thánh Khiết” “13 Ấy lại cũng trong Ngài mà anh em sau khi đã nghe đạo chân thật, là đạo Tin Lành về sự cứu rỗi anh em, ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, 14 Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để khen ngợi sự vinh hiển Ngài.” (Êph. 1:13-14) - 12_(IV.3)_“Đức Tin Là Điều Kiện Phải Có Cho Đời Sống Công Nghĩa” “16 Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giuđa, sau là người Gờréc; 17 vì trong Tin Lành nầy có bày tỏ sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi đức tin mà được, lại dẫn đến đức tin nữa, như có chép rằng: Người công bình sẽ sống bởi đức tin.” (Rô. 1:16-17) V. Đức Tin Phải Là Đức Tin Trên Quyền Phép Của Đức Chúa Trời Qua Lẽ Thật Kinh Thánh Chứ Không Phải Chỉ Là Loại “Đức Tin” Theo Sự Hữu Ích Thực Dụng Và Sự Thoải Mái. “4 Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép; 5 hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời.” (1Cô. 2:4-5) - 13_(V.1)_“Đức Tin Trên Quyền Phép Của Đức Chúa Trời Đòi Hỏi Sự Ăn Năn” “14 Sau khi Giăng bị tù, Đức Chúa Jêsus đến xứ Galilê, giảng Tin Lành của Đức Chúa Trời, 15 mà rằng: Kỳ đã trọn, nước Đức Chúa Trời đã đến gần; các ngươi hãy ăn năn và tin đạo Tin Lành.” (Mác 1:14-15) - 14_(V.2)_“Đức Tin Trên Quyền Phép Đức Chúa Trời Thể Hiện Qua Sự Kiên Tín” “Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi.” (Hê. 10:39; Sv. 10:32-39) - 15_(V.3)_“Đức Tin Trên Quyền Phép Đức Chúa Trời Là Đích Điểm Của Mọi Nổ Lực Giáo Dục Cơ Đốc” “4 Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép; 5 hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời.” (1Cô. 2:4-5; Sv. 2:1-5) VI. Đừng Để Đức Tin Thật Bị Lung Lạc, Bị Lai Tạp Bởi Giáo Sư Giả Là “Đức Tin” Chỉ Được Cảm Hứng Bởi Thuật Hùng Biện, Bởi Tính Cách Và Tính Chất Cá Nhân, Bởi “Sự Hiệp Nhất” Vô Nguyên Tắc. “12 Về phần chúng ta, chúng ta chẳng nhận lấy thần thế gian, nhưng đã nhận lấy Thánh Linh từ Đức Chúa Trời đến, hầu được hiểu biết những ơn mà chúng ta nhận lãnh bởi Đức Chúa Trời; 13 chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời nói mà sự khôn ngoan của loài người đã dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh đã dạy, dùng tiếng thiêng liêng để giãi bày sự thiêng liêng.” (1Cô. 2:12-13) - 16_(VI.1)_“Đức Tin Thật Không Dao Động, Không Đổi Đời” “3 Nhưng tôi ngại rằng như xưa Êva bị cám dỗ bởi mưu chước con rắn kia, thì ý tưởng anh em cũng hư đi, mà dời đổi lòng thật thà tinh sạch đối với Đấng Christ chăng. 4 Vì nếu có người đến giảng cho anh em một Jêsus khác với Jêsus chúng tôi đã giảng, hoặc anh em nhận một Thánh Linh khác với Thánh Linh anh em đã nhận, hoặc được một Tin Lành khác với Tin Lành anh em đã được, thì anh em chắc dung chịu!” (2Cô. 11:3-4; Sv. 11:6-10) - 17_(VI.2)_“Đức Tin Thật Không Đến Từ Các Giáo Sư Giả” “26 Ta đã viết cho các con những điều nầy, chỉ về những kẻ lừa dối các con. 27 Về phần các con, sự xức dầu đã chịu từ nơi Chúa vẫn còn trong mình, thì không cần ai dạy cho hết; song vì sự xức dầu của Ngài dạy các con đủ mọi việc, mà sự ấy là thật, không phải dối, thì hãy ở trong Ngài, theo như sự dạy dỗ mà các con đã nhận.” (1Gi. 2:26-27; Sv. 2:18-29) - 18_(VI.3)_“Đức Tin Thật Duy Nhất Đến Bởi Đức Thánh Linh” “12 Về phần chúng ta, chúng ta chẳng nhận lấy thần thế gian, nhưng đã nhận lấy Thánh Linh từ Đức Chúa Trời đến, hầu được hiểu biết những ơn mà chúng ta nhận lãnh bởi Đức Chúa Trời; 13 chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời nói mà sự khôn ngoan của loài người đã dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh đã dạy, dùng tiếng thiêng liêng để giãi bày sự thiêng liêng.” (1Cô. 2:12-13; Sv. 2:6-16) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
“HÃY MẬT THIẾT HƠN VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI” (Gia. 4:7-10) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." “7 Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8 Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9 hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10 Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên.” (Gia. 4:7-10) Việc cố công vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời có lẽ là một việc làm đáng trọng và khôn ngoan hơn hết, và đó là điều chỉ có thể có ở những ai đã thuộc về Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh. Đó cũng là một điều thật sự khó khăn vì để có thể có mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời người ta phải đắc thắng được đồng thời ba kẻ thù thuộc linh là sức mạnh của tội lỗi trong bản thân, sự chống đối của thế gian, và sự ngăn cản của Ma Quỉ. Cuộc giao ngộ của Cơ Đốc Nhân với chân thần của họ là Đức Chúa Trời duy nhất thật và hằng sống là một hành trình đắc thắng phước hạnh và gian nan giữa đời ác này. Để tiến đến một mối quan hệ ngày càng mật thiết với Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh người ta buộc phải ngày càng lạnh nhạt hơn với mọi mối quan hệ khác trong thế gian. “8 Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ 9 và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải công bình của tôi bởi Luật Pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin…” (Phlp. 3:8-9). Thật ra, đây là một tiến trình sống giữa hai mặt đối lập nhau là tách li thế gian để tận hiến cho Đức Chúa Trời là điều chỉ có thể có được nếu người ta biết sống như người sống lại trong Cứu Chúa của mình là Đức Chúa Jêsus Christ: “…10 Cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11 mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết.” (Phlp. 3:10-11). Việc cố công vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời là một linh trình nghiêm túc mang tính kỷ luật rất cao để vượt qua các rào cản phải vượt… Sức mạnh của tội lỗi nội tại trong bản thân phải được kể là rào cản đầu tiên và lớn hơn hết vì chính đó là điều thường khiến cho Cơ Đốc Nhân phạm tội với Đức Chúa Trời nhiều nhất. Tự thân Cơ Đốc Nhân không đủ sức vượt lên trên rào cản này nhưng may mắn thay là họ đã có Đức Chúa Trời của mình đón sẵn ở đó để nâng họ lên với lời hứa tha tội cho ai biết xưng nhận tội lỗi của mình: “Nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (1Gi. 1:9). Để vun đáp được mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời thì kỹ năng phải có đầu tiên của Cơ Đốc Nhân là kỹ năng ăn năn và xưng nhận tội lỗi của mình với Ngài. Chính yếu tố “đau thương thống hối” khiến cho sự xưng nhận tội lỗi của Cơ Đốc Nhân được Đức Chúa Trời xm là của lễ đẹp ý Ngài: “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu.” (Thi. 51:17). Kỹ năng nghe được tiếng phán của Đức Chúa Trời cũng cần thiết cho việc vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Ngài như kỹ năng nói chuyện với Đức Chúa Trời qua việc Cơ Đốc Nhân xưng tội cùng Ngài. Tuy nhiên cần phải khẳng định ngay rằng việc người ta muốn được “nghe” Đức Chúa Trời cách hữu thanh là một việc làm phi Kinh Thánh. Đức Chúa Trời muốn các Cơ Đốc Nhân “nghe” Ngài bằng tai đức tin qua việc tin quyết lời phán của Ngài từ Kinh Thánh chứ không phải bắt Ngài phải phán riêng cách hữu thanh cho từng người theo các nhu cầu bất cập, và lắm khi cũng bất nhất, của họ. Tiếng phán hữu thanh của Đức Chúa Trời để xác nhận Con Ngài là Lời Sống là thẩm quyền của Ngài cho Lời Thành Văn của Ngài trong Kinh Thánh để chúng ta dốc lòng nghe theo cách tin kính: “18 Chính chúng tôi cũng từng nghe tiếng ấy đến từ trời, lúc chúng tôi ở với Ngài trên hòn núi thánh. 19 Nhân đó, chúng tôi càng tin lời các đấng tiên tri chắc chắn hơn, anh em nên chú ý lời đó, như cái đèn soi sáng trong nơi tối tăm, cho đến chừng nào ban ngày lộ ra, và sao mai mọc trong lòng anh em. 20 Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. 21 Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (2Phi. 1:18-21). Kỹ năng xưng nhận tội lỗi với Đức Chúa Trời cùng với kỹ năng lắng nghe tiếng phán của Ngài trong Kinh Thánh được lắng đọng trong một dạng thức sinh hoạt thuộc linh Cơ Đốc rất đặc biệt là đời sống cầu nguyện của Cơ Đốc Nhân: Họ sẽ biết cầu nguyện với Đức Chúa Trời như một sự nương cậy Ngài chứ không phải chỉ để nhờ vả Ngài. Dưới ánh sáng của mẫu cầu nguyện mà Đức Chúa Jêsus Christ đã dạy cho chúng ta (Sv. Ma. 6:9-13) thì mối bận tâm chính của Cơ Đốc Nhân khi họ cầu nguyện là ý chỉ Thiên Thượng chứ không phải là lợi ích ích kỷ họ. Ngôn ngữ của sách Thi Thiên là ngôn ngữ cầu nguyện, có đầy những lời cầu nguyện thành tâm của những tấm lòng tin kính để nêu gương cho sự cầu nguyện của chúng ta. Một khi đời sống cầu nguyện của một người được sâu đậm trong sự tự thức về tình trạng bất lực của bản thân và theo sự dầm thấm có được trong lời Kinh Thánh thì hiện tượng tỏa sáng của đời sống người ấy sẽ diễn ra: “16 Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời. 17 Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Côl. 3:16-17; Sv. Êph. 5:19). Cũng chính vì vậy mà mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời khiến cho người ta không thể nào cứ sống khép mình, biệt lập được; trái lại họ có một nhu cần bức thiết về việc được hiệp thông trong một cộng đồng đức tin là Hội Thánh Địa Phương để được gây dựng nhau. Sự thất bại của Hội Thánh Địa Phương trong thực tiễn sinh hoạt của mình đã khiến cho ngày càng có nhiều người hiểu nhầm rằng chỉ có hoạt động thờ phượng Đức Chúa Trời với nhau trong Hội Thánh Địa Phương mới là đáng kể mà thôi. Thờ phượng là nổ lực hướng thượng của Hội Thánh phải được xây dựng cách ưu tiên đồng thời với nổ lực hướng nội và nổ lực hướng ngoại của Hội Thánh là môn đồ hóa và truyền giáo. Để Hội Thánh được vững mạnh cả ba sinh hoạt thờ phượng, môn đồ hóa, và truyền giáo đều phải được vững mạnh. Hội Thánh Địa Phương không phải là nơi cho người ta đến để hưởng lợi theo một cách nào đó từ sinh hoạt thờ phượng. Hội Thánh Địa Phương là một sinh thể ưu việt thuộc thẩm quyền Thiên Thượng, là một kênh ân điển của Đức Chúa Trời để các Cơ Đốc Nhân dâng phần tích cực nhất của mình để gây dựng nhau. Họ là những con người biết xưng nhận tội lỗi của mình với Đức Chúa Trời, biết tìm kiếm lời phán của Ngài, biết nương cậy Ngài hoàn toàn cho nên đời sống họ được tỏa sáng và, cùng nhau trong Hội Thánh Địa Phương, họ tỏa sáng được ngày càng nhiều hơn theo mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời ngày càng mật thiết hơn của mỗi người. Mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời ngày càng mật thiết hơn của mỗi người nhất thiết phải được thể hiện cách tập trung và cao độ qua đời sống vâng phục Đức Chúa Trời của mỗi người: “Nếu ai yêu mến Ta, thì vâng giữ lời Ta, Cha Ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng Người và ở trong Người.” (Gi. 14:23). Sự vâng phục Đức Chúa Trời là đỉnh cao của cuộc hạnh ngộ giữa một cá nhân với Ngài và đó là biểu hiện của sự hòa hiệp siêu nhiên giữa chủ thể của đức tin với đối tượng của đức tin ngay trên thế gian này. “7 Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8 Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9 hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10 Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên.” (Gia. 4:7-10). Việc cố công vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời có lẽ là một việc làm đáng trọng và khôn ngoan hơn hết, và đó là điều chỉ có thể có ở những ai đã thuộc về Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh. Họ luôn luôn nhiệt thành trong việc xưng nhận tội lỗi của mình với Đức Chúa Trời, tìm cầu lời phán của Ngài trong Kinh Thánh, sống nương cậy Ngài bằng đời sống cầu nguyện, ra sức gây dựng nhau và cùng nhau gây dựng trong Hội Thánh Địa Phương, và thực sự sống vâng phục Ngài. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
18_(VI.3) “PHẢI SINH HOẠT VÌ HỘI THÁNH” (1Phi. 4:10-11; Sv. 4:7-11) “Đời sống thánh khiết theo Kinh Thánh là đời sống giàu kỹ năng sống các nguyên tắc Kinh Thánh hầu cho các mỹ đức thánh khiết của Đức Chúa Trời được thể hiện qua đời sống ngày càng rõ nét hơn." I. KINH THÁNH “10 Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời. 11 Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:10-11; Sv. 4:7-11) II. GIẢI NGHĨA 1. Phải có phận sự thi hành ân tứ thuộc linh được Đức Chúa Trời ban vì Hội Thánh của Ngài. (C. 10) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) (1) “ơn”: Gr. χάρισμα [charisma] > “sự ban cho của Đức Chúa Trời” (2) “giúp”: Gr. διακονέω [diakoneo] > “phục vụ” (3) “người quản lý”: Gr. οἰκονόμος [oikonomos] > “người quản gia” (4) “trung tín”: Gr. καλός [kalos] > “cao trọng” “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích chung.” (1Cô. 12:7; Sv. Rô. 12:4-8) 2. Phải vì Hội Thánh của Đức Chúa Trời mà phục vụ cách tận tụy như là cách để tôn vinh hiển Ngài. (C. 11) “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:11) (1) “giảng”: Gr. λαλέω [laleo] > “nói ra, nói lên” (2) “rao lời sấm truyền”: Gr. λόγιον [logion] > “rao sự truyền phán của Đức Chúa Trời” (3) “làm chức gì”: Gr. διακονέω [diakoneo] > “phục vụ cho, làm đầy tớ cho” (4) “nhờ sức…”: Gr. ἰσχύς [ischus] > “nhờ năng lực” “6 Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; 7 ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8 ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai tri, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm.” (Rô. 12:6-8) III. ÁP DỤNG 1. Phải tìm biết, trau dồi, và thi hành cách trung tín ân tứ thuộc linh đã được Đức Chúa Trời ban vì sự gây dựng Hội Thánh của Ngài! (C. 10) “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời.” (1Phi. 4:10) 2. Phải vì Hội Thánh mà nuôi chí phục vụ cách tận tụy để qua đó Đức Chúa Trời được tôn vinh hiển! (C. 11) “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) ![]()
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |