“PHẢI LÀM THEO LỜI KINH THÁNH” (Gia. 1:22-25) “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình…” (Gia. 1:22) Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời được khải thị thành văn để bày tỏ ý chỉ và chương trình của Đức Chúa Trời cho nhân loại. Đối với người thực sự kính sợ Đức Chúa Trời, Lời Kinh Thánh có một vai trò không gì có thể thay thế được trong đời sống của họ: “Bàn tay Chúa đã làm tôi và nắn hình tôi_ Xin hãy ban cho tôi trí hiểu, để tôi học điều răn Chúa... _Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi,_Ánh sáng cho đường lối tôi” (Thi. 119:73, 105). Đối với chúng ta cũng vậy, Lời Kinh Thánh và chức phận môn đồ của chúng ta là hai điều không thể tách rời nhau: “31Nếu các ngươi hằng ở trong Đạo Ta, thì thật là môn đồ Ta; 32các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Gi. 8:31-32). Dầu vậy, phải chăng là tất cả mọi người chúng ta đều có cùng một cách nhìn nhận và thực hành đối với Lời Kinh Thánh như chúng ta đáng phải có? I. MỘT THỰC TRẠNG KHÔNG ĐÁNG CÓ “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình” (Gia. 1:22) Trên thực tế, có rất nhiều người nghe Lời Kinh Thánh nhưng không đủ sức giữ mình cho khỏi bị rơi vào tình trạng “nghe suông”. Họ nghe chỉ để mà nghe, hoặc chỉ vì phải nghe. Có lắm người sau khi buổi nhóm kết thúc, họ chẳng còn biết nghĩ gì hơn là về nhà càng sớm càng tốt. Nhiều người cũng có nghĩ thoáng qua về bài giảng một chút, nhưng ngay sau đó họ liền xóa bỏ chủ đề vừa được giảng dạy ra khỏi tâm trí mình. Thật ra, cũng có một số ít người sau khi nghe giảng xong, họ biểu hiện được sự thích thú đối với những gì đã được nghe. Dầu vậy, ngay đối với những người như thế, sự thỏa lòng cũng chỉ có trong những điều nào họ cảm thấy ưa thích mà thôi. Tuy nhiên, mục đích của việc giảng dạy không phải là để làm vừa lòng người nghe. Mục đích của sự giảng dạy là để cho người nghe được bổ ích, được gây dựng, và được cảm ứng để sống một đời sống công chính, tin kính, phong phú. Sự tôn kính cao nhất mà một người Mục Sư có thể có được không phải bằng việc nói cho họ biết rằng bài giảng của họ được người nghe thích thú như thế nào. Sự tôn quí đích thực mà người Mục Sư có thể có và cần phải có được thể hiện qua việc người nghe được thay đổi đời sống ra sao qua bài giảng. Chúng ta đang sống trong một thế giới có khuynh hướng thực hành, trọng thực dụng. Trong một thế giới như thế, sứ mệnh từ bục giảng cần phải mang tính điều chỉnh, có tác dụng gây dựng. Công việc từ trên bục giảng phải nhằm thăng tiến cho việc hành động theo Lời Kinh Thánh trong đời sống hàng ngày của người tin. Giúp cho các tín hữu nắm bắt được các nguyên tắc Kinh Thánh để sống đời sống đắc thắng là một ưu tiên mà cả các tín hữu lẫn các lãnh đạo Hội Thánh đều phải tôn trọng: “Kẻ nào xét kỹ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:25). Những người chỉ biết nghe suông, hoặc chú ý rất ít đến những gì được nghe, và ngay cả những người nghe nhưng chỉ thấy thích những phần nào đó theo sở thích riêng của mình đều là những người chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của một đời sống tin kính thực sự. Thật ra, những người như thế là nạn nhân của một sự tự lừa dối tai hại cho rằng “nghe” như thế là đủ để hoàn thành nghĩa vụ Cơ Đốc Nhân của mình. Đối với những người chỉ biết “lấy nghe làm đủ”, sự xưng nhận Cơ Đốc của họ chỉ là một sự trống rỗng. Cho dầu cấu trúc giáo lý của họ có thể rất chính thống, xúc cảm của họ có thể rất Tin Lành, nhưng những điều ấy không bổ ích được gì cho họ cả. Làm sao những điều như thế được xem là bổ ích khi chúng không hề được thực hành, giúp đem lại quyền năng, và thăng tiến được đời sống thánh khiết? Cơ Đốc Nhân là người sống thực hành các nguyên tắc Cơ Đốc của Kinh Thánh. Cơ Đốc Nhân chân chính không thể là một người “lấy nghe làm đủ”. Người “lấy nghe làm đủ” là người “tự lừa dối mình”, là người đang ở trên con đường thoái hóa thuộc linh. II. MỘT BÀI HỌC KHÔNG ĐƯỢC QUÊN “Vậy kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá” (Ma. 7:24). Sự minh họa tốt nhất cho lẽ thật Kinh Thánh này chính là ẩn dụ nói về người xây nhà khôn ngoan và người xây nhà dại dột mà Đức Chúa Jêsus đã giảng dạy cho các môn đồ Ngài và được trước thuật trong Ma. 7:24-27. Trong đoạn Kinh Thánh ấy, Đức Chúa Jêsus đã chuyển chủ đề từ sự xét đoán đối với người dạy sang sự xét đoán đối với người nghe. Người dạy có trách nhiệm của việc dạy, và người nghe phải chịu trách nhiệm về thái độ nghe của mình. Bài học mà chúng ta có thể đúc kết từ sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus trong ẩn dụ ấy thật phong phú: 1. Sống Là Thực Hiện Một Công Trình Xây Dựng. Xét cho cùng, ai nấy đều xây dựng cho mình một ngôi nhà bằng chính các hoạt động sống của mình. Niềm tin, sự suy nghĩ, lời nói, và việc làm của mỗi người kết nối, tác động qua lại với nhau đan kết lại thành sự bình an hay bất an cho đời sống. Người ta phải sống trong những gì mình tạo ra, đó chính là nơi “cư trú” của mỗi người trong đời này. Có những người chỉ biết làm cho mình những lều, lán sơ sài. Nhưng cũng có những người chịu khó theo đuổi những thiết kế đặc sắc vừa mỹ quan, vừa trường tồn - đó là những người biết làm theo lời phán của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh: “24Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá. 25Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không bị sập, vì đã cất nhà trên đá” (Ma. 7:24-25). Dầu người ta xây gì và xây như thế nào, họ vẫn phải ở vào công trình xây dựng của mình. Hoặc là một nơi cứ trú vững vàng, bình an; hoặc là một cấu trúc mất cân đối sẵn sàng sụp đổ bất cứ lúc nào. Chúng ta không thể nào tránh thoát các hậu quả của những công việc mình đã làm: “26Kẻ nào nghe lời Ta phán đây, mà không làm theo, khác nào người dại cất nhà mình trên đất cát. 27Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều” (Ma. 7:26-27). 2. Sự Bền Vững Của Một Công Trình Xây Dựng Tùy Thuộc Vào Nền Móng. Sự khắc họa của Đức Chúa Jêsus trong ẩn dụ này có tính chất sống động, gần gũi với môi trường sống của Ngài lúc ấy: Naxarét vốn được xây dựng trên các ngọn đồi, có nhiều ngôi nhà nằm chênh vênh trên các sườn núi đá. Tại Ghênêxarét là nơi Ngài đang giảng dạy cũng có một kiểu nền móng xây dựng tương tự. Đối với các công trình xây dựng này, nếu nền móng bị xâm thực theo một cách nào đó thì hiểm họa sụp đổ nhất định phải xảy ra. Hình ảnh về hai hạng người được Đức Chúa Jêsus đưa ra là để cảnh tỉnh chúng ta: “… Người khôn ngoan cất nhà mình trên vầng đá…(Ma. 7:24b) “ Người dại cất nhà mình trên đất cát” (Ma. 7: 26b). Đức Chúa Jêsus muốn cho chúng ta thấy rằng việc tạo cho được một nền móng vững chắc cho niềm tin của mình phải là một việc quan trọng, đáng để chúng ta lưu tâm. Trở thành hạng người nào trong hai hạng người này là do sự chọn lựa của chúng ta. 3. Nền Móng Phải Được Thử Nghiệm. Mới nhìn qua, nhà xây trên nền cát trông cũng “ổn” như nhà xây trên nền đá mà thôi. Thế nhưng vấn đề ở chỗ việc gì sẽ xảy ra khi giông bão ập đến? Ai cũng biết rằng chỉ những nền móng nào thực sự vững chãi, không chứa đựng những yếu tố phá ngầm ở bên trong, công trình đó mới có thể tồn tại lâu dài được. Chỉ có thế biết niềm tin và đời sống Cơ Đốc vững hay không vững trong và sau những tình huống, biến cố mang tính thử thách mà thôi. Hai loại nhà của hai hạng người cũng chính là hai loại niềm tin của hai hạng Cơ Đốc Nhân: “…Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không bị sập…” (Ma. 7:25). “Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều” (Ma. 7:27). 4. Nền Móng Của Đức Tin Là Sự Làm Theo Lời Kinh Thánh. Đức Chúa Jêsus cảnh tỉnh chúng ta về sự xưng nhận niềm tin một cách hời hợt. Đức tin sống động nơi Đức Chúa Jêsus là một đức tin chứng tỏ được rằng nó thực hữu bằng việc tự chứng qua bông trái trong đời sống mình. Hai hạng người “khôn” và “dại” trong ẩn dụ mà Đức Chúa Jêsus dùng để dạy dỗ được qui định bằng việc họ “làm theo” hay “không làm theo”: “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan…” (Ma. 7:24a). “Kẻ nào nghe lời Ta phán đây, mà không làm theo, khác nào người dại” (Ma. 7:26a). III. ÁP DỤNG: CON ĐƯỜNG CỦA PHƯỚC HẠNH “Nhưng kẻ nào xét kỹ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia. 1:25). Sứ Đồ Giacơ sử dụng một sự minh họa khác nữa để dạy dỗ chúng ta: Lời Kinh Thánh là tấm gương thuộc linh cho chúng ta soi vào, thấy được sự phản chiếu của linh hồn chúng ta, nhận biết thực trạng đời sống đức tin chúng ta để nhờ Ân Điển của Đức Chúa Trời mà sống vâng lời Ngài. Con đường phước hạnh của đời sống Cơ Đốc được Sứ Đồ Giacơ mô tả bằng một số các sự tương phản giữa hai hạng người nghe: 1. Tương Phản Giữa “Thấy” (C. 24) Và “Xét kỹ” (C.25). Người “lấy nghe làm đủ” soi gương nhưng chỉ liếc qua chứ không chú tâm. Đối với hạng người này, việc họ nghe bài giảng chỉ là sự nghe máy móc do âm thanh tác động trên thính giác, họ không nhận được sự phản ánh và yêu cầu của Lời Kinh Thánh đối với đời sống mình. Người “làm theo lời” nghe Lời Kinh Thánh với một động cơ tốt và thái độ nghiêm túc. Họ có lỗ tai thuộc linh, nhận biết được sự phản ánh của Kinh Thánh về tình trạng của mình và phương hướng mà Kinh Thánh muốn mình phải theo. Những người này nghe Lời Kinh Thánh với một tình cảm yêu quí, trân trọng. 2. Tương Phản Giữa “Đi” (C. 24) Với “Suy gẫm” (C. 25). Vì không hề có sự dự định, người “lấy nghe làm đủ” xem bài giảng là tẻ nhạt, họ mong buổi nhóm chóng qua, những gì đã nghe sớm được quên lãng. Người “làm theo lời” có một ý chí khác hẳn: Họ tiếp tục xem xét sự việc cho thấu đáo với một sự thú vị trong lòng. Những gì đã được giảng dạy chiếm một vị trí đặc biệt, không dễ gì bị xóa nhòa. Đối với những người này, Đức Thánh Linh có cơ hội tiếp tục làm việc với họ trên những gì họ đã nghe đến nỗi nhiều khi chứng giải cho họ vượt quá những gì đã được nghe, đem lại cho họ những sự kiến giải vừa sâu sắc vừa mang tính thực hành. 3. Tương Phản Giữa “Quên” (C. 24) Với “Hết Lòng Giữ Theo” (C. 25). Thiếu vắng cả tình cảm lẫn ý chí đối với Lời Kinh Thánh, người “lấy nghe làm đủ” nhanh chóng gạt bỏ những điểm hoen ố, khiếm khuyết trong đời sống mà Kinh Thánh phản ánh cho họ thấy. Thế nhưng người “làm theo lời” biết tiếp tục và thận trọng đối với những gì mà Đức Chúa Trời đã cho con mắt thuộc linh của họ thấy được qua Lời Ngài. Hạng người này nhận biết được rằng phận sự trọn đời của mình là “Xét kỹ Luật Pháp trọn vẹn, là Luật Pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó”. Bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời, những người như thế bước đi trên con đường của phước hạnh, họ đạt được cả sự tự thức lẫn sự tự chủ, họ “Tìm được phước trong sự mình vâng lời” (C. 25). “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình” (C. 22) không phải chỉ là mệnh lệnh của riêng đoạn Kinh Thánh này, đây là mệnh lệnh của cả Kinh Thánh. Bí quyết để có hạnh phúc thật là vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời trong Lời Kinh Thánh. Ngày nay chúng ta được như thế này chính là nhờ Lời Đức Chúa Trời khải thị cho chúng ta qua Kinh Thánh: “Các ngươi đã được trong sạch, vì lời Ta đã bảo cho” (Gi. 15:3). Lời Chúa là dành cho chúng ta nghe; chúng ta nghe Lời Chúa là để nhận lấy cho đời sống mình; và nhận lấy cho đời sống mình một cách trọn nghĩa chính là làm theo những điều Kinh Thánh dạy dỗ: “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình…Chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó…” (Gia. 1:22, 25) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI CHĂM LO CÔNG VIỆC” (Lu. 2:41-52) “… Chúng tôi khuyên anh em… ráng tập ăn ở cho yên lặng, săn sóc việc riêng mình, lấy chính tay mình làm lụng, như chúng tôi đã dặn bảo anh em…” (1Tê. 4:11) Khi tạo dựng nên Ađam và đặt vào vườn Êđen, Đức Chúa Trời cũng đồng thời ban cho con người việc làm (Sáng. 2:15). Dầu vất vả, cực nhọc, sự lao động vẫn có ích cho con người (Truyền. 2:24). Sự lao động mở ra cơ hội cho con người thể hiện năng lực và sự sáng tạo của mình; đem lại cho họ và người nhà họ sự bảo đảm về cuộc sống vật chất cũng như đạt được một số mục tiêu để đóng góp cho sự thịnh vượng chung của đất nước và cho cả nhân loại. Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải theo đuổi công việc mưu sinh của mình theo những nguyên tắc Kinh Thánh nào để có thể hoàn thành nghĩa vụ lao động của chúng ta mà vẫn được đẹp ý Đức Chúa Trời? I. PHẢI “LO VIỆC CHA” Sự kiện nổi bật khi Đức Chúa Jêsus lên 12 tuổi được Kinh Thánh trước thuật là việc Ngài bắt đầu tập trung vào việc chăm lo công việc mà Cha Ngài đã giao. Tuy nhiên, lúc bấy giờ chẳng ai hiểu điều ấy cả! “49Ngài thưa rằng: Cha Mẹ kiếm tôi làm chi? Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi sao? 50Nhưng hai người không hiểu lời Ngài nói chi hết.” (C. 49-50) Trong đoạn văn chúng ta đang nghiên cứu, Đức Chúa Jêsus được 12 tuổi. Đối với một người Do Thái bình thường, tuổi 12 là tuổi chuyển từ sự dạy dỗ của mẹ sang sự dạy dỗ của cha. Ở tuổi 12, một “bé trai” Do Thái bắt đầu tập làm “đàn ông” trong công việc. Từ tuổi 12, một nam thiếu niên Do Thái phải bắt đầu học một công việc gì đó theo ý muốn của cha mình. Từ tuổi 12, một nam thiếu niên Do Thái cũng phải có phận sự tháp tùng cha mình lên Giêrusalem dự lễ hàng năm. Từ tuổi 12, một nam thiếu niên Do Thái bắt đầu tập áp dụng những gì được mẹ dạy dỗ cho đời sống mình. “41Vả, hằng năm cứ đến ngày Lễ Vượt Qua, Cha Mẹ Đức Chúa Jêsus thường đến thành Giêrusalem. 42Khi Ngài lên mười hai tuổi, theo lệ thường ngày lễ, cùng lên thành Giêrusalem.” (C. 41-42) Công việc của mỗi người đều khác nhau. Nhưng chúng ta sẽ bắt đầu một công việc từ đâu? Trước hết, chúng ta cần được “cho phép”, tức cần phải có được sự chuẩn thuận, để khởi đầu một công việc. Đức Chúa Jêsus đã đến để làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha, Ngài có hướng đi và giữ vững hướng đi của mình. Trong khi đó, những người chung quanh đi theo hướng riêng của họ, và đó là lý do khiến có sự lạc điệu trong đời sống, ngay cả giữa một gia đình: “43Các ngày lễ qua rồi, Cha Mẹ trở về, con trẻ là Jêsus ở lại thành Giêrusalem, mà Cha Mẹ không hay chi hết. 44Hai người tưởng rằng Ngài cũng đồng đi với bạn đi đường, đi trót một ngày, rồi mới tìm hỏi trong đám bà con quen biết; 45nhưng không thấy Ngài, bèn trở lại thành Giêrusalem mà tìm.” (C. 43-45) Cũng có khi một công việc được bắt đầu nhờ “thừa hưởng”. Trong việc kinh doanh, chúng ta cũng đã từng biết có những công việc mang cả tên người sáng lập lẫn tên người đương nhiệm, tên của cả cha và con, và đó là những công việc mang dấu ấn của sự kêu gọi và chuyển giao rất rõ nét. Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, tức trong gia đình Cơ Đốc, chúng ta cũng được kế thừa “việc Cha” một cách tương tự. Một khi thực sự được ở trong “việc Cha”, người ta thường rất tự nhiên, thành thạo, và tận tụy. Đó chính là trường hợp của Đức Chúa Jêsus năm Ngài lên 12 tuổi: “46Khỏi ba ngày, gặp lại Ngài trong Đền Thờ đang ngồi giữa mấy thầy thông thái, vừa nghe vừa hỏi. 47Ai nấy nghe, đều lạ khen về sự khôn ngoan và lời đối đáp của Ngài.” (C. 46-47) Tận tụy cho “việc Cha” là một điều phải lẽ, đó là một đức hạnh cao quí. Tuy nhiên, nhận thức cho được một người đang ở trong công việc nào không phải là điều dễ dàng! Và, sống trong đời, chúng ta phải đồng thời hoàn thành nhiều “công việc” khác nhau sao cho hài hòa. Đức Chúa Jêsus là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Ngài là Đức Chúa Trời, nhưng để cứu độ nhân loại Ngài đã phải đến thế gian làm người, sống kiếp người, đồng thời làm trọn mọi loại “việc Cha” theo ý chỉ Thiên Thượng: “48Khi Cha Mẹ thấy Ngài, thì lấy làm lạ, và Mẹ hỏi rằng: Hỡi con, sao con làm cho hai ta thể nầy? Nầy, Cha và Mẹ đã khó nhọc lắm mà tìm con… 51Đoạn, Ngài theo về thành Naxarét và chịu lụy Cha Mẹ. Mẹ Ngài ghi các lời ấy vào lòng. 52Đức Chúa Jêsus khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta.” (C. 48, 51-52) Đức Chúa Jêsus phán rằng Ngài phải lo việc Cha Ngài. Cha Ngài đã giao cho Ngài việc gì? “Đức Chúa Jêsus phán rằng: Đồ ăn của Ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai Ta đến, và làm trọn công việc Ngài.” (Gi. 4:34) II. PHẢI RÁNG “SĂN SÓC VIỆC RIÊNG” Người ta ăn là để nuôi sống bản thân, đồ ăn đem lại sự sống thuộc thể cho thân thể; trên một phương diện, đồ ăn là sự sống cho thân thể. Đức Chúa Jêsus muốn dạy chúng ta rằng sự sống của chúng ta phải là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Chúng ta sống là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, dưới nguyên tắc bao quát này, liệu chúng ta có được Kinh Thánh dạy cho biết một nguyên tắc nào khác về “công việc riêng” của chúng ta hay không? “… Chúng tôi khuyên anh em… ráng tập ăn ở cho yên lặng, săn sóc việc riêng mình, lấy chính tay mình làm lụng, như chúng tôi đã dặn bảo anh em…” (1Tê. 4:11) Lời dạy của Sứ Đồ Phaolô dành cho chúng ta là phải hết sức (“ráng”) chuyên tâm (“săn sóc”) “việc riêng mình”. Tất nhiên “việc riêng mình” có nghĩa chẳng phải là “việc người khác” nhưng nhận thức cho đúng việc gì là “việc riêng mình” là một điều rất quan trọng. Đối với Cơ Đốc Nhân, “việc riêng mình” phải chắc là việc được Đức Chúa Trời chuẩn thuận, và vì vậy, “việc riêng mình” của Cơ Đốc Nhân hoàn toàn khác với “việc riêng” của người chưa được cứu. “Việc riêng mình” của Cơ Đốc Nhân không còn thuần túy là “việc riêng” như ngày xưa khi chưa được cứu. “Việc riêng mình” của Cơ Đốc Nhân phải là bộ phận của “việc Cha” trong đời sống của họ trên đời này vì cả đời sống họ đã trở nên của lễ cho Đức Chúa Trời: “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em.” (Rô. 12:1) “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta.” (Côl. 3:23) Chúng ta vốn biết rằng Satan luôn muốn chúng ta bị lôi cuốn vào công việc của nó, nhưng mỗi một chúng ta đều có phận sự phải hoàn thành “việc Cha”. Ác Giả là Satan luôn muốn chúng ta bị vùi lấp trong nhiều việc khác để xao lãng “việc Cha”. Ý muốn của Đức Chúa Trời là chúng ta phải toàn tâm toàn trí cho công việc mà Đức Chúa Trời đã đặt để chúng ta vào để nổ lực phấn đấu trong sự nương cậy nơi Ngài và chỉ duy nhất nơi Ngài. Cơ Đốc Nhân chẳng những có quyền theo đuổi sinh kế mà họ còn phải tận tụy trong công việc Đức Chúa Trời đã cho phép họ hoạt động trong đời này để làm sinh kế nữa: “7Chính anh em biết điều mình phải làm để học đòi chúng tôi; vì chúng tôi không có ăn ở sái bậy giữa anh em, 8chưa từng ăn dưng của ai, nhưng đêm ngày làm lụng khó nhọc, để khỏi lụy một người nào trong anh em hết. 9Chẳng phải chúng tôi không có quyền lợi được ăn dưng, nhưng muốn làm gương cho anh em, để anh em bắt chước. 10Khi chúng tôi ở cùng anh em, cũng đã rao bảo cho anh em rằng: Nếu ai không khứng làm việc, thì cũng không nên ăn nữa . 11Vả, chúng tôi nghe trong anh em có kẻ ăn ở bậy bạ, chẳng hề làm lụng, trở chăm những sự vô ích thôi. 12Chúng tôi nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ, bảo và khuyên những kẻ đó phải yên lặng mà làm việc, hầu cho ăn bánh của mình làm ra.” (2Tê. 3:7-12) Kinh Thánh dạy Cơ Đốc Nhân phải sống chăm chỉ, lương thiện, trung tín, và hào phóng với mọi người… “Hãy siêng năng mà chớ làm biếng; phải có lòng sốt sắng; phải hầu việc Chúa.” (Rô. 12:11) “Tôi từng bày bảo luôn cho anh em rằng phải chịu khó làm việc như vậy, để giúp đỡ người yếu đuối, và nhớ lại lời chính Đức Chúa Jêsus có phán rằng: Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh.” (Công. 20:35) “Kẻ vốn hay trộm cắp chớ trộm cắp nữa; nhưng thà chịu khó, chính tay mình làm nghề lương thiện, đặng có vật chi giúp cho kẻ thiếu thốn thì hơn.” (Êph. 4:28) “9Hãy khuyên những tôi tớ phải vâng phục chủ mình, phải làm cho đẹp lòng chủ trong mọi việc, chớ cãi trả, 10chớ ăn cắp vật chi, nhưng phải hằng tỏ lòng trung thành trọn vẹn, để làm cho tôn quí Đạo Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, trong mọi đường.” (Tít 2:9-10) III. “NHƯNG TRƯỚC HẾT, HÃY TÌM KIẾM NƯỚC ĐỨC CÚA TRỜI” Nguyên tắc Kinh Thánh cho thấy rằng Cơ Đốc Nhân “phải lo việc Cha” nhưng đồng thời cũng phải ráng “săn sóc việc riêng” của nhà mình để mưu cầu sinh kế, chẳng những cho bản thân mà cũng còn cho cả gia đình. Vậy, nguyên tắc Kinh Thánh nào giúp cho Cơ Đốc Nhân giữ được quân bình giữa hai lĩnh vực hoạt động này? Trước hết, chúng ta cần nhắc lại nguyên tắc làm ích, nguyên tắc tự do, nguyên tắc gây dựng, và nguyên tắc vinh hiển: “Mọi sự tôi có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự tôi có phép làm, nhưng chẳng để sự gì bắt phục được tôi.” (1Cô. 6:12) “Mọi sự đều có phép làm nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đếu làm gương tốt.” (1Cô. 10:23) “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (1Cô. 10:31) Satan không bao chịu giờ ngồi yên để chúng ta làm trọn những điều Đức Chúa Trời kỳ vọng nơi chúng ta. Satan vừa không muốn chúng ta được làm ích, vừa không muốn chúng ta được tự do, cũng chẳng muốn anh chị em trong Chúa của chúng ta được gây dựng, và luôn luôn tìm cách làm cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời bị tổn hại. Vả lại, tự thân chúng ta cũng không có đủ khả năng làm được những điều chúng ta muốn (Gal. 5:17) vì chúng ta hoàn toàn bất lực trong thân xác này (Rô. 7:14). Chúng ta luôn đứng trước nguy cơ bị cám dỗ, không những chỉ bởi Satan mà còn bởi tư dục và thế gian nữa, và đó là điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta không bị mắc mướu (1Gi. 2:15-17). Nguyên tắc bao quát mà chúng ta phải theo là cứ giữ vững địa vị công nghĩa mà mình đã được lập, sống vững vàng đời sống công nghĩa thực hành, bền đỗ trong tiến trình nên thánh: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma. 6:33) Trong các nhân vật Kinh Thánh, thành công trên phương diện mưu sinh không ai bằng được Gióp; cũng chẳng ai phải chịu tổn thất lớn như Gióp; và cũng ít ai kinh nghiệm Chúa được sâu sắc như Gióp: “Ngài chẳng xây mặt khỏi người công bình;_Song Ngài khiến họ đồng ngồi cùng các vua trên ngôi mãi mãi,_Và họ được cao trọng.” (Gióp 36:7) Chính nhờ có được một sự kinh nghiệm sâu đậm như thế mà Gióp đã có thể mạnh mẽ xác quyết: “Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi Ngài;_Nhưng ta sẽ binh vực tánh hạnh ta trước mặt Ngài.” (Gióp 13:15) Thái độ của Gióp cũng chính là thái độ mà Đức Chúa Trời muốn mỗi chúng ta phải có trước mọi thành bại trong những công việc mà chúng ta đã được chứng giải là “việc Cha”, cho dầu đó là công việc trong lĩnh vực mưu sinh, “việc riêng mình”! Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD
“NOI THEO DẤU CHÂN CHÚA JESUS” (1Phi. 2:21-25) “Anh em được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài.” (1Phi. 2:21) “Dấu chân” là một điều không được quen thuộc cho lắm đối với đời sống ở thành phố, nhất là một thành phố lớn như nơi chúng ta đang sống! Muốn hiểu được tầm quan trọng của “dấu chân”, người ta phải đi trên chân của mình trong một cuộc thám hiểm mà lòng họ khát khao; trên một miền đất xa lạ hoàn toàn không có một phương tiện đáng tin cậy nào khác ngoài dấu chân để lại trên đất của người dẫn đường; trong những tình huống mà những sự nguy hiểm luôn rình rập, chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng có thể dẫn đến nguy hiểm chết người… Khi nào phải lái xe theo một người dẫn đường để đến một địa điểm nào đó ở một khu phố lạ với những con đường phức tạp, rất đông người qua lại; bỗng nhiên bị kẹt lại ở phía sau, không còn nhìn thấy biển số xe của người dẫn đường được nữa; rơi vào tình trạng hoang mang không biết nên đi theo con đường nào… Khi ấy sẽ hiểu được ý nghĩa của “dấu chân”! Trên bước đường theo Chúa, “dấu chân Ngài” là một điều cực kỳ quan trọng: “Anh em được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài” (C. 21). CÓ MỘT CON ĐƯỜNG PHẢI ĐI “Anh em đã được kêu gọi đến sự đó…”, đây là lời Sứ Đồ Phierơ viết ra theo sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh. Trong mạch văn của sự dạy dỗ này, có ít nhất hai điều đã được đề cập trong phần trước: (1) Trách nhiệm bản thân, và (2) Phận sự xã hôi. Đời sống mới trong Đức Chúa Jêsus của một người thật sự tin nhận Ngài là một cuộc đổi đời vì một người như thế vốn đã được tái sanh “chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bời Lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời” (1Phi. 1:23). “Đời mới” của Cơ Đốc Nhân không thể được duy trì mà thiếu linh lương là Lời Kinh Thánh: “1Vậy anh em đã từ bỏ mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành, 2thì hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn” (1Phi. 2:1-2). Đời sống mới trong Đức Chúa Jêsus của một người thật sự tin nhận Ngài là một đời sống đầy bông trái thuộc linh, tỏa ra những hương vị ngọt ngào phản ánh các mỹ đức của Đấng Tối Cao đã cứu chuộc, yêu thương, và dắt dẫn họ từ trong nếp nghĩ cho đến lời nói, việc làm: “Anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9). Trách nhiệm cá nhân và phận sự xã hội của Cơ Đốc Nhân quyện vào nhau, thể hiện ra trong đời sống của họ thành một thể thống nhất. Sự vị kỷ trong đời sống Cơ Đốc Nhân phải được khống chế, để rồi sự vị tha được thể hiện ra theo đủ các chiều kích phải có của nó: “11Hỡi anh em rất yêu dấu, anh em như người ở trọ, kẻ đi đường, tôi khuyên phải kiêng những điều xác thịt ưa thích, là điều chống trả với linh hồn. 12Phải ăn ở ngay lành giữa Dân Ngoại, hầu cho họ, là kẻ vẫn gièm chê anh em như người gian ác, đã thấy việc lành anh em, thì đến ngày Chúa thăm viếng, họ ngợi khen Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:11-12). Đời sống Cơ Đốc là đời sống vâng phục. Chẳng phải chỉ có vâng phục Đức Chúa Trời, Cơ Đốc Nhân còn phải vâng phục trật tự xã hội mà Đức Chúa Trời đã thiết lập: “13Vì Cớ Chúa, hãy phục theo mọi phép tắc loài người lập lên, hoặc vua, như đấng rất cao, 14hoặc các quan, như người vua sai ra để phạt kẻ làm dữ và khen người làm lành… 17Hãy kính mọi người; yêu anh em; kính sợ Đức Chúa Trời; tôn trọng vua” (1Phi. 2:13-14, 17). Đức vâng phục của Cơ Đốc Nhân được phản ánh ngay cả trong quan hệ sản xuất của xã hội: “18Hỡi kẻ làm tôi tớ, hãy lấy lòng rất kính sợ mà phục theo chủ mình, chẳng những phục người chủ hiền lành mà thôi, lại phải phục người chủ khó tánh nữa. 19Vì nhân cớ lương tâm đối với Đức Chúa Trời, mà chịu khốn nạn trong khi bị oan ức, ấy là một ơn phước. 20Vả, mình làm điều ác, bị đánh mà hay nhịn chịu, thì có đáng khoe gì? Nhưng nếu anh em làm lành mà nhịn chịu sự khốn khó, ấy là một ơn phước trước mặt Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:18-20). CÓ MỘT CON ĐƯỜNG CHÚA ĐÃ ĐI Nếu Đức Chúa Jêsus chỉ là một vị thầy lỗi lạc cũng như bao vĩ nhân khác trong thế gian này; nếu Ngài cũng chỉ có thể đưa ra những lời kêu gọi suông chứ không có gì khác hơn thì chúng ta, những người tin theo Ngài, cũng sẽ chẳng được gì hơn là những lời giáo huấn cao thượng bất khả thi. Điều khác biệt giữa Cơ Đốc Giáo với các tôn giáo khác là quyền năng Thiên Thượng. Sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus không phải chỉ là những lời lý thuyết suông, chính Ngài đã nêu gương cho những người tin Ngài thực hành theo: “Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài…” (1Phi. 2:21). “Gương” (Gk. Hupogrammos) được đề cập ở đây là một từ liệu Hylạp nói về một khuôn mẫu cho người khác dựa vào đó để làm theo giống như một người tập viết đồ theo nét chữ của thầy mình viết ra . Những gì Đức Chúa Jêsus kêu gọi chúng ta làm, Ngài đều đã làm mẫu cho chúng ta: “22Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không thấy có chút chi dối trá; 23Ngài bị rủa mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề ngăm dọa, nhưng cứ phó mình cho Đấng xử đoán công bình” (1Phi. 21-23). Sống đời sống Cơ Đốc là sống trong quyền năng của Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Jêsus. Để sống được đời sống Cơ Đốc, người ta phải tiếp nhận sự sống Cơ Đốc trước: “Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự công bình; lại nhân những lằn đòn của Ngài mà anh em được lành bịnh” (1Phi. 2:24). Đức Chúa Jêsus không những chỉ ra cho chúng ta chân lý mà chính Ngài là chân lý và là con đường đem chúng ta đến chân lý: “Vậy, Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Gi. 14:6). Đức Chúa Jêsus không phải chỉ dạy suông cho chúng ta những điều cao thượng mà Ngài ban cho chúng ta linh năng để sống sự sống Thiên Thượng ngay trong đời thường: “Hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Gi. 1:12). CÓ MỘT CON ĐƯỜNG ĐẸP Ý CHÚA Con đường Đức Chúa Jêsus đã đi là con đường sống đẹp ý Cha Ngài. Đức Chúa Jêsus sống để làm đẹp ý Đức Chúa Cha và rồi lưu lại cho chúng ta một mẫu mực, đồng thời cũng ban luôn cho chúng ta năng lực, để chúng ta noi theo. Mẫu mực ấy là mẫu mực về đức tin. Dấu chân của Đức Chúa Jêsus là dấu chân về đức tin. Dấu chân Ngài không phải chỉ toàn bằng những bước đi hanh thông giữa tiếng tung hô ngưỡng mộ. Dấu chân Đức Chúa Jêsus đã từng đi lắm khi phải chịu cả sự hằn học của đám đông cuồng nộ! Dấu chân Đức Chúa Jêsus đã từng đi gồm luôn cả những bước đi khó nhọc dưới sự hại hành của kẻ thù Ngài và sức nặng của thập tự giá Ngài trên đồi Gôgôtha, và đó là những bước chân rướm máu đức tin! Dầu vậy, “Anh em được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài”. “Sự đó” là gì? Ấy chính là đức tin vâng phục. Con đường đẹp ý Chúa là con đường vâng phục trong đức tin. Chúng ta đã được kêu gọi tin cậy gì ở Đức Chúa Trời? Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời có quyền năng ra sao trong việc thay đổi lối sống của chúng ta? Điều gì khiến chúng ta vững tin rằng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời cũng đồng thời ban quyền năng cho đời sống chúng ta được thay đổi? Điều được biểu lộ trước hết trong dấu chân Đức Chúa Jêsus là đức tin của Ngài về sự tể trị của Đức Chúa Trời. Hãy xem lại lời dạy trong 1Phi. 2:13-17. Đây là những lời dạy dỗ các tín hữu về cách ăn ở đối với chính quyền. Đừng quên rằng những lời này không phải viết cho những tín hữu đang được sống dưới sự cai trị anh minh của các bậc minh quân. Những lời này viết để hướng dẫn cho các tín hữu đang chịu sự kềm kẹp trong nanh vuốt của hoàng đế Nero. Trong lịch sứ nhân loại, khó có thể tìm ra được một người nào khác có cách đối đãi tàn tệ với Cơ Đốc Nhân hơn người này! Có tài liệu cho biết rằng Nero có sở thích lái chiến xa chạy quanh thành Rôma vào ban đêm. Để có ánh sáng cho trò chơi của mình, Nero ra lệnh cho thủ hạ tìm bắt những người tin theo Đức Chúa Jêsus, buộc họ vào những cây cột dọc hai bên đường, tẩm dầu trên người họ rồi đốt lên làm đèn đường soi sáng cho Nero tiêu khiển mỗi đêm! Dầu vậy, ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với các con cái của Ngài vẫn cứ là “Vì Cớ Chúa, hãy phục theo mọi phép tắc loài người lập lên…”. Trong 1Phi. 2:13, 15, 16, 17; mỗi câu đều có ít nhất một tổ hợp từ độc đáo để nêu cho biết lý do vì sao phải làm theo các sự dạy dỗ ấy: : “Vì cớ Chúa” (C. 13), “ Để ngăn miệng những kẻ ngu muội, dại dột” (C. 15), “Ấy là ý muốn của Đức Chúa Trời” (C. 15), “Là tôi mọi Đức Chúa Trời” (C. 16), “Kính sợ Đức Chúa Trời” (C. 17). Lẽ thật căn bản của tất cả những điều này là gì? Đó chính là sự dạy dỗ về sự tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Dầu gian ác đến độ cùng cực như hoàng đế Nero, điều ấy vẫn ở dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời: “Mọi người phải vâng pục các Đấng cầm quyền ở trên mình; vì chẳng có quyền nào mà không đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định” (Rô. 13:1). Đức Chúa Trời còn đòi hỏi chúng ta đức tin về sự công nghĩa của Ngài: “Hỡi kẻ làm tôi tớ, hãy lấy lòng rất kính sợ mà phục theo chủ mình, chẳng những phục người chủ hiền lành mà thôi, lại phải phục người chủ khó tánh nữa” (1Phi. 2:18). Không thể tưởng tượng được còn có hoàn cảnh nào khó khăn hơn thế! “Khó tánh” (Gk. skolios) được nói đến ở đây là một từ liệu Hylạp có nghĩa là “quái ác”, “quá quắc”, “khắc nghiệt”,… Nói chung là tất cả những gì “ác ôn’ nhất mà người ta có thể nghĩ ra được đều là “skolios”! Điều Đức Thánh Linh muốn dạy dỗ chúng ta qua ngòi viết của Sứ Đồ Phierơ ở đây là cho dầu trong một hoàn cảnh mà sự bất công là điều mặc nhiên và thường xuyên thì hoàn cảnh ấy vẫn thuộc trong sự tể trị của Đức Chúa Trời. Đừng hiểu lầm rằng Kinh Thánh ủng hộ cho chế độ nô lệ. Mặc dầu sứ điệp Kinh Thánh là sứ điệp giải phóng cho thoát khỏi sự cầm buộc của mọi loại chủ nô gian ác, Lời Kinh Thánh muốn người ta có đức tin nơi một Đức Chúa Trời chẳng những của sự tể trị mà còn là của sự công nghĩa. Lẽ thật căn bản ở đây là chính Đức Chúa Trời sẽ thi hành sự công nghĩa của Ngài, còn phận sự của những người theo Ngài là phải có một đức tin vâng phục – tất nhiên là trong giới hạn không khiến cho vi phạm các sự dạy dỗ của Ngài vì “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” (Công. 5:29). Đức tin nơi sự công nghĩa của Đức Chúa Trời giúp người tín hữu sống vâng phục. Đời sống vâng phục của người tín hữu vừa là bằng chứng của quyền năng Đức Chúa Trời, vừa là yếu tố để quyền năng của Ngài hiển thị và đắc thắng. Sứ Đồ Phaolô làm chứng về điều ấy như sau: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phil. 4:13). “Tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cô. 12:10). Noi theo dấu chân Đức Chúa Jêsus là noi theo đức tin của Ngài, và đức tin trong Đức Chúa Jêsus là đức tin cứu chuộc: “Vì anh em vốn giống như con chiên lạc, mà bây giờ đã trở về cùng Đấng Chăn Chiên và Giám Mục của linh hồn mình” (1Phi. 2:25). Đức Chúa Jêsus không phải chỉ dạy suông cho chúng ta những điều cao thượng mà Ngài ban cho chúng ta linh năng để sống sự sống Thiên Thượng ngay trong đời thường. Trước khi đòi hỏi chúng ta thực hiện các tiêu chuẩn Thiên Đàng Ngài chuộc chúng ta ra khỏi Địa Ngục, ấn chứng cho chúng ta bằng chính Thánh Linh của Ngài, ban quyền năng cho chúng ta noi theo dấu chân của Ngài cho đến cuối cùng: “13Ấy lại cũng trong Ngài mà anh em sau khi nghe Đạo chân thật, là Đạo Tin Lành về sự cứu rỗi anh em, ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, 14Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để ngợi khen sự vinh hiển Ngài” (Êph. 4:13-14). Những ai thành tâm và trung tín trong việc theo Chúa đều phải nhận lấy sự đòi hỏi “Noi Theo Dấu Chân Đức Chúa Jêsus”. Dấu chân của Đức Chúa Jêsus là dấu chân của đức tin nơi quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời, đức tin nơi sự công nghĩa tuyệt đối của Đức Chúa Trời, và đức tin nơi quyền năng cứu chuộc đời đời của Đức Chúa Trời. Dầu rằng khi noi theo dấu chân Đức Chúa Jêsus, người tín hữu có lúc phải đi những bước lao đao trải qua những chặng đường gian truân, nhưng Ngài đã ban cho họ Đức Thánh Linh để khỏi lạc mất dấu chân Ngài. Chính Đức Chúa Jêsus, bởi Thánh Linh của Ngài, sẽ dắt dẫn các con cái vâng phục của Ngài đến bến bờ vinh hiển! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“NHỮNG KẺ ĐÓI KHÁT SỰ CÔNG BÌNH” (Ma. 5:6) “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ.” (Ma. 5:6) Trên một chừng mực nhất định, các thủ thuật quảng cáo của ngành thương nghiệp hiện đại có thể nhắc chúng ta về các bài học thuộc linh của Đức Chúa Jêsus. Ngành quảng cáo hiện nay chi tiêu tiền tỷ để bắt chúng ta phải ghi nhớ các khẩu hiệu và hình ảnh họ muốn. Người ta chi tiêu rất nhiều tiền cho việc ấy vì họ hiểu rõ giá trị của việc họ làm: Việc họ làm nhất định sẽ có tác dụng cao. Các nhà quảng cáo chuyên nghiệp biết rằng họ có thể chèn vào tâm trí chúng ta những gì họ muốn để tạo ảnh hưởng trên sự chọn lựa của chúng ta. Các nhà khoa học về quảng cáo gọi tiền bỏ ra để quảng cáo là tiền để “mọc rễ” trong đầu người khác: Sự quảng cáo có khoa học không nài ép người khác mua sản phẩm của họ ngay lập tức, nhưng nhất định các nổ lực quảng cáo sẽ chi phối sự quyết định sẽ có trong tương lai của các khách hàng tiềm năng. Các nhà nghiên cứu về quảng cáo hiện đại tỏ ra đã nắm bắt được tinh túy trong nghệ thuật giảng dạy của Đức Chúa Jêsus từ hơn hai mươi thế kỷ trước: Đức Chúa Jêsus luôn sử dụng hình ảnh đi kèm với khái niệm để tạo ấn tượng mạnh cho người nghe hầu họ nhận thức được sự dạy dỗ của Ngài: “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ.” (Ma. 5:6) “Đói” và “khát” là những kinh nghiệm hết sức quen thuộc đối với mọi cơ thể sống, đối với tất cả mọi người. Một khi lâm vòng đói, khát người ta sẽ cố gắng hết sức mình để thỏa mãn cho được. Liệu chúng ta, về nguyên tắc là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có dốc lòng “đói khát” về sự công bình theo như Đức Chúa Trời muốn hay không? I. ĐỐI TƯỢNG Về bản chất, “Sự Công Bình” luôn luôn đòi hỏi phải có “Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất công bình, sự công bình đúng nghĩa duy nhất thuộc về Ngài, vì “Sự Công Bình” là một trong các thuộc tính của Ngài: “Hỡi Đức Giêhôva, Ngài là công bình_Sự đoán xét của Ngài là ngay thẳng.” (Thi. 119:137) “Bấy giờ, các kẻ làm đầu của Ysơraên và vua đều hạ mình xuống, mà nói rằng: Đức Giêhôva là công bình.” (2Sử. 12:6) “Pharaôn bèn truyền đòi Môise và Arôn mà phán rằng: Đức Giêhôva là công bình; trẫm và dân sự trẫm là kẻ phạm tội.” (Xuất. 9:27) Sự công bình tuyệt đối chỉ hiện diện trong Vương Quốc Đức Chúa Trời, ở đó người ta chẳng những hưởng được sự công bình mà còn được tận hưởng mọi điều tốt đẹp từ nơi Ngài: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma. 6:33) Như vậy, “Đói khát sự công bình” chính là “đói khát” về Đức Chúa Trời. Người “đói khát” về Đức Chúa Trời là người “có lòng khó khăn” (Ma. 5:3), là người biết mình vốn đã bị phá sản trên phương diện thuộc linh, bị cầm tù trong thân phận tội nhân. Một khi người ta “có lòng khó khăn”, họ sẽ “than khóc” (Ma. 5:4) về hiện trạng của mình. Sự quặn thắt thuộc linh giúp họ đến được với Đức Chúa Trời để nhận sự cứu rỗi trong Đức Chúa Jêsus, được xưng công bình, và sẽ được “yên ủi” bằng sự cứu chuộc trọn vẹn của Ngài. Chỉ những người đã thực sự nhận được sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus mới có thể là người “nhu mì” (Ma. 5:5): Họ thuận phục thẩm quyền của Đức Chúa Trời chứ không cậy sức riêng của mình. Đức Chúa Trời hứa sẽ ban cho những người như thế được cùng cai trị thế gian này với Ngài, họ sẽ là chủ nhân đời đời của thế giới. Ngược lại, những ai đang tranh đoạt thế giới này bằng năng lực con người chỉ có thể chiếm dụng tạm thời mà thôi. Một khi người ta chịu thuận phục Đức Chúa Trời, họ sẽ có niềm khát khao về chính Ngài (Ma. 5:6). Thật ra, người ta không thể nào có thể có một sự “đói khát” về Đức Chúa Trời nếu họ chưa biết mình bị băng hoại về thuộc linh, có lòng ăn năn về tội lỗi, nhận được sự tha tội và ý chí thuận phục thẩm quyền của Đức Chúa Trời trên đời sống của mình. II. YÊU CẦU “Phước” và “sự vui sướng” hoàn toàn khác nhau. Thật ra, những ai được “phước” cũng đồng thời là người có được sự vui sướng vô ngần; nhưng “phước” không thể bị giảm hạ xuống chỉ còn là “sự vui sướng” mà thôi. Theo sự bày tỏ của Kinh Thánh, chẳng những loài người được Đức Chúa Trời ban phước mà họ cũng còn có thể “chúc phước” Đức Chúa Trời nữa. Được ban phước, về căn bản, có nghĩa là được chuẩn thuận. Khi một người “được phước”, có nghĩa là người ấy được Đức Chúa Trời chuẩn nhận, và điều ấy luôn luôn là một sự hạ cố của Đức Chúa Trời đối với loài người. Ngược lại, hành động “chúc phước” của con người đối với Đức Chúa Trời luôn luôn là một sự tán dương đối với Ngài để bày tỏ lòng hoan nghênh, biết ơn, hưởng ứng,… đối với Ngài. Con người “chúc phước” Đức Chúa Trời qua việc tán tụng, ngợi khen Ngài. Vì Đức Chúa Trời là Đấng Chủ Tể của cả vũ trụ, không còn có phước nào lớn hơn là được Ngài hạ cố chuẩn nhận. “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình” là một lời dạy dỗ nhằm mời gọi chúng ta tìm kiếm sự chuẩn nhận của Đấng có giá trị tuyệt đối và đời đời. Điều gì quan trọng hơn, đáng khát khao, tìm kiếm hơn giữa hai điều này: (1) Được sự chuẩn nhận của gia đình, bạn bè, cấp trên,… hay (2) được sự chuẩn nhận của Đức Chúa Trời? Đối với các Cơ Đốc Nhân có lòng khát khao sống để làm đẹp ý Đức Chúa Trời, lời dạy dỗ này không những là một sự mời gọi mà còn là một sự khích lệ lớn lao đối với họ nữa. Khi một môn đồ của Đức Chúa Trời “đói khát sự công bình”, điều ấy không có nghĩa là họ muốn được công bình “nhiều hơn”. Sự công bình là sự công bình, theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời, không thể có một sự công bình khiếm khuyết hay què quặt được. “Đói khát sự công bình” là tấm lòng của Cơ Đốc Nhân biết khát khao được mật thiết hơn trong sự hiểu biết và mối tương giao với Đức Chúa Trời như người khát cần nước uống, người đói cần thức ăn. “Đói khát” (Gk. peinao) nói về hành vi muốn được có một cách đầy trọn để đáp ứng cho nhu cần sống hàng ngày. Người “đói khát sự công bình” là người muốn có Đức Chúa Trời một cách hoàn toàn, không thiếu sót bất cứ một phần nào hay một phương diện nào cả: “7Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy. 8Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ 9và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải sự công bình của tôi bởi Luật Pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin; 10cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết.” (Phil. 3:7-10) Kinh Thánh đề cập về sự công bình của Đức Chúa Trời trên ba phương diện: (1) Sự công nghĩa địa vị, (2) sự công nghĩa thực hành, và (3) sự công nghĩa xã hội. Khi một người nhận thức được thân phận tội nhân của mình và ăn năn, người ấy bèn dâng mình trở lại cho Đức Chúa Trời qua và trong Đức Chúa Jêsus. Một người như thế sẽ từ chỗ bị phân cách với Đức Chúa Trời trở nên con cái của Ngài. Một người như thế sẽ được tái lập vào trong mối quan hệ công chính với Đức Chúa Trời nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus, được đặt vào địa vị công nghĩa theo sự chuẩn nhận của Đức Chúa Trời, người ấy sẽ nhận được sự công nghĩa địa vị: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” (Gi. 1:12) Sự công nghĩa thực hành nói về việc Cơ Đốc Nhân phải sống đời sống trong sạch, thánh khiết thích hiệp với địa vị công nghĩa mà họ đã được Đức Chúa Trời chuẩn nhận. Đó là một đời sống đã được giải thoát khỏi sức mạnh của tội lỗi. Người thực tâm “đói khát sự công bình” có niềm khát khao được giải thoát khỏi đời sống vị kỷ, được ban quyền năng để sống vị tha như Đức Chúa Jêsus. Người thực tâm “đói khát sự công bình” khát khao có được năng lực vâng lời Đức Chúa Trời luôn luôn và lớn lên không ngừng trong đức tin. Người thực tâm “đói khát sự công bình” khát khao từ bỏ được ngày càng nhiều hơn các vi phạm đối với ý muốn của Đức Chúa Trời, vì họ “đói khát” Ngài, muốn sống vâng lời Ngài… Sự công nghĩa xã hội nói về ý chỉ và tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời cần phải được thực thi trong đời sống xã hội. Ý muốn của Đức Chúa Trời là xã hội phải công bằng và bác ái. Kinh Thánh dạy mọi người trong xã hội phải sống hòa thuận và bình đẳng với nhau (hòa bình). Mọi Cơ Đốc Nhân chân chính đều phải tích cực hành động để các tiêu chuẩn xã hội thể hiện được ý chỉ của Đức Chúa Trời là Đấng mà họ “đói khát”. “Đói khát sự công bình” tức là “đói khát” chính Đức Chúa Trời. Đây là dấu hiệu độc đáo của Cơ Đốc Giáo. Trong tất cả các tôn giáo trên thế gian này, mỗi tôn giáo đều có trọng tâm riêng của mình. Trọng tâm của Phật Giáo là Đức Phật. Trọng tâm của Hồi Giáo là Mohammed. Trọng tâm của Ấn Giáo là Krishna. Và, trọng tâm của Cơ Đốc Giáo là Đức Chúa Jêsus. Tuy nhiên, nếu hỏi tín đồ của các tôn giáo phi Cơ Đốc về sự cứu rỗi của họ, họ sẽ trả lời bằng cách chỉ ra một lối sống nào đó. Tín đồ Phật Giáo sẽ không chỉ Đức Phật là sự cứu rỗi của họ mà là Phật Pháp (Tứ Diệu Đề, Bát Chính Đạo,…), tín đồ Hồi Giáo sẽ không chỉ Mohammed là sự cứu rỗi của họ mà là Kinh Koran, tín đồ Ấn Giáo sẽ không chỉ Krishna là sự cứu rỗi của họ mà là Kinh Bhagavad-gita. Ngược hẳn lại với các tôn giáo phi Cơ Đốc, Đức Chúa Jêsus tự khải thị Ngài là Chân Lý. Đức Chúa Jêsus không chỉ đường cho nhân loại đến với sự cứu rỗi mà Ngài cung ứng cho nhân loại chính tự thân Ngài là sự cứu rỗi: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha.” (Gi. 14:6) Người ta không thể nào có được sự công bình đích thực mà chưa có được chính hiện thân của sự công bình là Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus. Phải tiếp nhận Ngài làm Chúa và Cứu Chúa của mình, nhiên hậu người ta mới được xưng công nghĩa địa vị, được ban cho hoài bão và năng lực sống đời sống công nghĩa thực hành và dấn thân cho sự công nghĩa xã hội. III. KẾT QUẢ Đức Chúa Jêsus bày tỏ rằng người “đói khát sự công bình” “sẽ được no đủ”. Từ liệu Hylạp được dùng ở đây là chortazo, một từ liệu nói về sự thỏa lòng do được đáp ứng mọi nhu cần. “Đói khát sự công bình” chính là đói khát sự nhận biết, thông hiểu trọn vẹn về Đức Chúa Trời để sống theo đó mỗi ngày, đạt được sự chuẩn nhận của Ngài, lấy đó làm sự “no đủ” cho đời sống mình; ngoài ra, không còn cần bất cứ điều gì khác hơn, và cũng chẳng còn điều gì khác hơn để mà cần (Ma. 6:33). Từ liệu “được no đủ” được dùng theo cách thụ động, hàm ý rằng đây không phải là điều mà người ta có thể tự làm nên được. “Được no đủ” là một việc đến bởi Đức Chúa Trời, việc này chỉ xảy ra một cách giới hạn cho những ai “đói khát” Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus. Theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, loài người không bao giờ tự thỏa mãn mình được, họ không nên theo đuổi tư dục mình mà phải “đói khát sự công bình” là biết khát khao chính Ngài. Một khi người ta biết đổi lòng để theo đuổi Cứu Chúa, họ không còn cần gì hơn vì mọi sự đều gồm đủ trong Ngài: “Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài không xiết kể.” (2Cô. 9:15) Từ liệu “đói khát” được viết ở thì hiện tại, điều ấy diễn đạt một nhu cần hiện thời, một hành vi đang được tiến hành. Khi người ta đói khát về thuộc thể, để có thể sống khỏe mạnh, sự đói khát ấy phải được thỏa mãn. Tương tự như vậy, việc thỏa mãn được sự đói khát thuộc linh sẽ giúp cho Cơ Đốc Nhân tăng trưởng. Người thực lòng “đói khát” Đức Chúa Trời biết tìm kiếm Ngài qua Lời Kinh Thánh: "Hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn." (1Phi. 2:2) Trên phương diện thực tế và thực hành, có nhiều mức độ “đói khát sự công bình” khác nhau giữa vòng các Cơ Đốc Nhân. Một người có thể thấy cần Đức Chúa Trời, tin Đức Chúa Trời nhưng chủ yếu họ vẫn dựa vào sức riêng của mình. Đây mới chỉ là loại người “có lòng khó khăn” mà thôi! Một mức độ cao hơn là người ta thấy cần Ngài cho đời sống mình: Đây chính là loại Cơ Đốc Nhân biết “than khóc”! Cơ Đốc Nhân biết “than khóc” có thể sẽ trở thành “kẻ nhu mì” là những Cơ Đốc Nhân có tinh thần vâng phục, có đời sống kết ước, và sự kết ước của họ có bông trái; nhưng cũng có thể họ chỉ dừng lại ở đó: Đôi khi họ thấy mình bất lực, cần có Chúa, nhưng thường thường Chúa đối với họ chỉ giống như một hình thức trang điểm của đời sống. Chỉ khi nào người ta thấy mình không thể nào sống thiếu Đức Chúa Trời được, khi ấy người ta mới thực sự “đói khát sự công bình”! Đường ngắn nhất giữa hai điểm là một đường thẳng. Đường ngắn nhất để đến với sự no đủ trên mọi phương diện là đến với Đức Chúa Trời, vì trong Ngài có đủ mọi sự: “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ.” (Ma. 5:6) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“NGỌT NGÀO TỪ NHỮNG ĐẮNG CAY TRONG ĐỜI” (Xuất. 15:22-27) “Ta là Đức Giêhôva, Đấng chữa bịnh cho ngươi.” (Xuất. 15:26) Cuộc đời đầy dẫy những nỗi đắng cay, nếu để bị chôn vùi trong cay đắng, thế giới không sao có được các vĩ nhân như Franklin D. Roosevelt, Helen Keller, Winston Churchill, Albert Schweitzer, Clara Barton, Gandhi, Einstein, Freud,… Sự khảo sát về các nhân vật nổi tiếng trên một số lĩnh vực khác nhau cho chúng ta tìm được những điều rất đáng chú ý: (1) 75% trong số họ có một thời niên thiếu lận đận do gia cảnh nghèo thiếu, tan vỡ, bị ruồng bỏ, bị ngược đãi,… (2) Trong số 85 nhà văn viết tiểu thuyết và kịch bản nổi tiếng nhất, có 74 vị đã từng phải chịu đựng những căng thẳng tâm lý trong gia đình thuở thiếu thời. (3) Có khoảng 25% những người tài giỏi nhất mắc một (hoặc vài) khiếm khuyết thể hình nào đó. Trong những điều đắng cay mà Đức Chúa Trời cho phép xảy ra trên đời sống của chúng ta luôn luôn có triển vọng của sự ngọt ngào thắm đượm hương vị Thiên Đàng dành cho những đời sống vâng lời. Một đời sống vâng lời phải biết chọn cho mình thái độ tốt để có được giải pháp tốt và triển vọng tốt theo ý chỉ Thiên Thượng. I. THÁI ĐỘ TỐT Khi Môise dắt dẫn Dân Sự ra khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, tiến vào đồng vắng Surơ, đoàn dân đông đã bị lâm vào cảnh khát nước nghiêm trọng. Thay vì phải dừng lại, cầu nguyện để xin Đức Chúa Trời ban cho một giải pháp, họ lại lấy sức riêng để tự tìm kiếm cách giải quyết cho mình. Kết quả thật đáng buồn: Họ tìm được nước tại Mara (Hb. Marah: đắng), nhưng nước đắng quá uống không được! “22Đoạn, Môise đem dân Ysơraên đi khỏi Biển Đỏ, đến nơi đồng vắng Surơ; trọn ba ngày đi trong đồng vắng, kiếm chẳng được nước đâu cả. 23Kế đến đất Mara, nhưng vì nước tại đó đắng, uống chẳng được, nên chi chỗ nầy gọi là Mara.” (Cc. 22-23). Một ngày kia, khi Naômi đang ngụ cư trên đất Môáp, nghe nói rằng xứ mình đã thoát khỏi nạn đói, bèn quyết định trở về lại quê hương (Ru. 1:6). Đến Bếtlêhem, ai nấy nghe tin Naômi đã trở về cũng đều đến chúc mừng. Tủi thân vì cả chồng cùng hai người con trai đều đã bỏ mình ở Môáp trong nạn đói; Naômi bảo mọi người hãy gọi mình là Mara, nghĩa là cay đắng, vì phận mình chỉ trải qua toàn những nỗi đắng cay (Ru. 1:20). Naômi đã bị những nỗi đắng cay trong đời làm cho cay đắng, chỉ thấy Đức Chúa Trời là đáng trách. Phản ứng tự nhiên của chúng ta trước những điều bất như ý luôn luôn là than oán: “24Dân Sự bèn oán trách Môise: Chúng tôi lấy chi uống?” (C. 24) Đó cũng là phản ứng của vợ Gióp khi Gióp đột nhiên mất tất cả những gì ông đã có: Chẳng những mất hết bò, lừa, chiên, lạc đà, tôi trai, tớ gái mà bảy người con của Gióp cũng mất! Vợ Gióp trở nên hết sức cay đắng, bà bảo Gióp “Hãy phỉ báng Đức Chúa Trời và chết đi” (Gióp 2:9). Trong suy nghĩ nông cạn của vợ Gióp chỉ còn một nỗi tuyệt vọng, và giải pháp tốt nhất là thôi đừng nương cậy Chúa nữa. Thế nhưng, Gióp đã tỏ ra là một mẫu mực vâng phục Chúa, ông bảo vợ: “Ngươi nói như một người đàn bà ngu muội. Ủa sao! Sự phước mà tay Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?” (Gióp 2:10) Nguyện vọng của Dân Sự khi thiếu nước uống cũng tương tự, họ đòi hỏi Môise phải đưa ra cho được một giải pháp theo ý muốn của họ ngay lập tức. Dân Sự kêu ca (Hb. Luwn: kêu ca) nhưng Môise đã biết cầu xin. Dân Sự phàn nàn Môise, nhưng sức ép từ hai triệu con người đã không khiến Môise làm theo họ là “phàn nàn” Đức Chúa Trời. Môise đã biết van xin Ngài ban cho một giải pháp (Hb. Tsa’aq: kêu khóc): “25aMôise kêu van Đức Chúa Trời …” (C. 25) “Lằm bằm” không bao giờ là một thái độ tốt, “lằm bằm” sẽ không đem lại được một giải pháp tốt, và vì vậy mà sẽ không thể có triển vọng tốt được: “Lại cũng chớ lằm bằm như mấy người trong họ đã lằm bằm mà bị chết bởi kẻ hủy diệt” (1Cô. 10:10). Đức Chúa Trời dạy chúng ta trong tất cả mọi việc đừng bao giờ lằm bằm (Gk. gogguzo) hay tranh cãi thì chúng ta mới có thể trở nên trong sạch, không có điều chi chê trách được: “14Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự. 15Hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian.” (Phil. 2:14-15) Các tín hữu của Đức Chúa Trời, tức những người được Chúa chọn để sử dụng, là những người phải biết nhờ cậy sự dắt dẫn, sự cung cấp, và sự điều chỉnh của Ngài. II. GIẢI PHÁP TỐT Việc Đức Chúa Trời đưa chúng vào những tình thế bất bình thường không phải là một việc lạ. Lắm khi chúng ta phải đối đầu với những chuyện rắc rối, thậm chí rắc rối một cách “vô lý” - cả thể xác lẫn tinh thần. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời có mục đích theo ý tốt của Ngài: “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.” (Rô. 8:28) Đức Chúa Trời có quyền làm bất cứ gì Ngài muốn trên đời sống của chúng ta theo ý tốt của Ngài. Đôi khi, Đức Chúa Trời cho phép các điều kiện của chúng ta bị sa sút để chúng ta biết nhờ cậy Ngài làm cho tình huống trở nên tốt hơn. Thay vì cầu xin Chúa ban cho một giải pháp, dân Ysơraên đã phiền trách cay đắng đối với Môise. Đức Chúa Trời không bao giờ đẹp ý với những ai đòi hỏi một giải pháp theo ý riêng. Bằng một cách nhân từ, Đức Chúa Trời đã ban cho Môise một giải pháp cho tình huống: “25bNgài bèn chỉ cho người một cây gỗ, người lấy liệng xuống nước, nước bèn hóa ngọt. Ấy tại đó, Đức Giêhôva định luật lệ cùng lập pháp độ cho Dân Sự, và tại đó Ngài thử họ.” (C. 25b) Đây là sự vận động của một phép lạ từ Đức Chúa Trời. Cách viết trong Tiếng Hêbơrơ của từ liệu này cho thấy rằng cây được nói đến ở đây có tố chất đắng, như vậy càng làm rõ hơn tính siêu nhiên của phép lạ. Yếu tố này không nên bỏ qua: Tục ngữ Việt Nam có câu “Thuốc đắng giã tật”. Sự áp dụng thuộc linh ở đây là “Phải biết hòa tan cay đắng trong những điều đắng cay để không còn cay đắng!”. Đấng Mêsia thống khổ chịu thương khó trên cây gỗ thống khổ đem lại sự giải cứu ngọt ngào cho toàn thể nhân loại… Tội nhân đắm chìm trong đắng cay của tội lỗi nếu biết ăn năn một cách cay đắng về tội lỗi mình, bằng lòng tiếp nhận công trình đền tội thay đầy đắng cay của Đức Chúa Jêsus sẽ nhận được ân điển dồi dào… Cơ Đốc Nhân chỉ thực sự được bình an, thanh thản khi biết hòa tan cay đắng riêng của mình vào nỗi đắng cay lớn mà Đức Chúa Jêsus Christ đã phải chịu cho họ: “1Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta cũng nên quăng hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta, 2nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin, tức là Đấng vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, và hiện nay ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời. 3Vậy, anh em hãy nghĩ đến Đấng đã chịu sự đối nghịch của kẻ tội lỗi dường ấy, hầu cho khỏi bị mỏi mệt sờn lòng.” (Hê. 12:1-3) Đức Chúa Trời sử dụng những thời điểm gieo neo để thử lòng trung tín của chúng ta. Chúng ta phải biết để cho Đức Chúa Trời làm cho chúng ta trở nên tốt đẹp hơn chứ đừng để tình huống đè bẹp chúng ta. Chúng ta dễ bị ngã lòng vì chúng ta thường sống trong sự nhận thức sai. Chúng ta tưởng rằng vì mình đã được cứu, đã thuộc về Hội Thánh nên mọi sự phải ngọt ngào, êm thuận, thú vị luôn luôn! Chúng ta hầu như quên mất ý nghĩa đích thực của sự bình an trong Đức Chúa Jêsus là gì: “Ta đã bảo cho các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong Ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, Ta đã thắng thế gian rồi!” (Gi. 16:33) Chúng ta phải từ bỏ thái độ than phiền để có thể cảm tạ Đức Chúa Trời. Chúng ta sẽ không thể nào cảm tạ nếu chúng ta không nhớ đến những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta. Chúng ta không thể nào không cảm tạ nếu còn nhớ được rằng chúng ta đã được cứu thoát khỏi sự hư mất đời đời; đã được giải thoát khỏi nanh vuốt của các kẻ cựu thù là thế gian, xác thịt và Ma Quỉ; đã được gọi vào chức phận cao trọng là làm con cái và tôi tớ của Đức Chúa Trời… “1Tôi nhịn nhục trông đợi Đức Giêhôva,_Ngài nghiêng qua nghe tiếng kêu cầu của tôi._2Ngài cũng đem tôi lên khỏi hầm gớm ghê,_Khỏi vũng bùn lấm;_Ngài đặt chân tôi trên hòn đá,_Và làm cho bước tôi vững bền._3Ngài để nơi miệng tôi một bài hát mới,_Tức là sự ngợi khen Đức Chúa Trời chúng tôi._Lắm người sẽ thấy điều đó, bắt sợ,_Và nhờ cậy nơi Đức Giêhôva.” (Thi. 40:1-3) III. TRIỂN VỌNG TỐT Đức Chúa Trời không thể nào thăng tiến được cho những con người không tỏ ra vâng lời trong mọi tình huống . Đức Chúa Trời có quyền khiến cho những việc dịu dàng nhất trở nên chát chúa để tập cho chúng ta biết nương cậy Chúa trong mọi điều: “26Ngài phán rằng: Nếu ngươi chăm chỉ nghe lời Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, làm sự ngay thẳng trước mặt Ngài, lắng tai nghe các điều răn và giữ mọi luật lệ Ngài, thì Ta chẳng giáng cho ngươi một trong các bịnh nào mà Ta đã giáng cho xứ Êdíptô; vì Ta là Đức Giêhôva, Đấng chữa bịnh cho ngươi.” (C. 26) Khi Đức Chúa Trời cho phép chúng ta đối diện với “nước đắng”, hãy cảm tạ Chúa vì như thế có nghĩa là “nước ngọt” đang chờ đâu đó ở phía trước: “27Đoạn, Dân Sự đến đất Êlim; nơi đó có mười hai suối nước, và bảy mươi cây chà là; Dân Sự đóng trại tại đó, gần bên suối nước.” (C. 27) Để hưởng được phước hạnh Êlim (Hb. Eylim: cây lớn), tức tìm được bóng mát trong sa mạc, chúng ta phải có thái độ đúng như Môise. Chính Môise đã làm được điều mà cả Dân Sự quên lãng: Cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin giải pháp của Ngài: “Hãy trao gánh nặng ngươi cho Đức Giêhôva; Ngài sẽ nâng đỡ ngươi;_Ngài sẽ chẳng hề cho người công bình bị rúng động.” (Thi. 55:22) Đức Chúa Trời sẽ nâng đỡ, an ủi và chu cấp cho các tín hữu của Ngài những điều thực sự có cần cho họ: “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em.” (1Phi. 5:7) Đức Chúa Trời phán rằng “Ta là Đức Giêhôva, Đấng chữa bịnh cho ngươi” (C. 26), chúng ta phải luôn luôn biết mời Chúa làm Đấng Chữa Lành cho mọi nỗi đau xót tinh thần và thể xác của chúng ta. Điều tốt nhất sẽ đến với những linh hồn nào biết tin và tìm giải pháp trong Đức Chúa Jêsus và các lời hứa của Ngài: “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.” (Phil. 4:6) Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có sứ mệnh phải chiết xuất được hương vị ngọt ngào từ những đắng cay trong đời. Chúng ta chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh ấy với một đức tin kiên định: “17Vì dầu cây vả sẽ không nứt lộc nữa,_Và sẽ không có trái trên những cây nho;_Cây ôlive không sanh sản,_Và chẳng còn ruộng nào sanh ra đồ ăn;_Bầy chiên sẽ bị dứt khỏi ràn,_Và không có bầy bò trong chuồng nữa. 18Dầu vậy, tôi sẽ vui mừng trong Đức Giêhôva,_Tôi sẽ hớn hở trong Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi tôi.” (Ha. 3:17-18) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HÃY VÙNG DẬY KHỎI TỘI LỖI!” (Xa. 3:1-5) “Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi.” (Êph. 5:14) “Một tín hữu là một người được xưng công nghĩa nhưng cũng đồng thời là một tội nhân (Simul Iustus Et Peccator - Same Time Just And Sinner)”. Đây là sự tuyên bố có vẻ ngược đời của Martin Luther để giải thích rằng Cơ Đốc Nhân có sự xưng nghĩa địa vị hợp pháp trước mặt Đức Chúa Trời thể theo công nghiệp cứu chuộc của Đức Chúa Jêsus, nhưng đồng thời Cơ Đốc Nhân cũng sống trong sự vương vấn với tội lỗi căn cứ theo các vi phạm không thể tránh khỏi của mình. Thật ra tư tưởng này của Martin Luther phản ánh trung thực giáo lý Kinh Thánh về tiến trình nên thánh của Cơ Đốc Nhân; khích lệ Cơ Đốc Nhân về sự bền đỗ theo Chúa; sống gắn bó, vâng phục Chúa; thăng tiến đời sống công nghĩa thực hành... Xa. 3:1-5 là một trong các cơ sở Kinh Thánh của giáo lý ấy. A. VỀ NHÂN VẬT, BỐI CẢNH VÀ Ý NGHĨA I. Giêhôsua Giêhôsua là con trai của Giêhôxađác, Thầy Tế Lễ trong thời kỳ lưu đày ở Babylôn (1Sử. 6:14-15; Aghê 1:1, 12, 14; 2:2, 4; Xa. 6:11). Giêhôsua cũng còn được gọi là Giêsua, là Thầy Tế Lễ đã cùng Xôrôbabên từ Babylôn trở về Giêrusalem để tái thiết Đền Thờ (Exr. 2:2; Nê. 7:7; 12:1). Giêhôsua là một trong những người đã xây lại Bàn Thờ cho Đức Giêhôva (Exr. 3:2), trợ giúp Xôrôbabên xây lại Đền Thờ (Exr. 3; 4:1-6; 5; Aghê 1:1, 12-14; 2:2), cùng đấu tranh chống lại những người muốn phá hoại việc tái thiết này (Exr. 4:1-3; 5:1-2). Thầy Tế Lễ Cả Giêhôsua là biểu tượng của sự phục hồi Ysơraên (Xa. 3; 6:9-15). Giêhôsua tiêu biểu cho cả dân tộc, mà theo Xuất. 19:6 là “một nước Thầy Tế Lễ”. Các khải tượng về đêm mà Đức Chúa Trời ban cho Xachari đều có liên quan đến sự tồn vong của Giêrusalem hiện tại và tương lai. Tội của cả dân tộc Ysơraên đã đem lại cho Satan cái cớ để cáo kiện, mà ở đây được biểu hiệu bằng “áo bẩn”. Nhà Tiên Tri được cho thấy về Thầy Tế Lễ Cả Giêhôsua đang mặc áo bẩn, “bẩn” (Heb. so’im) được dùng với một từ liệu mạnh nhất trong ngôn ngữ Hêbơrơ để diễn đạt sự bẩn thỉu. “Bẩn” tượng trưng cho tội lỗi, đây không phải là tội lỗi của riêng Giêhôsua mà là của cả Ysơraên. Đứng trước Thiên Sứ của Đức Giêhôva (3:1-3) và sự kiện cáo của Satan, Giêhôsua đã được ban cho sự tha tội và áo sạch để mặc. Kế đến, Thầy Tế Lễ Cả và dân Giuđa được hứa về Đấng Mêsia hầu đến, Chồi Mống, để cất bỏ tội lỗi của cả Ysơraên (3: 4-10). Khải tượng này vừa an ủi vừa mời gọi Dân Sự Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời thanh tẩy cho Dân Sự hầu cho họ có thể tôn qui vinh hiển về Ngài. Chính Đức Chúa Trời là Đấng ban quyền năng phong phú để hoàn thiện Đền Thờ của Ngài (ngày nay chính là đời sống người tín hữu, 1Cô. 6:19), nhờ đó Dân Thánh có thể phản ánh được các thuộc tính Thiên Thượng của Ngài ngay giữa đời ác này. II. Thiên Sứ Đức Giêhôva “Thiên Sứ Đức Giêhôva” là một từ liệu xuất hiện trong Kinh Thánh Cựu Ước khoảng 54 lần. Nhiều học giả Kinh Thánh tin rằng đây là một cách để chỉ về sự thần hiện của chính Đức Chúa Trời và là Đức Chúa Jêsus trong trạng thái tiền nhập thể của Ngài (Vd. Xuất. 3:2; Quan. 2:1). Các từ liệu như “Thiên Sứ” (Công. 7:30, 35 Sv. Xuất. 3:2), “Thiên Sứ Ta” (Xuất. 23:20-23; 32:34); “Thiên Sứ Đức Chúa Trời” (Xuất. 14:19; Quan. 13:6; 2Sa. 14:17, 20), “Thiên Sứ Trước Mặt Ngài” (Ês. 63:9) là những từ liệu có cách sử dụng tương đương với từ liệu “Thiên Sứ Đức Giêhôva” trong Kinh Thánh. III. Xachari Xachari là Nhà Tiên Tri, con trai của Barachi, cháu của Yđô (Xa. 1:1), cũng là người cùng trở về Giêrusalem với Xôrôbabên, là người đồng thời với Aghê. Xachari thường được gọi là “Nhà Tiên Tri của hy vọng”. Khi còn trẻ, Nhà Tiên Tri này đã ủng hộ cho các sự thúc giục của Aghê để dẫn đến việc những người bị lưu đày từ Babylôn trở lại Giêrusalem vào khoảng các năm 539-538 TC. để thực hiện và hoàn thành việc tái thiết Đền Thờ vào khoảng năm 520 TC. IV. Sách Xachari Sách Xachari chứa đựng một loạt các khải tượng hấp dẫn, chuyển tải các Lẽ Thật thuộc linh thiết yếu (Xa. 1:7-8:32) và là một bức tranh tiên minh cho các sự kiện tương lai khi sự đắc thắng tối hậu của Đức Chúa Trời đến (Xa. 9:1-14:21). Những chương cuối của Sách Xachari đã có tác dụng khích lệ cao độ đối với cộng đồng Do Thái giữa lúc họ trăn trở với sự suy sụp kinh tế và sự vây hãm của các kẻ thù chung quanh. Đối với chúng ta ngày nay, khi đọc các chương sách này và suy nghiệm về sự đắc thắng chắc chắn sẽ đến trong tương lai của Đức Chúa Trời đối với Ác Giả chúng ta sẽ được thêm sức để hoàn thiện bản thân, sống tôn qui cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Hai luận đề chính trong Sách Xachari đều đầy khích lệ đối với Cơ Đốc Nhân. Thứ nhất, Sách Tiểu Tiên Tri này chứa nhiều sự hàm ý về Đức Chúa Jêsus. Các sự đề cập đến Đấng Mêsia trong Sách nói nhiều về sự khiêm nhường, hạ mình của Đức Chúa Jêsus (Xa. 6:12), mô tả về việc Giuđa Íchcariốt phản Ngài (Xa. 11:12-13), về Thần Tính của Ngài (Xa. 3:4; 13:7), Chức Thầy Tế Lễ của Ngài (Xa. 6:13), Chức Vua của Ngài (Xa. 6:13; 9:9; 14:9, 16). Sách Xachari cũng còn nói về việc Đấng Mêsia phải chịu sự đánh hạ của Đức Chúa Trời (Xa. 13:7), về Sự Tái Lâm của Ngài (Xa. 14:4), sự trị vì vinh hiển của Ngài (Xa. 9:10, 14), và về việc Ngài thiết lập nền hòa bình vĩnh cửu trên thế giới (Xa. 9:9-10; Sv. 3:10). Đây chính là những điều mà chúng ta cũng thường xuyên học được trong các Sách Cựu Ước khác về Cứu Chúa của chúng ta. Luận đề chính thứ hai của Sách Xachari khích lệ Cơ Đốc Nhân ngày nay là về Mạt Thế (Thời Kỳ Cuối Cùng). Phần cuối của Sách mô tả về sự vây hãm ngặt nghèo đối với Giêrusalem (Xa. 12:1-3; 14:1-2). Trong sự mô tả ấy, kẻ thù tạm thời thắng lợi (C. 2) nhưng Giêrusalem được chính Đức Chúa Trời bảo vệ (C. 3-4). Đức Chúa Trời sẽ thân chinh can thiệp để tiêu diệt kẻ thù (Xa. 12:9; 14:3). Sự can thiệp trực tiếp của Đức Chúa Trời khiến tạo nên những thay đổi hết sức sâu sắc đối với Đất Thánh (Giêrusalem, Xa. 14: 4-5), khởi đầu cho Thời Kỳ Cứu Thế (Xa. 14:16-19) để rồi cuối cùng Giêrusalem và Dân Sự của Đức Chúa Trời sẽ được nên thánh trọn vẹn. B. ÁP DỤNG I. Chức Phận Của Chúng Ta Dưới Định Kỳ Tân Ước, chức phận Thầy Tế Lễ thuộc về mỗi Cơ Đốc Nhân. Đời sống nên thánh thường xuyên trở thành của tế lễ phải có và phải được dâng lên Đức Chúa Trời: “Anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:5) “Anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức Thầy Tế Lễ nhà Vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (1Phi. 2:9) “1Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:1-2) Chết cho Đức Chúa Trời là một điều khó, nhưng sống cho Đức Chúa Trời mới là điều khó nhất. Phận sự đích thực của Cơ Đốc Nhân là sống cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Trong khuôn khổ ấy, họ phải tìm kiếm “Nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài” mỗi ngày và càng ngày càng tích cực hơn. Cơ Đốc Nhân được kêu gọi sống phản ánh các thuộc tính của Đức Chúa Trời, không được sống theo sự đòi hỏi ích kỷ: “19Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là Đền Thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? 2Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời” (1Cô. 6:19-20) “Mọi sự tôi có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự tôi có phép làm, nhưng chẳng để sự gì bắt phục được tôi” (1Cô. 6:12) “Mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều làm gương tốt” (1Cô. 10:23) “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (1Cô. 10:31) II. Thân Phận Của Chúng Ta Khải tượng của Xachari về Thầy Tế Lễ Giêhôsua “đương đứng trước mặt Thiên Sứ Đức Giêhôva và Satan đứng bên hữu người đặng đối địch người” (3:1) là một bức tranh về sự kiện cáo không ngớt của Ma Quỉ nhằm làm mất thể diện cũng như lòng sốt sắng thờ phượng và hầu việc Đức Chúa Trời của Dân Sự Ngài. Giêhôsua được thấy trong khải tượng này đang “mặc áo bẩn” (3:3) dầu rằng đang ở trong địa vị Thầy Tế Lễ Cả (3:1) giữa vòng Dân Sót được trở về Giêrusalem sau thời kỳ lưu đày ở Babylôn. Khải tượng này nhắc cho chúng ta nhớ rằng Satan là kẻ kiện cáo không biết mệt mỏi của Dân Sự của Đức Chúa Trời. Satan đang không ngớt kiện cáo với Đức Chúa Trời về chức phận Thầy Tế Lễ của Cơ Đốc Nhân của chúng ta. Đời sống của chúng ta lắm khi bị vấy bẩn hiển nhiên. Mỗi khi chúng ta phạm tội là một lần chúng ta đá phản vào lưới nhà, tặng không cho Satan một bàn thua, và đời sống của chúng ta trở nên thiếu xứng đáng để làm một tế lễ dâng lên cho Đức Chúa Trời…. Liệu chúng ta có thể cố gắng để tự hoàn thiện mình được không? Câu trả lời đúng cho vấn đề này là “không”, nhưng sự đắc thắng đã được định cho chúng ta bởi ơn Đức Chúa Trời: “18Vả, tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn; 19vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. 20Ví bằng tôi làm điều mình không muốn, ấy chẳng phải là tôi làm điều đó nữa, nhưng là tội lỗi ở trong tôi vậy… 24Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? 25Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!” (Rô. 7:18-20; 24-25) “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (1Cô. 10:13) “1Hỡi các con cái bé mọn, ta viết cho các con những điều nầy, hầu cho các con khỏi phạm tội. Nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đấng cầu thay ở nơi Đức Chúa Cha, là Đức Chúa Jêsus Christ, tức là Đấng Công Bình. 2Ấy chính Ngài làm của lễ chuộc tội lỗi chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng vì tội lỗi cả thế gian nữa” (1Gi. 1:1-2) III. Định Phận Của Chúng Ta Phần việc của Cơ Đốc Nhân là phải bền đỗ trong đời sống nên thánh của mình nhờ sức toàn năng của Đức Chúa Trời vì “tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (1Cô. 10:23). Nhiên hậu, Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ và bảo tồn các thánh đồ của Ngài trước sự cáo kiện, công kích của Satan và các kẻ thù thuộc linh: “2Đức Giêhôva phán cùng Satan rằng : Hỡi Satan, nguyền Đức Giêhôva quở trách ngươi; nguyền Đức Giêhôva là Đấng đã kén chọn Giêrusalem quở trách ngươi. Chớ thì nầy há chẳng phải cái đóm đã kéo ra từ lửa sao?... 4Thiên Sứ cất tiếng nói cùng những kẻ đứng trước mặt mình rằng: Hãy lột bỏ những áo bẩn khỏi nó. Lại nói cùng Giêhôsua rằng: Hãy nhìn xem, Ta đã bỏ sự gian ác khỏi ngươi, và Ta sẽ mặc áo đẹp cho ngươi. 5Ta bèn nói rằng: Khá đội mũ sạch trên đầu người. Thì người ta đội trên đầu người một cái mũ sạch, đoạn mặc áo xống cho người; Thiên Sứ của Đức Giêhôva đương đứng đó” (Xa. 3:2, 4-5). “Cái đóm đã kéo ra từ lửa…” (C. 2), Cơ Đốc Nhân là Cơ Đốc Nhân của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có chương trình và phương thức bảo vệ, bảo tồn Cơ Đốc Nhân: “33Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình những kẻ ấy. 34Ai sẽ lên án họ ư? Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng đã chết, và cũng đã sống lại nữa, Ngài đang ngự bên hữu Đức Chúa Trời, cầu nguyện thế cho chúng ta” (Rô. 8:33-34) Cơ Đốc Nhân, nếu quả thực là Cơ Đốc Nhân, phải biết thức dậy, vùng dậy khỏi tội lỗi của mình để sống cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời! “Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi” (Êph. 5:14) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI ĐỐI THOẠI ĐỂ XỬ LÝ SỰ BẤT HÒA” (Ma. 5:22-23; 18:15-20) “Hãy để của lễ trước bàn thờ, trở về giảng hòa với anh em trước đã; rồi hãy đến dâng của lễ.” (Ma. 5:22-23; 18:15-20) Trong cương vị lãnh đạo Hội Thánh, người ta rất dễ phải đứng trước các bất đồng, và ngay cả sự bất hòa, cùng với các hệ lụy lớn lao cặp theo. Xử lý các sự bất đồng và bất hòa là một việc đầy rủi ro và đáng sợ. Tuy nhiên, thái độ chạy trốn khỏi các sự trục trặc có thật trong Hội Thánh là phi Kinh Thánh, thường phản ánh ý thức chủ quan của con người cũ, và nhất định sẽ dẫn đến các chọn lựa sai lầm. Kinh Thánh chỉ rất rõ rằng lẫn tránh việc xử lý bất hòa một cách hợp Kinh Thánh sẽ dẫn đến việc xử tử sinh hoạt thuộc linh của Hội Thánh: Thay vì phải đối đãi với nhau theo ý muốn “tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời” (Rô. 12:2) được bày tỏ qua các nguyên tắc Kinh Thánh người ta cứ mãi bị cầm tù trong “sự cay đắng, buồn giận, tức mình, kêu rêu, mắng nhiếc, cùng mọi điều hung ác” (Êph. 4:31) là những điều phải tránh vì sẽ “làm buồn cho Thánh Linh của Đức Chúa Trời.” (Êph. 4:30) Để giải quyết và tránh khỏi các sai phạm trong việc xử lý các mối quan hệ bất hòa và nguy hiểm, chúng ta phải nghiên cứu ba phân đoạn Kinh Thánh quan trọng, và ghi nhớ các nguyên tắc được dạy dỗ. Sự cầu nguyện và niềm hy vọng ở đây là tất cả mọi người đều nhận ra được rằng “đối thoại” - đôi khi cũng là đối chất, đối nại - là một đòi hỏi Kinh Thánh, vì vậy sự đối thoại là hợp Kinh Thánh và có ích cho Hội Thánh. Đáp ứng theo các nguyên tắc Kinh Thánh là đòi hỏi tất yếu khách quan, không miễn trừ bất cứ một ai. Sứ Đồ PhaoLô viết: “37Nếu ai tưởng mình là tiên tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa. 38Mà nếu ai muốn bỏ qua thì mặc họ bỏ qua!” (1Cô. 14: 39-40) I THIẾU ĐỐI THOẠI, SỰ BẤT HÒA PHẢI TỒN TẠI (Ma. 5:23-24) Đối với Cơ Đốc Nhân, đối thoại là một yêu cầu Kinh Thánh chứ không phải chỉ là một sự chọn lựa theo sở thích cá nhân để cho một người có thể làm hay không làm tùy theo ý muốn riêng của mình được: “… 23Nếu khi nào ngươi đem dâng của lễ nơi bàn thờ, mà nhớ lại anh em có điều gì nghịch cùng mình, 24thì hãy để của lễ trước bàn thờ, trở về giảng hòa với anh em trước đã; rồi hãy đến dâng của lễ.” (Ma. 5:23-14) Từ liệu “giảng hòa” ở đây là diallasso, một từ liệu Hylạp nói về hành động thay đổi sự suy nghĩ, thay đổi cách nhìn nhận đối với một vấn đề nào đó. Cơ Đốc Nhân không được phép định kiến mà phải có nghĩa vụ làm sáng tỏ vấn đề bằng con đường đối thoại để thay đổi cách nghĩ của chính mình về một điều gì đó cho hiệp với sự thật khách quan. Tự cho rằng những gì xuất hiện trên vỏ bán cầu đại não của mình là luôn luôn đúng là một dấu hiệu của sự kiêu ngạo. Không chịu lắng nghe và đáp ứng theo sứ điệp Kinh Thánh mà cứ sống trong sự ám thị thường xuyên rằng mình luôn luôn bị người khác lấy Lời Kinh Thánh để công kích là ngạo mạn đến độ hoang tưởng và là dấu hiệu của một đời sống thuộc linh còn ấu trĩ. Đối thoại để giải quyết, phục hồi sự quan hệ với đồng đạo là một điều ưu tiên. Sự mắc mướu của chúng ta trong mối quan hệ với các tín hữu khác sẽ là sự ngăn trở đối với sự thờ phượng. Đây là sự nhìn nhận và là tiêu chí của Đức Chúa Trời đề ra cho chúng ta. Khi mà sự mắc mướu chưa được xử lý xong, cho dầu ngồi ở đâu và trong lòng có cảm thấy thế nào thì cũng chỉ là cảm xúc chứ không phải là sự bình an. Sự bình an thật là sự bình an có khả năng “giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 4:17), vì sự bình an thật là sự bình an luôn luôn đi cặp với đức tin và được ban cho “bởi Đức Chúa Trời, là Cha, và bởi Đức Chúa Jêsus Christ” (Êph. 6:23) để gây dựng lẫn nhau chứ không phải để càng lúc càng tạo ra “những điều rầy rà, ghen ghét, nóng giận, bất hòa, nói hành, nói gần nói xa, kiêu căng, hỗn loạn…” (2Cô. 12:20) II THIẾU ĐỐI THOẠI, SỰ TÁC ĐỘNG CỦA THÁNH LINH PHẢI GẶP TRỞ NGẠI (Ma. 18:15-17) Để Hội Thánh được gây dựng, sự đối thoại để giải quyết bất hòa phải được thực hiện đúng theo qui trình mà Đức Chúa Trời đã ban cho Hội Thánh: “15Nếu anh em ngươi phạm tội cùng ngươi, thì hãy trách người khi chỉ có ngươi với một mình người; như người nghe lời, thì ngươi được anh em lại. 16Ví bằng không nghe, hãy mời một hai người đi với ngươi, hầu cứ lời hai ba người làm chứng mà mọi việc được chắc chắn. 17Nếu người không chịu nghe các người đó, thì hãy cáo cùng Hội Thánh, lại nếu người không chịu nghe Hội Thánh, thì hãy coi như kẻ ngoại và kẻ thâu thuế vậy.” (Ma. 18:15-18) Phân đoạn Kinh Thánh này là một sự hướng dẫn chi tiết có một không hai về vấn đề đối thoại để giải quyết sự bất hòa giữa vòng Hội Thánh Tân Ước. Qui trình được khái quát thành ba bước trong sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh: Thứ nhất, để cho người phạm lỗi biết lỗi, người bị phạm lỗi phải đi bước trước. “Trách” (Gk. elegcho) là nói cho người khác thấy được họ đã mắc lỗi như thế nào. Theo sự dạy dỗ này của Kinh Thánh, người bị phạm lỗi không được phép nói với bất cứ ai khi chưa trực tiếp nói với người phạm lỗi cùng mình. Mục đích của việc “trách” không phải là để buộc tội mà là để phục hồi quan hệ một cách kín đáo nhất và sớm nhất. Cũng cần nên chú ý rằng bước này có thể phải thực hiện đi, thực hiện lại nhiều lần vì Lời Kinh Thánh không hề qui định số lần ở đây. Thứ hai, lời dạy dỗ rằng “hầu cứ lời hai ba người làm chứng mà mọi việc được chắc chắn” (C. 16) phải được hiểu theo tinh thần thuyết phục để gây dựng. Khi được những người có uy tín hợp nhau khuyên bảo người ta thường nhận ra vấn đề dễ dàng hơn. Mục đích sự hiện diện của những người “làm chứng” trong bước đi này là để thuyết phục người mắc lỗi bằng lời nói (Gk. stoma) của họ (Sv. 16a). Cũng nên hiểu rằng nổ lực này không phải chỉ có một lần duy nhất vì Lời Kinh Thánh không hề qui định số lần ở đây. Thứ ba, “Cáo cùng Hội Thánh” là bước đi cuối cùng. Cần chú ý rằng đây là “bước thứ ba” chứ không phải là “lần thứ ba”! “Cáo” (Gk. epo) có vẻ như nói về việc tường thuật sự việc để giới lãnh đạo Hội Thánh có cách nhìn nhận toàn diện về vấn đề và có cơ sở vận dụng thẩm quyền Thiên Thượng đã được trao cho họ để ra quyết định cho hợp Kinh Thánh. Trong bước đi này, mục đích thuyết phục người mắc lỗi vẫn là việc ưu tiên vì việc áp dụng kỷ luật Hội Thánh chỉ có thể bắt đầu “nếu người không chịu nghe Hội Thánh” (C. 17b). Tưởng rằng bằng sức riêng mà người ta có thể biến đổi được người khác là hoang tưởng. Đức Chúa Trời vẫn đẹp ý sử dụng mỗi người để gây dựng Hội Thánh của Ngài, nhưng Cơ Đốc Nhân chỉ là nhân tố. Quyền năng gây dựng Hội Thánh duy nhất thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Phương pháp gây dựng Hội Thánh duy nhất thuộc về các nguyên tắc Kinh Thánh của Đức Chúa Trời. Nguyên tắc đối thoại hợp Kinh Thánh để giải quyết bất hòa trong Hội Thánh là một nguyên tắc Kinh Thánh phải được tuân thủ để không gây trở ngại cho công việc của Đức Thánh Linh giữa vòng Hội Thánh của Ngài. III. THIẾU ĐỐI THOẠI, THẨM QUYỀN HỘI THÁNH BỊ TỔN HẠI (Ma. 18:18-20) Hội Thánh không bao giờ chỉ thuần túy là một hội đoàn vô quyền. Tưởng rằng Hội Thánh giống như một câu lạc bộ giải trí, hoặc là một nơi để thư giãn, hoặc là một nơi mà mọi sở thích của mình đều phải được lãnh đạo Hội Thánh chìu chuộng là nhầm. Thẩm quyền Thiên Thượng của Hội Thánh được minh định rất rõ: “18Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, hễ điều gì mà các ngươi buộc ở dưới đất thì cũng sẽ buộc ở trên trời, và điều gì mà các ngươi mở ở dưới đất thì cũng sẽ mở ở trên trời. 19Quả thật, Ta lại nói cùng các ngươi, nếu hai người trong các ngươi thuận nhau ở dưới đất mà cầu xin không cứ việc chi, thì Cha Ta ở trên trời sẽ cho họ. 20Vì nơi nào có hai ba người nhân danh Ta nhóm nhau lại, thì Ta ở giữa họ.” (Ma. 18:18-20) Cần phải chú ý rằng những câu Kinh Thánh này thuộc trong văn mạch của vấn đề kỷ luật Hội Thánh, và để xác chứng cho thẩm quyền các quyết định mà giới lãnh đạo Hội Thánh đưa ra đối với những thành viên không chịu tôn trọng sự dạy dỗ của Kinh Thánh trong việc xử lý sự bất hòa theo qui trình được bày tỏ trong các phần trước (Cc. 15-17). Trong bản chất, thẩm quyền Hội Thánh không phải chỉ đóng khung trong các quyết định mang tính tổ chức, sự vụ. Lãnh đạo Hội Thánh “buộc” hay “mở’ (C. 18) không phải chỉ bằng các quyết định mang tính tổ chức (C. 19) mà là ngay từ trong các sự giảng dạy về giáo lý Kinh Thánh. Thẩm quyền Hội Thánh được củng cố hay bị tổn hại là từ cách đáp ứng của các thành viên của Hội Thánh đối với các sự giảng dạy về giáo lý. Khi sự giảng dạy của lãnh đạo Hội Thánh hợp Kinh Thánh và được tôn trọng, linh hồn người nghe sẽ được khai phóng bằng lẽ thật để đáp ứng theo lẽ thật. Nếu sự giảng dạy là phi Kinh Thánh, phản Kinh Thánh hoặc người nghe bịt tai không nghe theo lẽ thật, linh hồn họ sẽ vẫn cứ còn ở trong sự cầm buộc của “sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời” (2Gi. 2:16) và không có năng lực đáp ứng theo lẽ thật. “Ngọt” và “đắng” là hai vị vốn có của Lời Kinh Thánh. (Sv. Thi. 19:10; 119:103; Khải. 10:10). Cùng là Lời Kinh Thánh cả, nhưng cảm được vị ngọt hay vị đắng là tùy theo khẩu vị thuộc linh của người nghe! Quyền lãnh đạo của Hội Thánh luôn đứng trước hai loại phản ứng trái ngược nhau: Hoặc người ta vâng lời Chúa, chịu đối thoại hợp Kinh Thánh, và sự bất hòa được xử lý, Hội Thánh được gây dựng; hoặc người ta cứ cứng lòng, không đáp ứng theo đòi hỏi của các nguyên tắc Kinh Thánh, không chịu “thông công nơi Thánh Linh”, khư khư giữ lấy ý riêng, tự lập lên làm thầy,… khiến cho thẩm quyền Hội Thánh bị phá ngầm từ trong căn bản. Tất nhiên là luôn có nhiều lý do được những con người vô trách nhiệm viện ra để biện minh cho sự bất chấp của họ trước các đòi hỏi Kinh Thánh. Tuy nhiên sự khẳng định của Kinh Thánh là oai nghiêm và đầy đủ: “15Mọi sự là tinh sạch cho những người tinh sạch, nhưng, cho những kẻ dơ dáy và chẳng tin, thì không sự gì là tinh sạch cả; trái lại, tâm thần và lương tâm họ là dơ dáy nữa. 16Họ xưng mình biết Đức Chúa Trời, nhưng theo những việc làm thì đều từ chối Ngài, thật là đáng ghét, trái nghịch và không thể làm một việc lành nào hết.” (Tít 1:15-16) Như vậy, đối thoại để giải quyết bất hòa có vi phạm sự dạy dỗ của Kinh Thánh không? Không! Hòa thuận không có nghĩa là lẫn tránh đụng chạm, mâu thuẫn. Trốn chạy trước một nan đề, giả bộ như thể không hề có nan đề gì hết là giả hình và ngụy hòa. Thái độ hợp Kinh Thánh của Cơ Đốc Nhân trưởng thành không phải là ngụy hòa mà phải “lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật” (Êph. 4:15). Hội Thánh nào thất bại trong việc xử lý các cá nhân có cách đối xử gây hại cho mối thông công đích thực của Hội Thánh thì Hội Thánh ấy phải suy yếu. Sự “thông công” đích thực phải là “sự thông công nơi Thánh Linh” (Phil. 2:1), dẫn đến việc “hiệp ý với nhau, đồng tình yêu thương, đồng tâm, đồng tư tưởng” hầu cho mọi sự trong sinh hoạt của Hội Thánh được đến chỗ “vui mừng trọn vẹn” (Phil. 2:2). Tự lập lên làm thầy, kẻ vạch theo ác ý, thông đồng một cách thiên vị,… Tất cả những sự như thế không phải là “thông công nơi Thánh Linh”, và cần phải được từ bỏ. Sự “thông công nơi Thánh Linh” là sự thông công ở trong sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh, có dấu hiệu là sự phù hợp với các nguyên tắc Kinh Thánh. Giữa vòng Hội Thánh ngày nay có một xu hướng sợ nói thẳng, nói thật. Ngày nay, ít thấy ai dám đứng lên chỉ cho thấy sự sai trật của người khác. Tuy nhiên, làm như thế vô hình trung là thông đồng với điều ác. Thông công khác, thông đồng khác. Thông công đem lại sự gây dựng, thông đồng dẫn đến vi phạm, đổ vỡ,… Một khi sự thông công được đánh đồng với sự thông đồng thì công việc của Đức Thánh Linh nhất định phải bị ngăn trở. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HÃY SỐNG HẠ MÌNH GIỐNG NHƯ CHÚA!” (Phil. 2:5–11) “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có.” (Phil. 2:5–11) “5Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, 6Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; 7chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. 9Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, 10hầu cho nghe đến danh Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, 11và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Phil. 2:5-11) Sự dạy dỗ mà Sứ Đồ Phaolô đưa ra ở đây thật rõ ràng: Nếu muốn làm một môn đồ thực sự của Đức Chúa Jêsus, chúng ta phải sống giống như Đức Chúa Jêsus đã sống! Chúng ta phải có suy nghĩ như Ngài, có thái độ như Ngài, và có hành động như Ngài… Chúng ta phải tận hiến đời sống mình để đề cao Chúa và thăng tiến tha nhân hầu cho họ có thể đạt đến chỗ tiếp nhận Ngài. I. XUẤT PHÁT ĐIỂM Đối với con người, sống hạ mình là một điều hết sức khó khăn. Cũng giống như chiếc kim la bàn luôn luôn chỉ về hướng Bắc, sự vận động tự nhiên của ý thức con người là cất mình lên chứ không phải là hạ mình xuống! Chắc chắn sự dạy dỗ của phân đoạn Kinh Thánh này sẽ đem lại một sứ điệp khó sống cho nhiều người. Tận trong sâu thẳm của mỗi linh hồn, xu hướng chung là người ta không hưởng ứng với sự hạ mình. Khi Sứ Đồ Phaolô viết rằng “Vì Đấng Christ là sự sống của tôi, và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy” (Phil. 1:21) thì điều đó có nghĩa là mọi xúc cảm của vị Sứ Đồ này đều phụ thuộc vào Thân Vị và Công Nghiệp của Đức Chúa Jêsus. Chúng ta chỉ có thể sống được như Phaolô nếu chúng ta cũng biết lấy Đức Chúa Jêsus làm lẽ sống cho mình. Chỉ khi nào lẽ sống của chúng ta là chính Đức Chúa Jêsus thì chúng ta mới có khả năng trở thành Cơ Đốc Nhân tận hiến được: “Tôi đã bị đóng đinh vào Thập Tự Giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và phó chính mình Ngài vì tôi.” (Gal. 2:20) Triết lý sống của Cơ Đốc Nhân là lấy đời sống mình làm phương tiện thể hiện cho sự sống của Đức Chúa Jêsus. Không ai vẫn còn nặng mang tham vọng mà lại có thể mặc lấy tâm tình của Đức Chúa Jêsus được, vì Ngài đã thực sự hạ mình, đã từ thiên thượng xuống tận thế hạ để hầu việc và hy sinh. II. PHẠM VI ĐỀ CẬP Cơ Đốc Nhân phải có những dấu hiệu nào bày tỏ cho sự tận hiến của mình trong cuộc sống đời thường mỗi ngày trong mọi việc? Chính đoạn văn Kinh Thánh này trả lời câu hỏi ấy cho chúng ta. Qua ngòi bút của Sứ Đồ Phaolô Đức Thánh Linh đã khải thị cho chúng ta biết rằng để biểu lộ một đời sống tận hiến cho Đức Chúa Jêsus, chúng ta phải thực hiện một số các cấp độ hạ mình khác nhau theo như chính Đức Chúa Jêsus đã thể hiện: Thứ nhất, Đức Chúa Jêsus đã tự rời bỏ Thân Vị Đức Chúa Trời Thiên Thượng: “Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ.” (Phil. 2:6) Tiến trình hạ mình của Đức Chúa Jêsus đã bắt đầu từ đâu? Ấy là từ Thượng Đỉnh (không phải “thượng đỉnh”). Đức Chúa Jêsus là một Thân Vị trong Tam Vị Nhất Thể, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thượng Đế. Trí tuệ hữu hạn của loài người (là loài thọ tạo) không thể nào hiểu tường tận lẽ đạo Tam Vị Nhất Thể được, nhưng đó là Lẽ Thật, là Chân Lý. Đức Chúa Jêsus hằng hữu đồng đẳng với Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh, khi Đức Chúa Jêsus khởi sự tiến trình hạ mình của Ngài, Ngài đã khởi đầu từ Thượng Đỉnh. Từ đỉnh thang bắc cho nhân loại để họ có thể lên chốn thượng thiên, Đức Chúa Jêsus đã tự hạ mình xuống nơi thấp nhất là thế gian, Ngài đã thân hành xuống tận chân thang để đón nhân loại về! (Sv. Sáng. 28:12; Gi. 1:51). Sự từ bỏ địa vị Thượng Đỉnh của Đức Chúa Jêsus đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Chúng ta đang có thái độ như thế nào đối với các chủ quyền và đặc quyền của chúng ta? Gương hạ mình của Đức Chúa Jêsus phản ánh trung thực các sự dạy dỗ Kinh Thánh về vấn đề quyền lợi của Cơ Đốc Nhân. Quyền hợp Kinh Thánh của Cơ Đốc Nhân nhiều khi lại chính là quyền từ bỏ một hoặc nhiều quyền lợi hợp Kinh Thánh và hợp pháp của họ. “Bị mất” luôn luôn là một ý tưởng đáng sợ đối với tất cả mọi người, kể cả các Cơ Đốc Nhân trưởng thành! Theo bản chất, chúng ta vốn có khuynh hướng giành giật. Đổi sự giành giật những điều thế gian để nắm bắt các giá trị thuộc về sự sống đời đời là một điều quá khó, nhưng đó không phải là một sự tùy chọn để chúng ta có thể từ chối! “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; 3vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời. 4Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển.” (Phil. 3:1-4) Đức Chúa Jêsus đã từ đỉnh thang bước xuống đến tận chân thang, chúng ta cũng hãy noi gương Ngài! Thứ hai, Đức Chúa Jêsus đã tự làm cho trống rỗng sự vinh quang của mình: “chính Ngài đã tự bỏ mình đi” (Phil. 2:7a). “Kenoo” (“tự bỏ mình”) là một động từ Hylạp để nói về hành động làm cho trở thành không có những sự vốn có, và giáo lý Kinh Thánh này được gọi là giáo lý “kenosis” – giáo lý tự bỏ mình của Đức Chúa Jêsus. Khi “tự bỏ mình đi”, Đức Chúa Jêsus không bị mất bản chất Thiên Thượng, Ngài vẫn cứ là một Ngôi trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời vinh hiển nhưng không thể hiện các thuộc tính vinh hiển của Ngài ra để Ngài có thể chịu lấy phận người như chúng ta. Niềm tin và hy vọng thiết tha của chúng ta khiến chúng ta thích nghĩ về Chúa với những hình ảnh vinh hiển (và đó là một điều phải lẽ), nhưng Chúa cũng muốn chúng ta học theo Ngài trong sự tự bỏ mình để dấn thân, hy sinh. Cho đến lúc các tôi tớ của Đức Chúa Trời “được đóng ấn” (Khải. 7:3), Kinh Thánh gọi Đức Chúa Jêsus là Chiên Con “đã bị giết”, và kể Hội Thánh của Ngài như “Người Đàn Bà” mang thai bị hiếp đáp: “… Chính giữa Ngôi và Bốn Con Sinh Vật, cùng chính giữa Các Trưởng Lão, có một Chiên Con ở đó như đã bị giết…” (Khải. 5:6). “4… con rồng ấy chực trước người đàn bà gần đẻ, hầu cho khi đẻ ra thì nuốt con người đi…” (Khải. 12:4b). Đức Chúa Jêsus cũng đã từng tỏ cho chúng ta biết rằng có một phép Báptêm mầu nhiệm và đau đớn mà các Cơ Đốc Nhân chân thực đều phải trải qua: “… Các ngươi sẽ uống chén Ta uống, và sẽ chịu phép Báptêm Ta chịu…” (Mác 10:39). Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta sẽ không thể “xuống thang” theo gương Chúa được nếu như chúng ta không biết tự từ bỏ “vinh quang” tạm bợ hiện nay! Thứ ba, Đức Chúa Jêsus đã chịu lấy phận người: “7… lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; 8Ngài đã hiện ra như một người…” (Phil. 2:7b-8a). Sự hạ mình này của Đức Chúa Jêsus chứa đựng ba nội dung chính: (1) Ngài tự mặc lấy bản chất người, (2) Ngài chịu sống theo thân phận con người, (3) Ngài hoàn thành mục đích Thiên Thượng trong nhân trạng của Ngài. Tất cả những điều này đều trái ngược hẳn các thuộc tính vốn có của Ngài, thế mà Đức Chúa Jêsus đã hoàn thành viên mãn tất cả các điều ấy! Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã phản ứng như thế nào khi có người đối xử với chúng ta chưa hợp với chức danh, địa vị,… vốn có của chúng ta? Chúng ta có thái độ như thế nào khi phải hạ cố đối với người khác? Chúng ta đã làm gì để là tỏ ra là “muối của đất”, “sự sáng của thế gian” (Ma. 5:14-14)? Thứ tư, Đức Chúa Jêsus đã thuận phục Đức Chúa Cha cho đến chết: “…tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết…” (Phil. 2:8b) Ngài đã chịu chết! Chúng ta không thể thấy hết ý nghĩa của sự hạ mình này này nếu chúng ta không nhớ được rằng Đức Chúa Jêsus chính là Đức Chúa Trời, Ngài là Sự Sống và là Đấng ban hơi sống cho mọi loài… “Sự Sống đã bày tỏ ra, chúng tôi có thấy, và đang làm chứng cho, chúng tôi rao truyền cho anh em sự sống đời đời vốn ở cùng Đức Chúa Cha và đã bày tỏ ra cho chúng tôi rồi.” (1Gi. 1:2; Sv. Gi. 1:2-3; Rô. 1:3-4; 1Cô. 8:6b) Đấng vốn là Sự Sống đã hạ mình vâng phục để hoàn thành chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Cha: “14Vì con cái có phần về huyết và thịt, nên chính Đức Chúa Jêsus cũng có phần vào đó, hầu cho Ngài bởi sự chết mình mà phá diệt kẻ cầm quyền sự chết, là Ma Quỉ, 15lại cho giải thoát mọi người vì sợ sự chết, bị cầm tromg vòng tôi mọi trọn đời.” (Hê. 2:14-15) Thứ năm, Đức Chúa Jêsus đã chịu lấy cái chết nhục nhã và đau đớn của tội nhân: “… thậm chí chết trên Cây Thập Tự.” (Phil. 2:8b) Thập Tự Giá không phải chỉ để làm cho chết mà là một hình pháp để lăng nhục tội nhân. Đức Chúa Jêsus đã tự xuống khỏi địa vị tối vinh quang để nhận lấy địa vị cực ô nhục. Sự hạ mình của Đức Chúa Jêsus là sự hạ mình tuyệt đối, nghĩa là chẳng còn có sự hạ mình nào hơn thế được. Đức Chúa Jêsus vốn là Đấng Sáng Tạo Và Tể Trị của cả vũ trụ đã tự rời bỏ Thân Vị Đức Chúa Trời Thiên Thượng, đã tự làm cho trống rỗng sự vinh quang của mình, đã chịu lấy phận người, đã thuận phục Đức Chúa Cha cho đến chết, và đã chịu lấy cái chết đau đớn, nhục nhã của tội nhân trên Thập Tự Giá! Tại sao Đức Thánh Linh đã cho phép Sứ Đồ Phaolô trước thuật các bước hạ mình tuyệt đối này của Đức Chúa Jêsus? Phải chăng chỉ để nhắc chúng ta nhớ đức hạ mình độc nhất vô nhị của Cứu Chúa chúng ta? Tất nhiên là Đức Thánh Linh muốn chúng ta nhớ đến công đức hạ mình của Đức Chúa Jêsus, nhưng đó không phải là lý do chính để đoạn văn Kinh Thánh này được trước thuật. Đức Thánh Linh đã sử dụng ngòi bút của Sứ Đồ Phaolô để vừa nhắc nhở, vừa kêu gọi Hội Thánh tại thành Philíp (hai ngàn năm trước) cũng như Hội Thánh chúng ta (ngày nay) phải sống hạ mình như Đức Chúa Jêsus đã sống: “Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có.” (Phil. 2:5) Cặp theo sự dạy dỗ phước hạnh này còn có một sự gợi nhắc về tương lai vinh hiển của chúng ta khi chúng ta sẽ được đồng trị cùng Ngài: “ 9Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, 10hầu cho nghe đến danh Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, 11và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Phil. 2:9-11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HÃY ĐỨNG DẬY ĐI!” (Giô. 1:1-9) “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước.” (Giô. 1:1-9) Chúng ta nghe được tiếng gọi từ phía nào thì sẽ đi về phía ấy. Chỉ khi nào chúng ta biết thường xuyên nghe theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta mới có đủ dũng khí để làm theo ý muốn của Ngài, thắng vượt được mọi sự bất cập, tiến lên trong chiến thắng và sự chinh phục. Kinh Thánh cho biết rằng chúng ta đang ở trong một trận chiến thuộc linh chỉ có thể chiến đấu bằng những vũ khí thuộc linh. Để có thể nắm vững chiến lược, chiến thuật, phương án tác chiến, cần phải thường xuyên và liên tục giữ liên lạc với vị Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét những gì Đức Chúa Trời phán với Giôsuê để tìm ra bài học cho mình. I. “HÃY ĐỨNG DẬY ĐI” (C. 1-2) Từ đầu Sách Giôsuê, đã có lời phán rằng “Môise, tôi tớ ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả dân sự nầy hãy đứng dậy đi…” (C. 2). Cho đến khi Môise qua đời, Dân Sự vẫn còn mơ hồ về mục tiêu chung của mình là tiến vào Đất Hứa, vẫn chưa thấy rõ vì sao họ phải tiếp tục gian nan trong con đường mà Môise đã dẫn họ đi. Đức Chúa Trời không hề có ý định cứ để họ lang thang trong hoang mạc. Thật ra, Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho họ nhiều điều tốt hơn. Nhưng tại mọi thời điểm, Dân Chúa đều luôn phải thực hiện một sự chọn lựa: Họ phải quyết định hoặc cứ sống với những gì hiện có hoặc đi theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và sẽ hoàn thành những việc lớn lao theo ý muốn của Ngài. Chúng ta ngày nay cũng vậy. Lệnh truyền rằng “Hãy đứng dậy đi…” vẫn còn có giá trị đối với chúng ta. Chúng ta phải biết “đứng dậy” khỏi tất cả những gì vẫn còn thắng thế đối với đức tin của mình. Câu hỏi mà chúng ta phải tự vấn phải là “Điều gì đang chiếm ưu thế trong đời sống theo Chúa của chúng ta? Chúng ta đang ở đâu trong sự vâng lời Chúa?”. Nếu chúng ta chỉ biết thỏa lòng với hiện trạng thuộc linh của mình, chẳng trước thì sau chúng ta cũng sẽ rơi vào trạng thái chán nản của Dân Sự ngày xưa khi lang thang trong đồng vắng. Để biết chúng ta đang ở đâu trên phương diện thuộc linh, hãy chú ý những dấu hiệu sau đây của một đời sống còn ở trong hoang mạc thuộc linh: (1) Bất An Trong hoang mạc, Dân Sự không hề có nơi ở ổn định. Dân Sự không thể nào biết ngày mai mình sẽ đến đâu, ở đâu. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng sẽ cứ bất an trong thân thể, tâm trí, và tâm linh. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân bình an không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. (2) Bất Mãn Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng thường kêu ca, than phiền Đức Chúa Trời và người chăn bầy của Ngài. Đối với những người này, họ không biết đếm các phước hạnh mà Đức Chúa Trời đã ban cho. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng luôn phải bận tâm về những lo toan riêng của họ và tỏ ra không đủ sức cho trận chiến thuộc linh. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân thỏa lòng không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. (3) Không Bông Trái Ngày xưa, Dân Sự đã từng chiến đấu và chiến thắng một số trận chiến nhưng họ đã không dành được lợi thế và lãnh thổ đối với kẻ thù. Những chiến trận của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng hầu như mang đặc trưng của sự manh động hơn là sự chiến đấu, chiến thắng, và chinh phục. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân đầy bông trái không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. (4) Tiêu Cực Đối với các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng, tinh thần tiến công rất thấp. Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng được tiêu biểu bằng những gì họ không làm: Không hút, không uống, không dự vào,… Đời sống của họ mang tính chất chung chung, có rất ít tính đặc sắc. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng được đặc trưng bằng những gì họ làm theo người khác chứ không phải ở những gì họ tự thân khám phá được. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân tích cực không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. (5) Dao Động Đem Dân Sự ra khỏi Ai Cập thì dễ nhưng làm cho Ai Cập ra khỏi Dân Sự là một sự thách thức lớn lao đối với các nhà lãnh đạo thuộc linh. Nếu công việc hanh thông, người ta dễ dàng cảm thấy tự tin, vững vàng. Thế nhưng khi tình hình trở nên xấu, người ta bắt đầu nhớ lại “Xứ Êdíptô, khi còn ngồi kề nồi thịt và ăn bánh chán chê” (Xuất. 16:3). Trên một phương diện, các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng khá giống với một nhiệt kế cứ khi trồi, khi sụt theo nhiệt độ bên ngoài. Về nguyên tắc, Cơ Đốc Nhân ổn định không còn ở trong hoang mạc thuộc linh. Một con tàu nếu cứ bỏ neo đứng yên trong bến cảng thì sẽ được an toàn, nhưng một con tàu không băng sóng, lướt gió, vượt đại dương thì không còn là một con tàu nữa; và rồi nó sẽ rỉ sét, mục nát một cách vô dụng. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân cũng vậy. Đức Chúa Trời có chương trình phong phú cho mỗi Cơ Đốc Nhân tự khám phá. Đức Chúa Trời muốn mỗi người chúng ta “Hãy đứng dậy đi” để tiến vào một xứ “Đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật” (Xuất. 3:8) chứ không chỉ thỏa lòng với trạng thái tiềm sinh thuộc linh trong hoang mạc. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hãy bước ra khỏi sự cầm buộc của cảm xúc, tri giác và hoàn cảnh để tiến lên phía trước theo đức tin. Ngài muốn đời sống thuộc linh chúng ta có nhiều đức tin và ít phụ thuộc vào cảm xúc hơn! Ngay cả khi đã có ý thức và quyết định “Hãy đứng dậy đi”, người ta vẫn còn khả năng mắc lỗi “đi giật lùi”. Vấn vương với quá khứ khiến họ không làm được điều Phaolô đã kinh nghiệm: “Tôi cứ làm một điều: Quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 3:14). Việc đáp lại mệnh lệnh “Hãy đứng dậy đi” đòi hỏi chúng ta phải có một sự chọn lựa: Chúng ta phải chọn tiến lên phía trước theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, và sẽ nhận được quyền năng dẫn dắt không rời của Đức Chúa Trời theo như lời Ngài phán hứa trong Kinh Thánh: “Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó; và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em” (Phil. 3:15). II. “HÃY VỮNG LÒNG BỀN CHÍ” (C. 3-7) Sau khi Môise qua đời, Đức Chúa Trời cần một người đưa Dân Sự tiến lên phía trước, và người ấy chính là Giôsuê. Giôsuê là một mẫu người không chịu thỏa lòng với việc chỉ ngồi yên trong sự an nhàn. Giôsuê muốn làm một điều gì đó giàu ý nghĩa hơn cho Đức Chúa Trời. Chỗ dựa cho cả Giôsuê lẫn Dân Sự là lời hứa của Đức Chúa Trời. Canaan là sản nghiệp của Dân Chúa, điều ấy đã được Đức Chúa Trời hứa với Ápraham và hậu tự Ápraham trong Sách Sáng Thế Ký: “Ta là Đức Giêhôva, Đấng đã dẫn ngươi ra khỏi xứ Urơ, thuộc về xứ Canhđê, để ban cho ngươi xứ nầy làm sản nghiệp” (Sáng. 15:7). Có người giải nghĩa rằng lời hứa này chỉ dành riêng cho Ysơraên, và đã được hoàn nghiệm khi Giôsuê lãnh đạo Ysơraên tiến vào, chinh phục được Canaan. Có người lại cho rằng Canaan là một thực thể trên Thiên Đàng: Sau khi đã trải qua đời này rồi, Dân Chúa mới nhận được xứ ấy. Xứ Canaan là một thực thể địa cầu mà Ysơraên đã chinh phục và sẽ được khôi phục lại cho Ysơraên khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. Kinh Thánh cho biết sẽ có Giêrusalem mới, vì vậy cũng sẽ có Canaan hiểu theo nghĩa một thực thể Thiên Đàng trong cõi đời đời. Mặt khác, dưới Định Kỳ Ân Điển, Cananan cũng còn là hình bóng của đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh, là đời sống mà Đức Chúa Trời muốn tất cả các Cơ Đốc Nhân phải có. Đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh không phải chỉ dành riêng cho một số người nào mà là cho tất cả các Cơ Đốc Nhân, tức là các thánh đồ của Đức Chúa Trời: “Môise, tôi tớ Ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả Dân Sự nầy hãy đứng dậy đi qua sông Giôđanh, đặng vào xứ mà Ta ban cho dân Ysơraên” (C. 3). Động từ sử dụng cho phần cuối của câu Kinh Thánh này ở thì quá khứ: “ĐÃ ban”. “Xứ”, tức Canaan, đã được ban cho Ysơraên, giống như đời sống mới trong Đức Chúa Jêsus đã được dành sẵn cho tất cả những người tin theo Ngài, không phụ thuộc vào sức riêng mà chỉ tùy theo lượng đức tin của mỗi người. “Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến, thì Ta ban cho các ngươi, y như Ta đã phán cùng Môise…”; “Địa phận các ngươi sẽ lan ra…” (C. 4-6). Hàm ý của những lời phán hứa này là Cơ Đốc Nhân có thể có tất cả những gì họ biết nhận lấy trong và qua Đức Chúa Jêsus. Chúng ta có thể có được mọi chiều kích của sự sống đời đời trong Cứu Chúa của chúng ta. Như vậy, nếu chúng ta còn ở trong một tình trạng chưa xứng hiệp, điều ấy có nghĩa rằng chúng ta không thực sự khát khao có đầy trọn những gì Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho chúng ta. Ngày nay, trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, không có lý do chính đáng cho các tín hữu phải phân vân, lo lắng nếu họ biết bước đi theo tiếng phán của Đức Chúa Trời bởi sự dắt dẫn của chính Ngài qua các nhà lãnh đạo thuộc linh trong Hội Thánh. Nếu đã tin theo Đức Chúa Jêsus, chúng ta có thể “vững lòng bền chí” vì mọi sự tốt đẹp đã thuộc về chúng ta. Một em bé đến tham quan tượng đài Tổng Thống Washington, thấy có người lính gác đứng cạnh, em tiến đến nói với người ấy: - Thưa ông, em muốn mua tượng đài này! - “Em có được bao nhiêu tiền?”, người lính gác hỏi em bé. - “Năm mươi xu”, em bé trả lời. Nghe nói thế, người lính gác này giải thích: - Em cần phải hiểu ba điều sau đây: (1) Thứ nhất, năm mươi xu không đủ để mua tượng đài này; thật ra, đến năm mươi triệu đôla cũng không đủ để mua. (2) Thứ hai, tượng đài của Tổng Thống Washington cũng không phải dành để bán. Và, (3) thứ ba, nếu em thực sự là một công dân Hoa Kỳ, tượng đài này vốn đã là của em rồi, không cần phải mua! Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, đôi khi chúng ta cũng không nhận thức được một cách đúng đắn mối quan hệ giữa chúng ta với Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Chúng ta chưa biết tin và nhận lấy bằng sự vâng lời Đức Chúa Trời mà vẫn cứ còn xin những điều vốn đã sẵn dành cho chúng ta: “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (C. 8). Hãy chú ý lời của Sứ Đồ Phaolô trong Kinh Thánh: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời” (Êph. 1:3). Bí quyết để bước đi trong phước hạnh của Đức Thánh Linh chỉ đơn giản là vâng theo lời phán thành văn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Những tấm lòng vâng lời một cách vững lòng bền chí có tác dụng đem lại sự ban cho quyền năng Đức Thánh Linh, và đó chính là đời sống trong miền Đất Hứa dưới Định Kỳ Ân Điển hiện nay. III. “ĐỨC CHÚA TRỜI NGƯƠI VẪN Ở CÙNG NGƯƠI” (C. 8-9) Bí quyết để được ở trong miền Đất Hứa thuộc linh của Đức Chúa Trời còn là việc ở trong sự hiện diện của Ngài. Ở đây, có đến ba lần Đức Chúa Trời phán truyền Giôsuê “Hãy vững lòng bền chí” (C. 6, 7, 9). Tại sao? Đức Chúa Trời phán “hãy vững lòng” có nghĩa là Ngài thấy Giôsuê và Dân Sự cảm biết mình yếu đuối, sợ hãi. Đức Chúa Trời phán “hãy bền chí” có nghĩa là Ngài thấy ở Giôsuê và Dân Sự chưa có được một sự nhìn nhận nghiêm túc và một sự kiên định để hoàn thành sự kêu gọi Thiên Thượng. “Hãy vững lòng bền chí” vẫn còn là một sự khích lệ dành cho tất cả chúng ta ngày nay. Thử hỏi ai trong chúng ta là người không cảm thấy yếu đuối, sợ hãi, thiếu kiên định khi hầu việc Đức Chúa Trời? Đã biết bao lần chúng ta do dự, khước từ đối với tiếng phán của Ngài? Chúng ta thoái thác Đức Chúa Trời mà không hề nhớ những lẽ thật Kinh Thánh qua lời của Sứ Đồ Phaolô: “Chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi” (2Cô. 4:7). “Của Quí” là Đức Thánh Linh và Tin Lành của Đức Chúa Jêsus. “Chậu Bằng Đất” là chúng ta. Đức Chúa Trời đã đẹp ý chọn sử dụng những cá thể yếu đuối, tầm thường như chúng ta để trao quyền phép Đức Thánh Linh của Ngài. Đức Chúa Trời hiện diện trong chúng ta bởi Đức Thánh Linh của Ngài để chúng ta tôn qui vinh hiển cho Ngài. Đức Chúa Trời phán với Giôsuê và Dân Sự rằng “Hãy vững lòng bền chí” vì Ngài ở cùng họ. Đối với chúng ta cũng vậy, Đức Chúa Trời không bao giờ đòi hỏi chúng ta phải một mình làm bất cứ việc gì cả. Có chăng chỉ là chúng ta xao lãng Ngài, không biết ở trong sự hiện diện của Ngài để vâng lời Ngài mà thôi. Về phần Đức Chúa Trời, Ngài không bao giờ thay đổi về lời hứa ở cùng chúng ta; Đức Chúa Jêsus phán: “19Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báptêm cho họ, 20và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma. 28:19-20). Có một bộ tộc thổ dân Châu Mỹ có một phong tục thực tập lòng can đảm cho các thiếu niên rất độc đáo. Ngay đêm đầu tiên một nam thiếu niên bước vào tuổi mười ba, người ấy sẽ được đem bỏ vào rừng già một mình để sống ở đó suốt một đêm. Cho đến đêm thử thách ấy, các thiếu niên chưa bao giờ phải một mình qua đêm ở đâu cả. Thế nhưng vào đêm thử thách, họ được gia đình bịt kín mắt, đem đến một khu rừng già xa lạ rồi thả ra. Khi người nhà bỏ đi rồi, lột khăn bịt mắt ra, người thiếu niên chỉ thấy đêm đen dày đặc, đưa tay lên tận mắt cũng chẳng thấy gì. Lang thang trong rừng, người thiếu niên được thử thách phải sống những giờ phút hết sức căng thẳng: Chỉ cần tiếng nhánh cây khô gãy “rắc” dưới chân cũng khiến họ hình dung ra hình ảnh một con thú dữ nào đó đang rình rập, sẵn sàng lao ra tấn công bất cứ lúc nào. Nghe tiếng thú dữ gầm, rống xa xa, họ tưởng chừng như mình sẽ là con mồi tiếp theo của chúng trong giây lát, và cái chết sẽ đến không sao tránh khỏi. Mỗi lần nghe tiếng gió lao xao trong cành lá, họ sợ dựng tóc gáy, hoang mang không biết hiểm họa nào sẽ xảy đến… Cứ thế suốt một đêm dài là một cực hình tưởng chừng không sao chịu nổi. Chỉ một đêm mà tưởng chừng như vô tận; thế nhưng cái đêm kinh hoàng ấy rồi cũng trôi qua. Và, ngay khi những tia sáng đầu tiên xuất hiện - vẫn còn mờ nhạt cho đến nỗi chưa phân biệt được màu của lá, của hoa - người thiếu niên được thử thách đã phải ngạc nhiên hết sức khi thấy thấp thoáng trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt ấy một bóng người với đầy đủ cung tên, gươm giáo đang bám theo mình trong một khoảng cách không xa. Đó chính là cha của người được thử thách, ông đã bám sát theo đứa con để sẵn sàng bảo vệ trong suốt đêm qua… Đức Chúa Trời là Đấng kêu gọi chúng ta bước ra khỏi hoang mạc thuộc linh trong thế gian này cũng luôn luôn ở bên cạnh chúng ta như thế. Ngài là Đức Chúa Trời đã truyền phán cho chúng ta “ Hãy đứng dậy đi…”, nhưng đồng thời Ngài cũng là Đức Chúa Trời kết ước với chúng ta: “Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (C. 9). Đức Chúa Trời của Môise, Đức Chúa Trời của Giôsuê cũng chính là Đức Chúa Trời của chúng ta ngày nay! Kinh Thánh luôn luôn so sánh sự bước đi của Cơ Đốc Nhân với chiến trận thuộc linh. Để làm một chiến sĩ khôn ngoan, chúng ta phải biết tự vũ trang cho mình một cách thỏa đáng. Tuy nhiên, vũ khí của chúng ta sẽ trở nên vô dụng nếu kênh thông tin giữa chúng ta với Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời bị nhiễu. Điều bắt buộc là chúng ta phải nghe cho được tiếng phán của Đức Chúa Trời. Thế nhưng, để nghe được tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta phải biết phân biệt: (1) Tiếng của Satan là kẻ thù của chúng ta gầm rống như sư tử (1Phi. 5:8). Tiếng của Satan đầy dọa dẫm, dễ làm cho chúng ta khiếp nhược. Nếu chúng ta bị cuốn theo tiếng của Satan, chúng ta sẽ bị tê liệt, không sao tiến lên phía trước được. (2) Tiếng của dân bản địa trong “xứ” là dân mà chúng ta phải chiến đấu để chiến thắng và chinh phục. “Xứ” là thế gian này, là nơi không muốn ánh sáng của Tin Lành soi rọi vào vì nó sẽ làm phơi bày tội lỗi của họ ra. Nếu chúng ta nghe theo tiếng cám dỗ trong thế gian, chúng ta sẽ đánh mất phương hướng, bỏ rơi sự kêu gọi đã được trao ban cho chúng ta. (3) Cũng còn có tiếng huyên náo trong chính trại quân của chúng ta là Hội Thánh nữa! Tiếng này có nhiều giọng khác nhau: Giọng ganh tị, giọng mạ lị, giọng chia rẽ, và cả giọng kiêu ngạo của chính xúc cảm của bản thân… Nếu nghe theo các giọng này, chúng ta dễ bị tụt hậu, thối lui, hoặc bỏ cuộc. Tiếng phán của Đức Chúa Trời mạnh nhưng mang tính yên ủi là thẩm quyền tối hậu đối với chúng ta. Đức Chúa Trời truyền cho chúng ta phải có dũng khí, phải biết nương cậy Ngài không thôi vì Ngài luôn ở với chúng ta. Với sự ở cùng của Đức Chúa Trời trong chúng ta, chúng ta sẽ vô địch (C. 5a), chúng ta sẽ không bao giờ thất bại nếu chúng ta biết kiên trung vâng theo tiếng phán của Ngài: “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (C. 8). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HÃY CHUẨN BỊ CHO THIÊN ĐÀNG!” (Gi. 14:1-3) “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa.” (Gi. 14:1-3) Cuộc sống trên thế gian luôn khiến chúng ta phải lo toan và lắm khi phải bối rối vì hầu như mọi sự đều khó khăn và bất định. Chính từ một sự kinh nghiệm cuộc sống như thế mà nhận thức và thái độ của người tín hữu đã bị sai lệch khá nhiều so với ý định và chương trình hoàn hảo của Đức Chúa Trời dành cho họ. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta bối rối mà hãy cứ nương cậy Ngài. Nếu chúng ta thực sự đặt niềm tin Đức Chúa Jêsus, chúng ta phải biết rằng Thiên Đàng là có thật và dành sẵn cho chúng ta, đồng thời cũng phải biết chuẩn bị cho mình những gì tương thích với sự chuẩn bị của Ngài ở Thiên Đàng cho chúng ta. I. THIÊN ĐÀNG CÓ THẬT VÀ DÀNH SẴN CHO CHÚNG TA Thiên Đàng là có thật vì từ muôn thuở, linh hồn con người luôn luôn biết hoài vọng về một nơi như thế. Bất cứ nền văn hóa nào trên thế gian này, bất cứ thời điểm lịch sử nào của xã hội chúng ta cũng đều có thể tìm thấy được niềm tin của con người vào một cuộc sống phước hạnh cho đời sau. Chúng ta không thể nào tin được rằng Đức Chúa Trời đã gieo vào linh hồn con người một hoài vọng phổ quát như thế mà Ngài lại không sắm sẵn cho họ thực tại ấy. Thật vậy, Đức Chúa Trời phán qua Lời Kinh Thánh cho biết rằng có một nơi như thế: “2Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, Ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. 3Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Gi. 14:2-3) Đức Chúa Jêsus đã có lời hứa về Thiên Đàng cho những kẻ tin Ngài. Nếu là Cơ Đốc Nhân chân thực, chúng ta phải vui mừng về việc tên mình đã được ghi trên Thiên Đàng: “…Hãy mừng vì tên các ngươi đã ghi trên Thiên Đàng” (Lu. 10:20b) Theo Sứ Đồ Phaolô, Đức Chúa Jêsus đang ngự Ngôi oai nghiêm trên Thiên Đàng cùng với Đức Chúa Cha: “Ngài…khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời” (Êph. 1:20) Và Sứ Đồ Phaolô cho biết rằng Thiên Đàng chính là nhà ở trong tương lai của các tín hữu: “1Vả, chúng ta biết rằng nếu nhà tạm của chúng ta dưới đất đổ nát, thì chúng ta lại có nhà đời đời tại trên trời, bởi Đức Chúa Trời, không phải bởi tay người làm ra. 2Vì chúng ta thật than thở trong nhà tạm nầy, mà hết sức mong được mặc lấy nhà chúng ta từ trên trời” (2Cô. 5:1-2) Thiên Đàng là chắc chắn, đó là nơi cho tương lai vinh hiển của người tín hữu (Côl. 1:27). Phaolô cũng cho chúng ta biết rằng việc Đức Thánh Linh đang ở cùng trong đời sống người tín hữu, trên một phương diện, là một sự bảo đảm cho tương lai vinh hiển ấy: “Đấng đã gây dựng cho chúng ta được sự ấy, ấy là Đức Chúa Trời, đã ban của tin của Đức Thánh Linh cho chúng ta” (2Cô. 5:5) Sứ Đồ Phierơ khẳng định rằng Thiên Đàng “1Là cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, không suy tàn, để dành trong các từng trời cho anh em, 2là kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt” (1Phi. 1:4-5) Từ liệu Thiên Đàng (Hb. shamayim; Gk. ouranos) xuất hiện trong Sách Khải Huyền nhiều hơn bất cứ Sách nào khác trong Kinh Thánh. Phân đoạn Kinh Thánh đề cập đến Thiên Đàng rõ nét hơn hết là Khải. 21:1-22:5. Theo đoạn văn Kinh Thánh này, Thiên Đàng được tả vẽ qua ba hình ảnh: [1] Đền Tạm (Khải. 21:1-8); [2] Thành Thánh (Khải. 21:9-27); và là [3] Vườn (Khải. 22:1-5). “Đền Tạm” là hình ảnh mô tả Thiên Đàng theo góc độ mối tương giao hoàn hảo giữa người tín hữu với Đức Chúa Trời. Biểu trưng “Thành Thánh” nhằm cho biết đời sống trên Thiên Đàng là một sự bảo an hoàn toàn. Hình ảnh “Vườn” chỉ cho thấy đời sống trên Thiên Đàng là một sự cung ứng trọn vẹn cho những ai đã từng hết lòng sống nương cậy Đức Chúa Trời. Có một người kia, khi biết không thể sống lâu hơn nữa được, đã cầu xin Đức Chúa Trời ban cho mình một đặc ân là được đem về Thiên Đàng một ít trong số những gì ông có được và quí nhất. Được Đức Chúa Trời cho phép, ông đã suy nghĩ và cuối cùng quyết định đến khi qua đời sẽ mang theo về Thiên Đàng chỉ một vali nhỏ vàng thỏi mà thôi. Đến ngày qua đời, người này đã hết sức vất vả trên đường về Thiên Đàng vì chiếc vali vàng dầu nhỏ là thế nhưng cũng vẫn quá nặng. Đã thế, đến cổng Thiên Đàng, Thiên Sứ giữ cửa ngăn ông lại, không cho đem chiếc vali đựng vàng vào bên trong. Người này đã phải nói cho Thiên Sứ biết rằng ông đã được phép đặc biệt của Đức Chúa Trời để mang theo chiếc vali này; vì thế, Thiên Sứ thôi không ngăn lại nữa mà để cho người ấy kéo lê chiếc vali đầy vàng thỏi của mình vào Thiên Đàng… Qua khỏi cổng Thiên Đàng, người này thật hết sức bất ngờ và ngỡ ngàng: Vật liệu kiến trúc trong Thiên Đàng chỉ toàn bằng ngọc quí và vàng khối! Ngay cả trên con đường dẫn vào Thành Thánh mà ông đang đi, những khối vàng lát mặt đường còn tinh ròng và đẹp hơn những thỏi vàng trong chiếc vali mà ông đã vất vả lắm mới mang lên được đến đây! Thiên Đàng có một cấu hình như thế thì người tín hữu cần phải chuẩn bị những gì cho tương thích với Thiên Đàng? Chúng ta cần phải sống như thế nào để rồi Thiên Đàng sẽ là chỗ ở tiếp theo của chúng ta? II. PHẢI CHUẨN BỊ CHO THIÊN ĐÀNG “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa” (Gi. 14:1) Đây là lời Đức Chúa Jêsus kêu gọi các môn đồ của Ngài hãy tin cậy Đức Chúa Trời trong mọi cảnh ngộ của cuộc đời này. Đức Chúa Jêsus biết Ngài sắp sửa chịu đóng đinh trên Thập Tự Giá và họ sẽ bị tản lạc. Đức Chúa Jêsus truyền cho họ hãy cứ giữ vững lòng tin vì Đức Chúa Trời đã có chương trình hoàn hảo cho những ai nương cậy Ngài. Tin cậy Đức Chúa Trời có nghĩa là vẫn cứ nương cậy nơi thuộc tính của Ngài bất chấp việc xảy ra là gì và xảy ra như thế nào: “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy” (Hê. 11:1) Tin cậy Đức Chúa Trời một cách đúng nghĩa vốn đi ngược lại với bản chất tự nhiên của chúng ta. Tin cậy Đức Chúa Trời có nghĩa là chúng ta thừa nhận rằng mình sẽ thôi không còn là chủ nhân ông của đời sống mình nữa, mà là nhường địa vị ấy lại cho Ngài. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta vẫn thường phải đặt niềm tin vào một việc gì hoặc một ai đó. Chúng ta tin rằng chiếc xe máy mà chúng ta đi sẽ an toàn chứ không phải ở trong tâm trạng hồi hộp, lo rằng nó có thể đổ sập xuống, rã rời ra từng mảnh vào bất cứ lúc nào. Chúng ta làm việc và tin rằng sẽ được trả lương chứ không ai có thể làm việc bình thường trong tâm trạng nơm nớp lo rằng mình sẽ không được trả lương. Chúng ta đi khám Bác Sĩ và uống thuốc theo đơn Bác Sĩ cho vì tin rằng sẽ được lành bệnh; chẳng ai chịu mất công đi khám, chịu tốn tiền, và uống thuốc mà lại không tin rằng sẽ có được kết quả mong muốn. Người đặt niềm tin nơi Đức Chúa Trời phải tin rằng cuối cùng mình sẽ có một cuộc sống phước hạnh đời đời trong Thiên Đàng. Tin Chúa mà không hề có sự hy vọng về Thiên Đàng, ngược lại chỉ có được một số trông cậy nào đó trong đời này mà thôi thì thật là “vô phước”: “Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết” (1Cô. 15:19) Để có thể trải qua cuộc hành hương trên đời tạm này mà không lạc mất phương hướng, người tín hữu phải hoàn toàn tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Khi chúng ta cảm thấy yếu mỏn, Đức Chúa Trời là sức lực của chúng ta. Khi chúng ta bị đặt dưới sức ép của cuộc sống, Đức Chúa Trời là sự vơi nhẹ cho chúng ta. Khi chúng ta cần có sự bảo an, Đức Chúa Trời là nơi trú ẩn của chúng ta. Mọi nguồn lực của Đức Chúa Trời sẽ sẵn sàng cho chúng ta sử dụng nếu chúng ta biết đặt niềm tin của mình nơi chính Ngài: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giêhôva,_Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con;_Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài,_Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con” (Châm. 3:5-6) Không thể nói được rằng mình là người tin cậy Đức Chúa Trời mà lại chưa có Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình, vì không hề có bất cứ phương tiện nào để đến với Đức Chúa Trời mà lại ở ngoài Đức Chúa Jêsus: “5Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người; 6Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người…” (1Ti. 2:5-6a) Nếu không đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời, chúng ta không thể có con đường để tiếp nhận quyền năng, sự thương xót, và tình yêu thương của Ngài. Nếu không đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời, khi sự thử thách đến, chúng ta sẽ thấy quá khó khăn. Thế nên, chúng ta phải biết đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời. Vấn đề cơ bản, và là xuất phát điểm, của tiến trình về Thiên Đàng là việc đặt niềm tin nơi Đức Chúa Trời qua và trong Chúa Cứu Thế Jêsus, Ngài phán: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Gi. 14:6) Thật ra, khi phán rằng “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa” (C. 1), Đức Chúa Jêsus Christ muốn đặt ra một câu hỏi chung cho tất cả mọi người: Đối với những ai chưa nhận được Sự Cứu Rỗi trong Ngài, vẫn còn quằn quại dưới gánh nặng của tội lỗi, Ngài mời gọi: “28Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma. 11:28-30) Đối với những ai đã nhận rằng mình là người tin Chúa, Ngài muốn họ bày tỏ đức tin ấy ra cho mọi người thấy qua đời sống, vì “…Theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở” (2Phi. 3:13). Đời sống Cơ Đốc thực hành của Cơ Đốc Nhân phải được bày tỏ: “Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: Thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia. 1:27) Đức Chúa Jêsus phán rằng “Khi Ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Gi. 14:3). Một khi Đức Chúa Jêsus đã phán như thế thì có nghĩa là của cải của chúng ta là tình yêu thương của Đức Chúa Trời là Đấng Yêu Thương. Của cải của chúng ta là Ân Điển và sự bình an từ nơi Đức Chúa Trời của Sự Yên Ủi. Của cải của chúng ta là sự bảo an từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng đời đời bất biến. Của cải của chúng ta là sự gìn giữ và cung ứng từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng. Của cải của chúng ta là sự tán thưởng từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng toàn tri. Của cải của chúng ta là sự sống đời đời từ nơi Đức Chúa Trời là Đấng đã phó Con Một của Ngài cho chúng ta có được tất cả mọi sự. Đức Chúa Trời đang đợi chúng ta đáp ứng thuận theo sự dạy dỗ và kêu gọi này của Ngài, sống tin quyết và nương cậy Ngài trong mọi sự, biết chắc Thiên Đàng dành sẵn cho chúng ta và chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho Thiên Đàng. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |