“ÂN TỨ THUỘC LINH (#2)” (1Cô. 12:7) “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7) Ngay tại lúc tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và làm Chúa đời sống mình, mỗi người chúng ta được Đức Chúa Trời sáp nhập vào Hội Thánh của Ngài và chúng ta được chia sẻ sự sống của Đức Chúa Jêsus: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7). Đức Chúa Trời không muốn chúng ta làm những thành viên thụ động trong Hội Thánh. Ngài không muốn chúng ta là những con người nhàn cư, vô sự. Đức Chúa Trời đã định rằng mỗi thành viên của Hội Thánh đều là một thành viên hoạt động, tích cực. Ngài trao ban cho mỗi người chúng ta một chức năng trong Hội Thánh của Ngài, không miễn trừ bất cứ một ai. Chức phận đầy tớ thuộc về mọi thành viên trong Hội Thánh, mọi cá nhân trong Hội Thánh đều có một vị trí đặc biệt trong chương trình của Đức Chúa Trời, đều hữu dụng đối với kế hoạch của Đức Chúa Trời trong Hội Thánh. I. ÂN TỨ THUỘC LINH CÓ TRONG MỖI NGƯỜI. Thật ra, Đức Chúa Trời đã ban ân tứ thuộc linh cho mọi thành viên trong Hội Thánh tại lúc họ tiếp nhận sự cứu rỗi. Nếu còn có thành viên nào nhàn cư, vô sự thì chỉ vì người ấy vẫn chưa khám phá và thực hành được các ân tứ của mình mà thôi. Warren Myers trong tác phẩm “Pray: How To Be Effective In Prayer” có nhắc đến hai nhân vật xuất sắc: William Carrey, Giáo Sĩ ở Ấn Độ, và “Carrey Bại Liệt”, là em gái của William Carrey, một người hầu như bại liệt hoàn toàn. William Carrey đã hoàn thành công trình dịch và xuất bản Kinh Thánh không ai so sánh được trong lịch sử truyền giáo. Như chúng ta đọc được ở chương cuối tác phẩm của Myers, William Carrey được gọi là “Cha Đẻ Của Các Giáo Sĩ Hiện Nay”. Đến nay chúng ta vẫn không biết được tên đầy đủ của em gái William Carrey, thế nhưng trong khi William Carrey làm công việc dịch Kinh Thánh ở Ấn Độ và in ra bằng 40 thứ ngôn ngữ khác nhau thì tại London, “Em Gái Carrey” tuy phải nằm liệt giường vẫn cứ cầu nguyện từ giờ này sang giờ khác, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, và năm này sang năm khác! “Em Gái Carrey” cầu nguyện cho từng chi tiết, cho từng trục trặc, cho từng trăn trở,… cho công việc của William Carrey, anh trai của mình! Đem câu chuyện của anh em nhà Carrey vào tác phẩm của mình, Warren Myers muốn nêu lên một câu hỏi: Theo cách nhìn nhận của Đức Chúa Trời, trong những gì William Carrey đã làm được, công của ai lớn hơn? Tất cả chúng ta đều có thể nhìn nhận rằng “Em Gái Carrey” đã dự phần vào chức vụ của anh mình. Thật ra, phần việc của “Em Gái Carrey” là một phần quan trọng đặc biệt. Về nguyên tắc, thiếu sự cầu nguyện của “Em Gái Carrey”, chức vụ của William Carrey không thể kết quả được như thế. Trong khi William Carrey dịch Kinh Thánh ở Ấn Độ, được nhiều người trên thế gới biết đến, “Em Gái Carrey” âm thầm cầu nguyện tại nhà ở London, không ai thấy, không ai biết. Cả hai đều quan cùng quan trọng vì chính Đức Chúa Trời đã trang bị cho họ hoàn thành chức năng của mình. Đó là ơn Đức Chúa Trời ban cho mỗi người, đó là ân tứ thuộc linh: Một ân tứ thuộc linh là một thân năng được Đức Chúa Trời ban cho và được Đức Thánh Linh làm cho có quyền năng để thực hiện một chức năng cụ thể giữa vòng Hội Thánh mà Đức Chúa Trời đã phân công cho mỗi người chúng ta. Mỗi ân tứ thuộc linh bao giờ cũng có một chức năng trong Hội Thánh. Và, như Kinh Thánh cho biết, trong Hội Thánh ai cũng được trao ban ân tứ thuộc linh, không ai có thể nói được rằng “Tôi không hề có phận sự nào trong Hội Thánh, vì tôi không làm được gì cho Hội Thánh cả!”: “4Vả, như trong một thân chúng ta có nhiều chi thể, và các chi thể không làm một việc giống nhau… 6Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta…” (Rô. 12:4, 6). II. ÂN TỨ THUỘC LINH CHO THA NHÂN VÀ VÌ SỰ VINH HIỂN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI. Theo Phierơ, ân tứ thuộc linh phải giúp phục vụ tha nhân và tôn qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời; hai mục tiêu ấy của ân tứ thuộc linh phải luôn được nhắm đến; trong đó, mục tiêu tôn qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời là nguyên tắc tối cao của mọi hành vi Cơ Đốc. Đừng bao giờ sử dụng các ân tứ thuộc linh mà mình có để làm cho bản thân được nổi bật mà hãy chỉ sử dụng các ân tứ đã được trao ban cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời: “Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Côl. 3:17). “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (1Cô. 10:31). Để Đức Chúa Trời được vinh hiển, không phải chỉ với một phạm vi hạn hẹp của bốn bức tường nơi chúng ta nhóm lại là đủ. Đức Chúa Trời muốn chúng ta sử dụng ân tứ thuộc linh trong nhà ở của mình, với láng giềng của mình, tại cộng đồng cư dân mà mình đang sống, trong trường học, ở nơi làm việc, cùng tất cả những nơi nào chúng ta đặt chân đến: “10Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời. 11Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng đáng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:10-11). Đừng vì thấy một người nào đó không có mặt trong ban hát, hoặc không bao giờ được bước lên bục hướng dẫn, hay là không ở trong Ban Điều Hành Hội Thánh Địa Phương mà chúng ta tưởng là họ không có ân tứ thuộc linh nào cả. Một người có thể không có mặt trong ban hát, không bao giờ được bước lên bục hướng dẫn, không phải là một Chấp Sự,… nhưng họ có thể nấu cho mọi người trong Hội Thánh ăn, sửa chữa đồ đạc trong Hội Thánh cho mọi người dùng, chưng dọn phòng nhóm cho mọi người có nơi thờ phượng vui vẻ… Một người có thể không hề đứng trên bục giảng để giảng dạy một cách trôi chảy, đầy sức thuyết phục được nhưng họ có thể bày trò chơi để sinh hoạt với thanh thiếu niên, hướng được tấm lòng và sinh hoạt của thanh thiếu niên đi vào con đường Đức Chúa Trời đẹp ý thì đó là ân tứ thuộc linh của họ. Mỗi người đều có ít nhất một ân tứ nào đó để góp phần làm ích cho nhau trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời: “Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy được sự ích chung” (1Cô. 12:7). Đó cũng là điều có thể dễ dàng nhận thấy trong đời sống xã hội. Tháng Ba năm 1981, Tổng thống Hoa Kỳ là Ronald Reagan đã bị Hinclev, Jr. bắn bị thương phải nằm bệnh viện mất mấy tuần. Mặc dầu Tổng Thống Reagan là chuyên gia hàng đầu của cả nước, là Nguyên Thủ Quốc Gia, nhưng việc ông gác công việc lại để nằm điều trị ở bệnh viện chỉ ảnh hưởng rất ít đến toàn bộ công việc của Chính Phủ mà thôi. Tổng Thống vắng mặt, không làm việc được, nhưng Chính Phủ vẫn hoạt động được. Thế nhưng, hãy thử tưởng tượng tất cả những người quét rác của nước Hoa Kỳ đồng loạt đình công một thời gian cũng bằng thời gian Tổng Thống nằm bệnh viện: Việc gì sẽ xảy ra? Chắc chắn cả nước sẽ tràn ngập rác, và sẽ có người chết vì rác! Vậy ai quan trọng hơn ai? III. ÂN TỨ THUỘC LINH CỦA ĐỨC TIN VÀ ĐỜI SỐNG VÂNG LỜI. Tính hữu hiệu của ân tứ thuộc linh tùy thuộc vào đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus của cá nhân. Không nhờ Chúa, chúng ta chẳng làm được gì cả. Để duy trì một cách nhìn đúng về sự chuyên tâm trong phận sự cá nhân và một thái độ chân thật trong sự nương cậy nơi quyền phép của Đức Chúa Trời, chúng ta cần phải chú ý đến hai phương diện. Một mặt, chúng ta cần tránh phạm sai lầm bởi sự lười biếng, uể oải rồi mượn cớ rằng “chúng ta phải cầu xin Chúa”, phải “để cho Chúa làm tất cả”. Mặt khác, chúng ta cần phải tránh sự cậy mình, lấy những nổ lực cá nhân thay cho phước hạnh của Đức Chúa Trời. Chúng ta không được sử dụng ân tứ thuộc linh chỉ như là thân năng thuần túy của chính mình, nhờ thực hành thuần thục mà có. Việc thực hành ân tứ thuộc linh phải hoàn toàn dựa vào đức tin trong Đức Chúa Jêsus và Lời Ngài trong Kinh Thánh: “Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong Ta và Ta trong họ thì sinh ra lắm trái; vì ngoài Ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Gi. 15:5). Dầu rằng ân tứ thuộc linh cũng là thân năng có nơi người tín hữu, nhưng thân năng tự có khác hẳn với ân tứ thuộc linh. Ân tứ thuộc linh có được nhờ công việc của Đức Thánh Linh trong đời sống người tin; thân năng thuần túy có được nhờ di truyền, môi trường, và giáo dục. Chỉ những người tin theo Đức Chúa Jêsus mới được nhận lãnh Đức Thánh Linh, và chỉ những người được Đức Thánh Linh ở cùng (là các tín hữu) mới được trao ban ân tứ thuộc linh: “…37Nếu người nào khát, hãy đến cùng Ta mà uống. 38Kẻ nào tin Ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy ra từ trong lòng mình, y như Kinh Thánh đã chép vậy” (Gi. 7:37b-38). Đức tin và sự trung tín luôn gắn liền với ân tứ thuộc linh. Trong ẩn dụ về các ta lâng (Ma. 25:14-30), sự trung tín được sử dụng làm căn cứ cho việc ban thưởng. Vì thế, những người trung tín hơn hết vốn thường là những người được ban phước nhiều nhất trong chức vụ. Một số học giả Kinh Thánh gọi đây là giáo lý về tính khả phước (blessability doctrine), theo đó Đức Chúa Trời chỉ ban phước cho những ai có thể ban phước được: “10Ai trung tín trong việc rất nhỏ, cũng trung tín trong việc lớn; ai bất nghĩa trong việc rất nhỏ, cũng bất nghĩa trong việc lớn. 11Vậy nếu các ngươi không trung tín về của bất nghĩa, có ai đem của thật giao cho các ngươi” (Lu. 16:10-11). “Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi” (Ma. 25:21). Tuy nhiên, nhờ sự nhân từ của Đức Chúa Trời, Ngài cũng sử dụng ân tứ thuộc linh ở một số người ngay cả khi họ không còn trung tín nữa, khi tội lỗi của họ được phát giác, và đó chỉ là những trường hợp ngoại lệ. Đối với những trường hợp như vậy, không thể nói được rằng con người của họ được Đức Chúa Trời ban phước mà chỉ có thể thấy được rằng ân tứ thuộc linh trên đời sống họ được Đức Chúa Trời ban phước nhằm hoàn thành những mục đích nhất định nào đó của Ngài mà thôi. Giá như họ cứ giữ mình trong sự trung tín, Đức Chúa Trời chắc chắn đã sử dụng họ còn đặc biệt hơn thế. IV. ÂN TỨ THUỘC LINH VÌ TÌNH YÊU THƯƠNG. Chỉ duy nhất tình yêu thương mới có thể đem lại giá trị thật cho ân tứ thuộc linh. Sứ Đồ Phaolô cho biết rằng dầu chúng ta có được những ân tứ thuộc linh rất “cao trọng” nhưng nếu thiếu tình yêu thương thì con người và công việc của chúng ta đều vô nghĩa: “1Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ, nếu không có tình yêu thương, thì tôi chỉ như đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng. 2Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được, nhưng không có tình yêu thương, thì tôi chẳng ra gì. 3Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi” (1Cô. 13:1-3). Không phải tình yêu thương được đặt cao hơn các ân tứ thuộc linh. Vấn đề ở chỗ “tình yêu thương” đem lại cho các ân tứ thuộc linh chân giá trị của nó là sự gây dựng: “1Hãy nôn nả tìm kiếm tình yêu thương. Cũng hãy ước ao các sự ban cho thiêng liêng, nhứt là sự ban cho nói tiên tri. 2Vì người nào nói tiếng lạ, thì không phải nói với người ta, bèn là nói với Đức Chúa Trời, bởi chẳng có ai hiểu (ấy là trong tâm thần mà người kia nói lời mầu nhiệm); 3còn như kẻ nói tiên tri, thì nói với người ta để gây dựng, khuyên bảo và yên ủi. 4Kẻ nói tiếng lạ, tự gây dựng lấy mình; song kẻ nói tiên tri, gây dựng cho Hội Thánh. 5Tôi ước ao anh em đều nói tiếng lạ cả, song tôi còn ước ao hơn nữa là anh em nói tiên tri. Người nói tiên tri là trọng hơn kẻ nói tiếng lạ mà không giải nghĩa để cho Hội Thánh được gây dựng” (1Cô. 14:1-5). Chúng ta sống là để làm đẹp ý Đức Chúa Trời. Ngài trang bị chúng ta cho mục đích ấy bằng các ân tứ thuộc linh, là những thân năng được Đức Thánh Linh ban quyền, để chúng ta đóng góp phần tích cực nhất của mình cho Hội Thánh. Ân tứ thuộc linh có trong mỗi người nhưng đó không phải là một khoản tài sản cá nhân để chúng ta chi tiêu tùy tiện. Ân tứ thuộc linh là để phục vụ tha nhân và làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Ân tứ thuộc linh là quà tặng cặp theo đức tin cứu rỗi đặt trong Đức Chúa Jêsus. Ân tứ thuộc linh chỉ có được chân giá trị khi nó được kích hoạt bởi tình yêu thương và gia tốc cho tình yêu thương: Yêu Chúa và yêu tha nhân. Việc sở hữu ân tứ thuộc linh giúp cho chúng ta trở nên hữu dụng nhưng cũng đồng thời làm cho chúng ta thực thụ có được chức phận đầy tớ đối với Đức Chúa Trời. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ÂN TỨ THUỘC LINH (#1)” (1Cô. 12:6) “Có các việc làm khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời, là Đấng làm mọi việc trong mọi người” (1Cô. 12:6) Để có thể biết ân tứ thuộc linh là gì, và ân tứ thuộc linh từ đâu đến, chúng ta cần phải tra xét Lời Kinh Thánh là lời có thẩm quyền giải đáp cho các câu hỏi ấy, vì: “Nếu Đức Giêhôva không cất nhà,_Thì những thợ xây cất làm uổng công._Nhược bằng Đức Giêhôva không coi giữ thành,_Thì người canh thức canh luống công” (Thi. 127:1). Chỉ những gì được Đức Chúa Trời ban cho mới thực sự có giá trị và giúp cho chúng ta sống được theo mục đích mà Ngài đã định. Nếu chẳng phải như thế, dầu trông bề ngoài có vẻ như thế nào cũng chỉ là vô ích mà thôi; thậm chí, có thể còn có hại nữa! I. CHÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI BAN ÂN TỨ THUỘC LINH. Chúng ta không thể làm được gì ngoài Chúa. Chúng ta phải được Đức Chúa Trời thiết lập giữa vòng Hội Thánh và trong chính đời sống cá nhân của mình. Sự gây dựng mà mỗi người chúng ta có được là nhờ bàn tay của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời vận hành thông qua những ân tứ thuộc linh mà chính Ngài đã ban, để các ân tứ ấy được sử dụng để gây dựng Hội Thánh của Ngài, trong đó có mỗi một người chúng ta: “4Chỉ có một Thân Thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi; 5chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép Báptêm; 6chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người. 7Nhưng, đã ban Ân Điển cho mỗi một người trong chúng ta theo lượng sự ban cho của Đấng Christ” (Êph. 4:4-7). Như vậy, chúng ta có: (1) Một Thân Thể là Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus Christ; (2) Một Đức Thánh Linh; (3) Một sự trông cậy [Sự cứu rỗi]; (4) Một Chúa [Đức Chúa Jêsus Christ]; (5) Một đức tin [Không phải chỉ là hệ phái]; (6) Một phép Báptêm; (7) Một Cha chung [Đức Chúa Trời], Ngài ở trên chúng ta, giữa vòng chúng ta, và trong mỗi người chúng ta! Tất cả mọi tín hữu trong Đức Chúa Jêsus đều cùng thuộc về một Thân Thể, được liên hiệp lại dưới duy nhất một Đầu là Đức Chúa Jêsus. Mỗi tín hữu đều được Đức Chúa Trời ban cho những năng lực nhất định để góp phần làm vững mạnh (Gây dựng) cả Thân Thể (Hội Thánh). Khả năng đó của mỗi người có thể nhiều hay ít nhưng tất cả đều là ơn Đức Chúa Trời ban cho để mỗi người được góp phần của mình vào việc gây dựng cộng đoàn Hội Thánh. Mọi ân tứ thuộc linh đều đến từ Đức Chúa Trời và đều thống nhất với nhau trong tác dụng gây dựng Hội Thánh của Ngài. II. ÂN TỨ THUỘC LINH ĐA DẠNG, PHONG PHÚ. Sứ Đồ Phaolô cho chúng ta biết rằng tương tự với việc thân thể người ta có nhiều chi thể với những chức năng khác nhau; Hội Thánh cũng có nhiều chi thể khác nhau với các chức năng khác nhau: “4Vả, như trong một thân chúng ta có nhiều chi thể, và các chi thể không làm một việc giống nhau, 5thì cũng vậy, chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một Thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau” (Rô. 12:4-5). Trong Thân Thể của Đấng Christ là Hội Thánh, không phải ai nấy đều có cùng một vai trò, chức năng như nhau. Sứ Đồ Phaolô chỉ cho thấy rằng chúng ta, nhờ là chi thể của cùng chung một Thân Thể, đều có chung một Thánh Linh; và mỗi một chúng ta phải biết nương dựa nhau vì chúng ta cần có sự hoạt động chung như một tổng thể thống nhất. Mỗi người chúng ta đều cần lẫn nhau như cần chính mình vậy: “12Vả, như thân là một, mà có nhiều chi thể, và như các chi thể của thân dầu có nhiều, cũng chỉ hiệp thành một thân mà thôi, Đấng Christ khác nào như vậy. 13Vì chưng chúng ta hoặc người Giuđa, hoặc người Gờréc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép Báptêm chung một Thánh Linh để hiệp làm một Thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa. 14Thân cũng chẳng phải có một chi thể, bèn là nhiều chi thể. 15Nếu chân rằng: Vì ta chẳng phải là tay, nên ta không thuộc về thân, thì chẳng phải bởi đó chân không có phần trong thân. 16Và nếu tai rằng: Vì ta chẳng phải là mắt, nên ta không thuộc về thân, thì tai chẳng phải bởi đó không có phần trong thân. 17Ví bằng cả thân đều là mắt, thì sự nghe ở đâu? Nếu cả thân đều là tai, thì sự ngửi ở đâu? 18Nhưng bây giờ, Đức Chúa Trời đã sắp đặt các chi thể của Thân chúng ta, ban cho mỗi một chi thể cái địa vị theo ý Ngài lấy làm tốt mà chỉ định” (1Cô. 12:12-18). Đức Chúa Trời biết ai là người hiệu quả nhất ở những ân tứ nào, và vào lúc nào; Ngài ban ân tứ thuộc linh cho mỗi người tùy theo sự đẹp ý của Ngài. III. MỘT SỐ CÁC ÂN TỨ THUỘC LINH. Kinh Thánh không xác định rõ số lượng các ân tứ thuộc linh. Chúng ta cũng không nên hạn chế năng lực của Đức Chúa Trời bằng cách hạn định số lượng các ân tứ thuộc linh. Chúng ta nên biết rằng còn có cả những ân tứ thuộc linh mà người ta quá đỗi quen thuộc đến độ không còn nhận ra được rằng đó là ân tứ được Đức Chúa Trời ban cho. Số lượng các ân tứ thuộc linh được Kinh Thánh nhắc đến chưa phải là tất cả: “3Vậy, nhờ ơn đã ban cho tôi, tôi nói với mọi người trong anh em chớ có tư tưởng cao quá lẽ, nhưng phải có tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã phú cho từng người. 4Vả, như trong một thân chúng ta có nhiều chi thể, và các chi thể không làm một việc giống nhau, 5thì cũng vậy, chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một Thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau. 6Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; 7ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm” (Rô. 12:3-8). Các ân tứ thuộc linh được nêu lên ở đây là : (1) Nói tiên tri [Gk. propheteia], (2) Làm chức vụ [Gk. diakonia], (3) Dạy dỗ [Gk. didasko; Êph. 4:11 > “Giáo Sư”, didaskalos], (4) Khuyên bảo [Gk. parakaleo], (5) Bố thí [Gk. metadidomi], (6) Cai trị [Gk. proistemi], (7) Làm sự thương xót [Gk. eleeo]. Chúng ta còn có thể tìm thấy các ân tứ thuộc linh khác như: (8) Nói lời khôn ngoan [Gk. sophia], (9) Nói lời tri thức [Gk. gnosis], (10) Đức tin [Gk. pistis], (11) Chữa tật bịnh [Gk. iama], (12) Làm phép lạ [Gk. dunamis], (13) Phân biệt các thần [Gk. diakrisis], (14) Nói nhiều thứ tiếng khác nhau [Gk. glossa], (15) Thông giải [Gk. hermeneia]. Lời Kinh Thánh phán: “8Vả, người nầy nhờ Đức Thánh Linh, được lời nói khôn ngoan; kẻ kia nhờ một Đức Thánh Linh ấy, cũng được nói lời có tri thức. 9Bởi một Đức Thánh Linh, cho người nầy được đức tin; cũng bởi một Đức Thánh Linh ấy, cho kẻ kia được ơn chữa tật bịnh; người thì được làm phép lạ; kẻ thì được nói tiên tri; người thì được phân biệt các thần; kẻ thì được nói nhiều thứ tiếng khác nhau, người thì được thông giải các thứ tiếng ấy. 11Mọi điều đó là công việc của đồng một Đức Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người” (1Cô. 12:8-11). Trong 1Cô. 12:28, Kinh Thánh cho biết về một số các ân tứ thuộc linh khác: (16) Sứ Đồ [Gk. apostolos], (17) Cứu giúp [Gk. antilepsis], (18) Cai quản [Gk. kubernesis]. Êph. 4:11 nhắc đến các ân tứ thuộc linh (19) Thầy Giảng Tin Lành [Gk. euaggelistes], (20) Mục Sư [Gk. poimen]. Ngoài ra, 1Phi. 4:11 cũng còn đề cập đến ân tứ thuộc linh (21) Giảng luận [Gk. laleo] nữa: “Đức Chúa Trời đã lập trong Hội Thánh, thứ nhứt là Sứ Đồ, thứ nhì là Đấng Tiên Tri, thứ ba là Thầy Giáo, kế đến kẻ làm phép lạ, rồi kẻ được ơn chữa bịnh, cứu giúp, cai quản, nói các thứ tiếng” (1Cô. 12:28). “Ấy chính Ngài đã cho người nầy làm Sứ Đồ, kẻ kia làm Tiên Tri, người khác làm Thầy Giảng Tin Lành, kẻ khác nữa làm Mục Sư và Giáo Sư” (Êph. 4:11). “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:11). IV KHÔNG THỂ ĐÒI HỎI, CŨNG KHÔNG THỂ XEM NHẸ ÂN TỨ THUỘC LINH NÀO CẢ. Chúng ta có thể chọn lựa và cầu xin cho được loại ân tứ nào mà ý riêng của chúng ta muốn không? Câu trả lời là “không”: “Mọi điều đó là công việc của đồng một Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người” (1Cô. 12:11). Sự ban cho ân tứ thuộc linh là công việc của duy nhất Đức Chúa Trời, Chúng ta không thể theo ý riêng mà có được. Khả năng khôn ngoan của chúng ta, tính chất hữu lý mà chúng ta nhận thức,… tất cả đều vô nghĩa trước sự toàn tri và quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Theo cách nhìn nhận của Đức Chúa Trời, không có ân tứ thuộc linh nào là kém cõi cả. Tất cả các ân tứ thuộc linh đều phải được xem là quí trọng như nhau: “21Mắt không được nói với bàn tay rằng: Ta chẳng cần đến mầy; đầu cũng chẳng được nói với chân rằng: Ta chẳng cần đến bay. 22Trái lại, các chi thể của thân xem ra rất yếu đuối lại là cần dùng. 23Chi thể nào trong thân chúng ta nghĩ là hèn hạ hơn, thì chúng ta tôn trọng hơn; chi thể nào chẳng đẹp, thì chúng ta lại trau giồi hơn, 24còn như cái nào đã đẹp rồi, thì không cần trau giồi. Nhưng Đức Chúa Trời đã sắp đặt thân người, để chi thể nào thiếu thốn thì được quí trọng hơn, 25hầu cho trong Thân không có sự phân rẽ, mà các chi thể phải đồng lo tưởng đến nhau. 26Lại, trong các chi thể, khi có một cái nào chịu đau đớn, thì các cái khác đều cùng chịu; và khi một cái nào được tôn trọng, thì các cái khác đều cùng vui mừng” (1Cô. 12:21-26). V. PHÁT TRIỂN ÂN TỨ THUỘC LINH LÀ MỘT PHẬN SỰ Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Jêsus ủy thác cho chúng ta các ân tứ thuộc linh của Ngài như một sự đầu tư vào đời sống chúng ta các tài sản của Ngài. Chúng ta sẽ được hưởng lợi của sự đầu tư ấy tùy theo mức độ vâng lời của chúng ta đối với Ngài (Sv. Ma. 25:15, dunamis: “tài”, cũng là “đức hạnh”): “14Vả, Nước Thiên Đàng sẽ giống như một người kia, khi đi đường xa, gọi các đầy tớ mà giao của cải mình. 15Chủ đó cho người nầy năm talâng, người kia hai, người khác một, tùy theo tài mỗi người; đoạn, chủ lên đường. 16Tức thì, người đã nhận năm talâng đi làm lợi ra, và được năm talâng khác. 17Người đã nhận hai talâng cũng vậy, làm lợi ra được hai talâng nữa. 18Song người chỉ nhận một thì đi đào lỗ dưới đất mà giấu tiền của chủ. 19Cách lâu ngày, chủ của những đầy tớ ấy trở về khiến họ tính sổ. 20Người đã nhận năm talâng bèn đến, đem năm talâng khác nữa, và thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi nămtalâng; đây nầy, tôi làm lợi ra được năm talâng nữa. 21Chủ nói với người rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. 22Người đã nhận hai talâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi hai talâng; đây nầy, tôi đã làm lợi ra được hai talâng nữa. 23Chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi. 24Người chỉ nhận một talâng cũng đến mà thưa rằng: Lạy chúa, tôi biết chúa là người nghiêm nhặt, gặt trong chỗ mình không gieo, lượm lặt trong chỗ mình không rải ra; 25nên tôi sợ mà đi giấu talâng của chúa ở dưới đất; đây nầy, vật của chúa xin trả cho chúa. 26Song chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia, ngươi biết ta gặt trong chỗ ta không gieo, và lượm lặt trong chỗ ta không rải ra; 27vậy thì ngươi phải đưa bạc của ta lại cho người buôn bạc, rồi khi ta trở về, sẽ lấy vốn và lời. 28Vậy, các ngươi hãy lấy talâng của người nầy mà cho kẻ có mười talâng. 29Vì sẽ cho thêm kẻ nào đã có, thì họ sẽ dư dật; nhưng kẻ nào không có, thì cũng cất luôn điều họ đã có nữa. 30Còn tên đầy tớ vô ích đó, hãy quăng nó ra ngoài là chỗ tối tăm, ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng” (Ma. 25:14-30). Như vậy, chúng ta phải biết vận dụng các ân tứ thuộc linh mà chúng ta đã nhận được theo một phương hướng phát triển nhất, sinh lợi nhất để hoàn thành chương trình đầu tư của Đức Chúa Jêsus trên đời sống của chúng ta. Đức Chúa Jêsus đầu tư vào đời sống của chúng ta là nhằm phát triển: Phát triển chính đời sống của chúng ta và phát triển nhiều đời sống khác trong Hội Thánh. Chúng ta phải khám phá ra các ân tứ thuộc linh mà Đức Chúa Trời đã đầu tư vào đời sống của mình, chúng ta phải biết dốc lòng phát huy hết tác dụng của những gì Chúa đã ban, đừng để bị kể là “Đầy tớ dữ và biếng nhác”. Kinh Thánh bày tỏ cho chúng ta thấy được rằng mọi ân tứ thuộc linh đều bởi Đức Chúa Trời mà có để mọi tín hữu đều có thể góp phần xây dựng gia đình chung của mình là Hội Thánh; do đó, ai cũng có được ít nhất là một ân tứ thuộc linh. Ân tứ thuộc linh vốn đa dạng và phong phú, không hề có việc tất cả mọi người đều có cùng một loại ân tứ thuộc linh giống nhau được. Đòi hỏi người khác phải có cùng loại ân tứ thuộc linh giống như mình, hoặc nhất định đòi cho có loại ân tứ thuộc linh theo ý riêng của mình đều là những sự mong muốn không hợp Kinh Thánh, vì chính Đức Chúa Trời mới là Đấng duy nhất qui định ai được ban cho ân tứ gì trong thời điểm nào. Ân tứ thuộc linh được ban cho mọi tín hữu để ai nấy đều được dự phần trong việc gây dựng Hội Thánh, như vậy cũng không có việc một ân tứ thuộc linh nào đó được kể là dấu hiệu để biểu thị sự cứu rỗi, sự nên thánh, hay tình trạng thuộc linh của Cơ Đốc Nhân. Sau cùng, chỉ thực hành ân tứ thuộc linh cho mục đích gây dựng Hội Thánh mới làm đẹp ý Đức Chúa Trời được, vì ân tứ thuộc linh sẽ vô nghĩa khi thiếu tình yêu thương (Sv. 1Cô. 13). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“‘CÁI GIẰM’ TRONG ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC NHÂN” (2Cô. 12:5-10) “Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, t hì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo” (2Cô. 12:7) “Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo” (2Cô. 12:7) -- Theo một chuyện ngụ ngôn của Aesop, có hai chú gà trống đá nhau để giành quyền làm chủ sân kho. Chú gà thua cuộc phải lặng lẽ lẻn đi chỗ khác, nấp mình trong bụi cây, đầy tủi hổ. Trong khi đó, chú gà thắng cuộc nhảy tót lên mái nhà, vỗ cánh, gáy vang mấy hồi liền. Một con diều hâu lớn chứng kiến từ đầu đến cuối câu chuyện, từ trên cây cao bổ nhào xuống, cắp chặt chú gà đang gáy giữa những móng vuốt không sao thoát được, đem đi mất dạng. Còn lại chỉ có một mình, chú gà thua cuộc mặc nhiên trở thành kẻ thắng cuộc. Khi thắng cuộc, con người cũng có khuynh hướng “gáy” như thế. Về mặt bản chất, con người vốn có khuynh hướng tự kỷ trung tâm và kiêu ngạo. Thậm chí, ngay cả khi không có sự cố đặc biệt gì, chỉ cần được bình tịnh, yên ổn, thoải mái, người ta cũng trở thành tự mãn, không biết nương cậy. Thế nhưng Kinh Thánh cảnh báo rằng “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau,_Và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Châm 16:18). Sự trước thuật trong 2Cô. 12:1- 4 cho thấy Sứ Đồ Phaolô đã kinh nghiệm được những đắc thắng thuộc linh hết sức đặc biệt nhưng rồi ông cũng đã trải qua cuộc tranh chiến với tính tự kỷ trung tâm, và những niềm hân hoan ông nhận được cũng đồng thời là cạm bẫy cho linh hồn. Không ít người trong chúng ta đang đứng trước mối hại của trạng thái ổn định. Hễ khi nào cuộc sống chúng ta được thuận lợi, tiền bạc dồi dào, tình cảm thỏa mãn,… thì đó cũng chính là lúc chúng ta đứng trước nguy cơ về một tấm lòng thoái hóa: Ngủ quên, càng lúc càng trở nên tự mãn, ít biết nương cậy. Để giữ chúng ta khỏi mối hại lớn của một tấm lòng mê muội, lạc lầm, đôi khi Đức Chúa Trời cho phép sự trục trặc, đau đớn, hoặc đau khổ xảy đến với chúng ta hầu cho chúng ta thức tỉnh mà quay trở lại nương cậy Ngài: “Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Satan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo” (2Cô. 12:7). Lời Kinh Thánh này giải đáp được một loạt các câu hỏi “Tại sao?” của chúng ta: Tại sao Đức Chúa Trời lại để cho chúng ta phải chịu khổ? Tại sao chúng ta phải nếm mùi đau đớn thể chất và tinh thần? Tại sao thân xác chúng ta phải hao mòn, tình cảm chúng ta phải biến dạng? Đức Chúa Trời cho phép những điều như thế đến với đời sống của chúng ta để giữ chúng ta ở trong sự hạ mình, tỉnh thức, nương cậy Ngài luôn luôn. Đức Chúa Trời không phải chỉ quan tâm ở những gì chúng ta hoàn thành cho Ngài mà Ngài cũng còn quan tâm đến việc chúng ta trông cậy Ngài như thế nào nữa. Đã từng có nhiều học giả Kinh Thánh tranh luận với nhau trong một thời gian dài về vấn đề bản chất của “cái giằm” của Sứ Đồ Phaolô. Tuy nhiên, Kinh Thánh cho thấy vị Sứ Đồ này không lập luận mà chỉ sử dụng bốn từ liệu khác nhau để mô tả cho chúng ta biết “cái giằm” ấy là gì. I. “CÁI GIẰM XÓC VÀO THỊT” (C. 7) Việc cho biết rằng“Một cái giằm xóc vào thịt tôi” (Gk. skolops > cây gai) có thể gợi ý cho chúng ta về sự đau đớn thuộc thể, và rất có thể là Sứ Đồ Phaolô đã nghĩ đến nỗi đau của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá, Ngài đã phải chịu gai đâm khi “Họ đương một cái mão gai mà đội trên đầu” của Ngài (Ma. 27:29). Chiếc mão gai này khi được ấn xuống (“Đội”: Gk. epitithemi > chụp xuống) chắc chắn đã gây đau đớn và làm cho máu từ đầu, trán của Đức Chúa Jêsus phải chảy nhiều trên khuôn mặt của Ngài. Sứ Đồ Phaolô và chúng ta không phải chịu một “cái mão gai” giống như của Đức Chúa Jêsus mà chỉ có thể là một “cây gai” như thế nào đó mà thôi. Phần lớn các nhà chú giải Kinh Thánh tin rằng Phaolô nói về “cái giằm” để chỉ một bệnh chứng thuộc thể nào đó. Tuy nhiên, một số nhà chú giải khác cho rằng Phaolô nói đến một sự bắt bớ mà ông phải chịu đựng một cách nhức nhối như bị gai đâm vào da, thịt. Ngoài ra, cũng có một số người nghĩ rằng đó là một sự cám dỗ có liên quan đến vấn đề luân lý cứ mãi vây quanh vị Sứ Đồ này và ông phải tranh chiến với nó. Chúng ta không thể nói chắc đó là cái gì, nhưng chúng ta có thể để ý đến lời nhận xét rất có ích của J. Oswald Sanders: “Thoạt đầu, Sứ Đồ Phaolô xem đó như là một sự trở ngại, nhưng về sau, khi vị Sứ Đồ này nhìn nhận vấn đề theo một góc độ đáng nên có, Sứ Đồ Phaolô nhận ra được rằng đó là một điều có ích”. II. “QUỈ SỨ CỦA SATAN” (C. 7) Cho đến ngày nay, Satan vẫn còn làm những sự quấy nhiễu, châm chích của nó. Chúng ta thường mất quân bình trong việc đánh giá sự tác động của Ma Quỉ đằng sau các sự trục trặc mà chúng ta gặp phải: Nhiều khi chúng ta xem thường ảnh hưởng tà ác của Satan, lắm lúc chúng ta lại quá cường điệu nó, qui tất cả mọi sự cho nó mà không nhìn nhận trách nhiệm cá nhân của mình. Hãy để ý đến cách Sứ Đồ Phaolô qui trách cho Satan: - Khi gặp phải những người ngăn trở chức vụ mình, Sứ Đồ Phaolô kể họ như là con cái của Ma Quỉ, cần phải được sửa dạy để “…25Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, 26và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới Ma Quỉ, vì đã bị Ma Quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (2Ti. 2:25-26). - Khi đối đầu với những kẻ gây sự rối loạn trong Hội Thánh, Sứ Đồ Phaolô nhận biết được bàn tay thủ đoạn của Satan: “17Hỡi anh em, tôi khuyên anh em coi chừng những kẻ gây nên bè đảng và làm gương xấu, nghịch cùng sự dạy dỗ mà anh em đã nhận. Phải tránh xa họ đi…20Đức Chúa Trời bình an sẽ kíp giày đạp quỉ Satan dưới chân anh em. Nguyền xin Ân Điển của Đức Chúa Jêsus chúng ta ở cùng anh em!” (Rô. 16:17-20). - Khi không thể đến thăm Hội Thánh Têsalônica được, Sứ Đồ Phaolô xem đó là sự ngăn trở của Satan: “Vì vậy, đã hai lần, chúng tôi, nhứt là tôi, Phaolô, muốn đi đến cùng anh em; nhưng quỉ Satan đã ngăn trở chúng tôi” (1Tê. 2:18). Ở đây, 2Cô. 12:7, Sứ Đồ Phaolô gọi sự bất lợi nội tại trong bản thân ông là “quỉ sứ của Satan”. Satan có thể làm cho chúng ta trở nên đau yếu, phiền muộn, sa sút,… Mặc dầu xuất phát điểm của điều ác không phải ở Đức Chúa Trời, Ngài vẫn có thể vận dụng các thủ đoạn của Satan để gia tốc các mục đích của Ngài trên đời sống của những ai chịu vâng lời Ngài, biết đáp ứng với trở lực một cách thỏa đáng. Một sự minh họa cho lẽ thật này trong Cựu Ước là Gióp. Satan đã vùi dập con người đáng thương này đến là thế, thế nhưng Đức Chúa Trời đã dùng sự công kích của Satan để phát triển đức tin của Gióp, và cuối cùng đã ban phước cho Gióp bội phần hơn. III. “NÓ” (C. 8) Nhắc lại “cái giằm” là tai ách trong đời sống của mình, Sứ Đồ Phaolô dùng một từ liệu tổng quát: “Nó”. Sứ Đồ Phaolô cho biết: “Đã ba lần tôi cầu nguyện Chúa cho nó lìa xa tôi” (2Cô. 12:8) Bằng việc dùng đại từ trung tính “nó” (Gk. toutou > cái này), vị Sứ Đồ này đã giấu không tiết lộ bản chất đích thực của “cái giằm” là gì. Đức Chúa Trời khôn ngoan cả trong sự khải thị lẫn trong sự kín giấu. Với việc đề cập tổng quát như thế, Sứ Đồ Phaolô thiết lập một nguyên lý chung cho tất cả chúng ta: Mỗi người chúng ta, tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời mình, đều có “một cái giằm xóc vào thịt” hiểu theo nghĩa ứng dụng trên các lĩnh vực cả thuộc thể lẫn thuộc linh; cả thân xác lẫn lý trí, ý chí, và tình cảm. Nếu Sứ Đồ Phaolô chỉ rõ một cách dứt khoát cho thấy “cái giằm” là gì, chúng ta sẽ thôi không còn bận tâm đến nó nữa vì xem đó chỉ là nan đề riêng của Sứ Đồ Phaolô mà thôi. Thế nhưng, nhờ việc Kinh Thánh khải thị một cách tổng quát, chúng ta học được một nguyên lý cho đời sống Cơ Đốc: Từng hồi, từng lúc, trên bước đường theo Chúa, Cơ Đốc Nhân phải xử lý với những trở ngại nội tại nhất định của bản thân. Sứ Đồ Phaolô đã cầu nguyện ba lần, bằng với số lần Đức Chúa Jêsus đã cầu nguyện trong vườn Ghếtsêmanê, và cũng đã quay trở lại với cùng một sự trả lời của Đức Chúa Cha: “Không!”. Tại sao có khi Đức Chúa Trời không nhậm lời cầu xin thiết tha của chúng ta xin được chữa lành một bệnh chứng, thoát khỏi một thời điểm khó khăn về tinh thần, vượt qua một giai đoạn khủng hoảng tâm lý_tình cảm,…? Ấy là vì Ngài đã dự định điều tốt hơn cho chúng ta. Đôi khi Ngài không ban cho chúng ta một sự bình an thuộc thể nào đó để chúng ta có được một kinh nghiệm thuộc linh cao hơn. Cũng có khi Ngài không sớm đưa chúng ta ra khỏi một giai đoạn khủng hoảng tâm lý_tình cảm để hình thành và làm cho sâu đậm bông trái thuộc linh trên đời sống chúng ta hầu cho chúng ta hiệu quả hơn trong việc phục vụ tha nhân, làm vinh hiển danh thánh của Ngài. IV. “SỰ YẾU ĐUỐI” (C. 9) Qua sự đáp lời cho Sứ Đồ Phaolô, Đức Chúa Trời đã bày tỏ một lẽ thật quan trọng: “Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cô. 12:9a). Sự đáp ứng của Sứ Đồ Phaolô đối với lẽ thật ấy đem lại cho chúng ta một nguyên tắc sống: “9Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi. 10Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cô. 12:9b-10). “Sự yếu đuối” (C. 9, Gk. astheneia > sự bất lực) nói về tình trạng thiếu kém, hạn chế. Làm thế nào có thể “khoe” (C. 9, Gk. kauchaomai > lấy làm tự hào) về sự yếu đuối? Chúng ta chỉ có thể bình an chịu đựng những “cái giằm” trong đời sống mình nếu chúng ta biết và tin quyết rằng đó là những khí cụ trong tay Đấng đang gọt dũa để cuối cùng chúng ta trở nên tôn quí và được tràn ngập sự vui mừng. Ma Quỉ có đang châm chích quí vị bằng một “cái giằm” khó chịu nào đó không? “Cái giằm” ấy có thể là một sự bất toàn hay một bệnh chứng nào đó. “Cái giằm” ấy cũng có thể là một sự đau đớn trong thân xác nhưng cũng có thể là một nỗi buồn khổ trong tình cảm. “Cái giằm” có thể là do sự hạn chế của bản thân nhưng cũng có thể là do hoàn cảnh tạo ra; hoặc do cả hai điều ấy hợp lại mà có. “Cái giằm” đang có trong quí vị có thể là “Quỉ sứ của Satan”, nhưng đó cũng chính là công cụ đang ở trong tay của Đức Chúa Trời kính yêu của chúng ta. Đừng quên rằng Ma Quỉ muốn dùng “cái giằm” ấy để nghiền nát chúng ta nhưng Đức Chúa Trời đang vận dụng mưu gian ác của nó để rèn luyện chúng ta cho được nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn. Một khi Sứ Đồ Phaolô nhận thức được rằng “cái giằm” là điều được Đức Chúa Trời ban cho (C. 7, “Đã cho một cái giằm”, Gk. didomi > trao ban), thái độ của vị Sứ Đồ này hoàn toàn thay đổi. Một khi Sứ Đồ Phaolô nhận được sự bảo an Thiên Thượng rằng “Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (C. 9a), vị Sứ Đồ này hoàn toàn được chuyển biến: “Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi” (C 9b), và “Khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (C. 10b). Hãy học theo Sứ Đồ Phaolô, hãy xem “cái giằm” đang có trong giai đoạn này của đời sống mình là một sự trao ban của Đức Chúa Trời và hãy thay đổi thái độ. Hãy nhận biết rằng mục đích của Đức Chúa Trời khi Ngài cho phép chúng ta chịu đựng “cái giằm” là để đem chúng ta vào trong những chiều kích mới của Ân Điển Ngài hầu cho đời sống chúng ta thăng hoa, tâm hồn chúng ta thắm đượm những hương sắc Thiên Đàng mà chúng ta chưa được kinh nghiệm. Đó chính là sự bí mật của những lời cầu xin chưa được nhậm và những nỗi đau dai dẳng trong thân thể và linh hồn của chúng ta: “Chúng ta cầu xin sức lực để có thể thắng vượt, nhưng chúng ta vẫn còn bị đặt trong sự mòn mỏi để biết vâng lời. Chúng ta cầu xin được khỏe mạnh để làm những việc lớn, nhưng chúng ta phải chịu sự yếu đuối là để làm được nhiều việc tốt. Chúng ta cầu xin quyền năng để được tỏa sáng, nhưng chính sự bất toàn khiến cho chúng ta biết nương cậy Đức Chúa Trời. Chúng ta cầu xin nhiều điều để hưởng thụ đời sống này, nhưng chúng ta không nhớ rằng chúng ta đã được ban cho đời sống này để vui hưởng mọi điều” (J. Oswald Sanders). Hãy có lòng vui mừng. “Cái giằm” châm chích chúng ta, nhưng đồng thời, bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời, nó cũng khơi dậy than lửa nghị lực đang bị vùi tro trong linh hồn ngủ quên của chúng ta. Hãy lắng nghe Đức Thánh Linh hát bằng lời phán của Đức Chúa Trời: “Ân Điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” Hãy chấp nhận “cái giằm” như một công cụ mà Đức Chúa Trời đã gửi đến để thăng tiến đời sống chúng ta! Hãy cười lên, đứng dậy, bước đi để thực hành quyền năng của Đức Chúa Trời! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG BIẾN ĐỔI” (Rô. 12:1-2) “1Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:1-2) I. KINH THÁNH “1Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:1-2) II. GIẢI NGHĨA 1. Sống thờ phượng bằng đời sống biến đổi đòi hỏi một sự biến đổi hợp Kinh Thánh về quan hệ với Đức Chúa Trời (Sv. C. 1). (1) “dâng”: Gr. παρίστημι [paristemi] > “đặt bên cạnh” > “đầu phục” (2) “thân thể”: Gr. σῶμα [soma] > “thân mạng” > “đời sống” (3) “sự thờ phượng phải lẽ”: Gr. λογικός λατρεία [logikos latreia] > “sự hầu việc phải phép” Sự biến đổi hợp Kinh Thánh về quan hệ của Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Trời là dâng cả đời sống để hầu việc Ngài vì chúng ta mắc nợ Ngài mọi sự! (1) Chúng ta vốn bất xứng hoàn toàn đối với Đức Chúa Trời… “Vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi” (Rô. 3:20) (2) Nhưng chúng ta đã được Ngài kể là sạch tội… “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Rô. 5:1) (3) Nhờ sự tha thứ hoàn toàn của Ngài. “Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Rô. 8:1) “7Vả, chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà sống, cũng chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà chết; 8vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy nên chúng ta hoặc sống hoặc chết, đều thuộc về Chúa cả. 9Đấng Christ đã chết và sống lại, ấy là để làm Chúa kẻ chết và kẻ sống” (Rô. 14:7-9) 2. Sống thờ phượng bằng đời sống biến đổi đòi hỏi một sự biến đổi hợp Kinh Thánh về tấm lòng của Cơ Đốc Nhân (Sv. C. 2). (1) “biến hóa”: Gr. μεταμορφόω [metamorphoo] > “thay hình đổi dạng thành tốt hơn” (2) “tâm thần”: Gr. νοῦς [nous] > “tấm lòng” > “nơi diễn ra mọi sự vận động của linh và hồn” (3) “thử”: Gr. δοκιμάζω [dokimazo] > “làm cho thấy chứng cứ” “Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em” (Rô. 8:29; Sv. 28-30) III. ÁP DỤNG 1. Đời sống chúng ta phải là đời sống thờ phượng và hầu việc! “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô. 12:1) 2. Đời sống chúng ta phải ngày càng trở nên giống Chúa nhiều hơn! “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:2) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG TẬN HIẾN” (Rô. 6:12-14; Sv. 12-23) “12Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. 13Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình. 14Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:12-14; Sv. 12-23) I. KINH THÁNH “12Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. 13Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình. 14Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:12-14; Sv. 12-23) II. GIẢI NGHĨA 1. Phải sống thờ phượng bằng đời sống tận hiến vì đã không còn ở dưới sự khống chế của tội lỗi nữa (Sv. C. 12) (1) “cai trị”: Gr. βασιλεύω [basileuo] > “nắm toàn quyền như vua” (2) “chiều”: Gr. ὑπακούω [hupakouo] > “vâng theo” (3) “tư dục”: Gr. ἐπιθυμία [epithumia] > “sự ham muốn” “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (1Cô. 10:13) 2. Phải sống thờ phượng bằng đời sống tận hiến vì đã được dùng như công cụ công bình của Đức Chúa Trời (Sv. C. 13) (1) “nộp”: Gr. παρίστημι [paristemi] > “đứng với”, “chung chạ” (2) “phó”: Gr. παρίστημι [paristemi] > “dâng mình” (3) “đồ dùng”: Gr. ὅπλον [hoplon] > “công cụ”, “vũ khí” ĐỊCH THỦ THUỘC LINH & CHIẾN PHÁP ĐỐI ĐỊCH Địch Thủ: Chiến Pháp: (1) Thế Gian (1Gi. 2:15-17) (1) Tránh Xa (1Ti. 6:11; 2Ti. 2:22) (2) Xác Thịt (Rô. 7:18-24) (2) Kiềm Chế (Rô. 6:12-13; 8:13) (3) Ma Quỉ (1Phi. 5:8) (3) Chống Cự (1Phi. 5:9) “20Nhưng anh em học cho biết Đấng Christ thì chẳng phải như vậy, 21vì anh em đã nghe đạo Ngài, và được dạy dỗ trong Ngài (y theo lẽ thật trong Đức Chúa Jêsus) 22rằng anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, 23mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, 24và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật” (Êph. 4:20-24; Sv. 17-24) 3. Phải sống thờ phượng bằng đời sống tận hiến vì đã được giải trừ khỏi sự định tội của Luật Pháp (Sv. C. 14) (1) “thuộc”: Gr. κυριεύω [kurieuo] > “làm chúa” (2) “Luật Pháp”: Gr. νόμος [nomos] > “lề luật theo qui định” (3) “Ân Điển”: Gr. χάρις [charis] > “sự chiếu cố theo ân huệ” “11Vả, Ân Điển Đức Chúa Trời hay cứu mọi người, đã được bày tỏ ra rồi. 12Ân ấy dạy chúng ta chừa bỏ sự không tin kính và tình dục thế gian, phải sống ở đời nầy theo tiết độ, công bình, nhân đức, 13đương chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ, 14là Đấng liều mình vì chúng ta, để chuộc chúng ta khỏi mọi tội và làm cho sạch, đặng lấy chúng ta làm một dân thuộc riêng về Ngài, là dân có lòng sốt sắng về các việc lành” (Tít 2:11-14; Sv. Ma. 11:28-30) III. ÁP DỤNG 1. Phải luôn luôn kháng cự cám dỗ! “Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó” (Rô. 6:12) 2. Phải luôn luôn theo đuổi đời sống mới! “Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình” (Rô. 6:13; Sv. 2Cô. 5:17) 3. Phải luôn luôn tìm kiếm ý chỉ của Đức Chúa Trời! “Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:14) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG TÁCH LY” (Côl. 3:1-4; Sv. Rô. 6:1-11) “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; 3vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời. 4Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển” (Côl. 3:1-4; Sv. Rô. 6:1-11) I. KINH THÁNH “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất; 3vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời. 4Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển” (Côl. 3:1-4; Sv. Rô. 6:1-11) II. GIẢI NGHĨA 1. Phải sống đời sống tách ly theo như vị trí sống đã được tách vạch của Cơ Đốc Nhân (Sv. C. 1-2). (1) “sống lại”: Gr. συνεγείρω [sunegeiro] > “trỗi dậy với”, “sống lại với” (2) “tìm”: Gr. ζητέω [zeteo] > “theo đuổi” (3) “ham mến”: Gr. φρονέω [phroneo] > “trông mong” “11Anh em cũng chịu cắt bì trong Ngài, không phải phép cắt bì bởi tay người ta làm ra, nhưng là phép cắt bì của Đấng Christ, là lột bỏ tánh xác thịt của chúng ta. 12Anh em đã bởi Phép Báptêm được chôn với Ngài, thì cũng được sống lại với Ngài bởi đức tin trong quyền phép Đức Chúa Trời, là Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại” (Côl. 2:11-12) 2. Phải sống đời sống tách ly vì sự sống của Cơ Đốc Nhân có bản chất ly đoạn với thế gian (Sv. C. 3). (1) “chết”: Gr. ἀποθνήσκω [apothnesko] > “bị phân cách và mất năng lực đáp ứng” (2) “sự sống”: Gr. ζωή [zoe] > “được liên kết và có năng lực đáp ứng” (3) “giấu với”: Gr. κρύπτω [krupto] > “được che phủ” “sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời…” - Nguồn lực sống: Vô tận và ẩn kín (Sv. Gi. 14:19; Phlp. 3:20). - Tình trạng sống: An toàn tuyệt đối (Sv. Gi. 10:29). - Dạng thức sống: Hiệp nhất trong Đức Chúa Cha (Sv. Gi. 14:20; 17:21). “20Nhưng chúng ta là công dân trên trời; ấy là từ nơi đó mà chúng ta trông đợi Cứu Chúa mình là Đức Chúa Jêsus Christ, 21Ngài sẽ biến hóa thân thể hèn mạt chúng ta ra giống như thân thể vinh hiển Ngài, y theo quyền phép Ngài có để phục muôn vật” (Phlp. 3:20-21) 3. Phải sống đời sống tách ly vì sự sống tương lai của Cơ Đốc Nhân là sự sống qua và trong Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. C. 4). (1) “hiện ra”: Gr. φανερόω [phaneroo] > “bày tỏ ra cho thấy” (2) “với (Ngài)”: Gr. σύν [sun] > “chung, cùng, theo,…” (3) “sự vinh hiển”: Gr. δόξα [doxa] > “sự rạng rỡ” “8Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; 9vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. 10Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, 11và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn; 12vì dầu nói đến điều mà những người đó làm cách kín giấu, cũng đã là hổ thẹn rồi. 13Nhưng hết thảy mọi sự đã bị quở trách đều được tỏ ra bởi sự sáng; phàm điều chi đã tỏ ra thì trở nên sự sáng vậy. 14Cho nên có chép rằng: Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi” (Êph. 5:8-14) III. ÁP DỤNG 1. Phải đoạn ly với thế gian! “1Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. 2Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất” (Côl. 3:1-2) 2. Phải nương mình trong Chúa! “Vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời” (Côl. 3:3) 3. Phải theo đuổi sự vinh hiển của Chúa! “Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển” (Côl. 3:4) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG HY SINH” (Ma. 10:34-39) “34Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế gian; Ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo. 35Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; 36và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. 37Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng cho Ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn Ta thì cũng không đáng cho Ta; 38ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta. 39Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được” (Ma. 10:34-39) I. KINH THÁNH “34Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế gian; Ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo. 35Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; 36và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. 37Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng cho Ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn Ta thì cũng không đáng cho Ta; 38ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta. 39Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được” (Ma. 10:34-39) II. GIẢI NGHĨA 1. Sống thờ phượng bằng đời sống hy sinh là phải chịu đựng nghịch chướng trong khi theo Chúa (Sv. C. 34-36) (1) “bình an”: Gr. εἰρήνη [eirene] > “không đối chọi” Dầu rằng sứ mệnh chung cuộc của Đấng Cứu Thế là thiết lập sự bình an của Ngài trên khắp thế gian… “Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao,_Bình an dưới đất, ân trạch cho loài người!” (Lu. 2:14; Sv. Ês. 2:4; 11:6-9) (2) “gươm giáo”: Gr. μάχαιρα [machaira] > “sự đối chọi” Nhưng trước mắt phải chịu xung đột trong các mối quan hệ đời này để thiết lập quan hệ tối cao với Ngài… “Hãy lấy lưỡi cày rèn gươm, lấy liềm rèn giáo. Kẻ yếu khá nói rằng: Ta là mạnh!” (Giôên 3:10; Sv. 9-13) (3) “phân rẽ”: Gr. διχάζω [dichazo] > “chia ra thành nhiều phần khác nhau” Để có thể hiệp một với Chúa các Cơ Đốc Nhân phải tách ly để tận hiến cho Ngài… “15Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy. 16Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời, đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra. 17Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (1Gi. 2:15-17) 2. Sống thờ phượng bằng đời sống hy sinh là phải hy sinh bản thân trong khi theo Chúa (Sv. C. 37-39) (1) “không đáng”: Gr. Gr. ἄξιος [axios] > “không xứng hiệp” Chưa dứt bỏ các nguyên tắc của đời này thì chưa gần Chúa được… “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:2) (2) “vác cây thập tự”: Gr. σταυρός [stauros] > “biểu tượng của sự trả giá” Chưa có đời sống tận hiến cho Chúa thì chưa thực sự theo Chúa… “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô. 12:1) (3) “sự sống”: Gr. ψυχή [psuche] > “linh hồn” Có những phương diện của sự sống đời này cần phải được hy sinh để dấn thân cho sự sống đời đời… “34Đoạn, Ngài kêu dân chúng và môn đồ, mà phán rằng: Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 35Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta và đạo Tin Lành mà mất sự sống, thì sẽ cứu. 36Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? 37Hay là có người nào lấy chi mà đổi linh hồn mình ư? 38Vì giữa dòng dõi gian dâm tội lỗi nầy, hễ ai hổ thẹn về Ta và đạo Ta, thì Con Người sẽ hổ thẹn về kẻ ấy, khi ngự trong sự vinh hiển của Cha Ngài mà đến với các thiên sứ thánh” (Mác 8:34-38) III. ÁP DỤNG 1. Phải xử lý cách hợp Kinh Thánh các mối quan hệ bất lợi cho sự sống đời đời của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng cho Ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn Ta thì cũng không đáng cho Ta” (Ma. 10:37) 2. Phải hy sinh cách hợp Kinh Thánh cho sự sống đời đời của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được” (Ma. 10:39) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“SỐNG THỜ PHƯỢNG BẰNG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN” (Hê. 10:32-39) “35Vậy chớ bỏ lòng dạn dĩ mình, vốn có một phần thưởng lớn đã để dành cho. 36Vì anh em cần phải nhịn nhục, hầu cho khi đã làm theo ý muốn Đức Chúa Trời rồi, thì được như lời đã hứa cho mình. 37Còn ít lâu, thật ít lâu nữa,_Thì Đấng đến sẽ đến;Ngài không chậm trễ đâu. 38Người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống, Nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào._ 39Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi” (Hê. 10:32-39) I. KINH THÁNH “ 35Vậy chớ bỏ lòng dạn dĩ mình, vốn có một phần thưởng lớn đã để dành cho. 36Vì anh em cần phải nhịn nhục, hầu cho khi đã làm theo ý muốn Đức Chúa Trời rồi, thì được như lời đã hứa cho mình._37Còn ít lâu, thật ít lâu nữa,_Thì Đấng đến sẽ đến;Ngài không chậm trễ đâu._38Người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống,_Nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào._ 39Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi” (Hê. 10:32-39) II. GIẢI NGHĨA 1. Sống đức tin là sống kiên tín theo lời hứa (Sv. C. 35-36) (1) “dạn dĩ”: Gr. παῤῥησία [parrhesia] > “tin quyết” (2) “nhịn nhục”: Gr. ὑπομονή [hupomone] > “bền lòng” (3) “hứa”: Gr. ἐπαγγελία [epaggelia] > “tuyên bố” “Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (Hê. 4:16) 2. Sống đức tin là sống kiên tín theo sự sống đời đời (Sv. C. 37-38) (1) “chậm trễ”: Gr. χρονίζω [chronizo] > “trì hoãn” (2) “đức tin”: Gr. πίστις [pistis] > “sự hiểu biết, tin quyết, và trông mong” (3) “sống”: Gr. ζάω [zao] > “hiện hữu và vận động” “Nầy, Ta đến mau chóng, và đem phần thưởng theo với Ta, để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” (Khải. 22:12) 3. Sống đức tin là sống kiên tín theo sự cứu rỗi (Sv. C. 39) (1) “lui đi”: Gr. ὑποστολή [hupostole] > “rụt lại, co lại” (2) “hư mất”: Gr. ἀπώλεια [apoleia] > “hỏng” (Sv. Gi. 3:16 Gr. ἀπόλλυμι [apollumi] > “diệt vong”) (3) “được cứu rỗi”: Gr. περιποίησις [peripoiesis] > “được kiên bảo” “7Vả, một đám đất nhờ mưa đượm nhuần mà sanh cây cỏ có ích cho người cày cấy, thì đất đó hưởng phần phước lành của Đức Chúa Trời. 8Nhưng đất nào chỉ sanh ra những cỏ rạ, gai gốc, thì bị bỏ, và hầu bị rủa, cuối cùng phải bị đốt” (Hê. 6:7-8) III. ÁP DỤNG 1. Đời sống thờ phượng thật là đời sống kiên tín nơi lời hứa của Đức Chúa Trời! “Vì anh em cần phải nhịn nhục, hầu cho khi đã làm theo ý muốn Đức Chúa Trời rồi, thì được như lời đã hứa cho mình” (Hê. 10:36) 2. Đời sống thờ phượng thật là đời sống kiên tín trong sự sống đời đời! “Người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống,_Nhưng nếu lui đi thì linh hồn ta chẳng lấy làm đẹp chút nào” (Hê. 10:38) 3. Đời sống thờ phượng thật là đời sống kiên tín với sự cứu rỗi! “Về phần chúng ta, nào phải là kẻ lui đi cho hư mất đâu, bèn là kẻ giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi” (Hê. 10:39) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“DÂNG MÌNH CHO LINH GIÁNG THẾ” (Gi. 16:12-15) “12Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. 13Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến. 14Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi. 15Mọi sự Cha có, đều là của Ta; nên Ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi vậy” (Gi. 16:12-15) I. KINH THÁNH “12Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. 13Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến. 14Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi. 15Mọi sự Cha có, đều là của Ta; nên Ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi vậy” (Gi. 16:12-15) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Thánh Linh soi sáng để hiểu chân lý (Sv. C. 12-13) (1) “Thần Lẽ Thật”: Gr. πνεῦμα ὁ ἀλήθεια [pneuma ho aletheia] > “Thánh Linh của Lẽ Thật” (2) “dẫn”: Gr. ὁδηγέω [hodegeo] > “đưa vào”, “soi sáng để hiểu được” (3) “mọi Lẽ Thật”: Gr. πᾶς ὁ ἀλήθεια [pas ho aletheia] > “từng lẽ thật” - “điều mình đã nghe”: Gr. ἀκούω [akouo] > “đã được phán bảo” - “sự sẽ đến”: Gr. ἔρχομαι [erchomai] > “sẽ diễn ra” “Tôi cầu Đức Chúa Trời của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha vinh hiển, ban thần trí của sự khôn sáng và của sự tỏ ra cho anh em, để nhận biết Ngài” (Êph. 1:17) 2. Đức Thánh Linh tôn vinh hiển công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus (Sv. C. 14) (1) “làm sáng danh”: Gr. δοξάζω [doxazo] > “làm cho tôn quí” (2) “lấy điều thuộc về Ta”: Gr. ἐκ ὁ ἐμοῦ λαμβάνω [ek ho emou lambano] > “lấy ra từ của ta” (3) “rao bảo”: Gr. ἀναγγέλλω [anaggello] > “truyền đạt” “18lại soi sáng con mắt của lòng anh em, hầu cho biết điều trông cậy về sự kêu gọi của Ngài là thể nào, sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển Ngài cho các thánh đồ là làm sao, 19và biết quyền vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin, là lớn dường nào, y theo phép tối thượng của năng lực mình, 20mà Ngài đã tỏ ra trong Đấng Christ, khi khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời, 21cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi quân chủ cùng mọi danh vang ra, không những trong đời nầy, mà cũng trong đời hầu đến nữa” (Êph. 1:18-21) 3. Đức Thánh Linh cao rao ý chỉ của Đức Chúa Cha (Sv. C. 15) (1) “mọi sự Cha có”: Gr. πᾶς ὅσος ἔχω [pas hosos echo] > “những điều của Cha” (2) “đều là của Ta”: Gr. ἐμός ἐστί [emos esti] > “là của Ta” “22Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm đầu Hội Thánh, 23Hội Thánh là thân thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài” (Êph. 1:22-23) III. ÁP DỤNG 1. Phải nương cậy Đức Thánh Linh để hiểu các Lẽ Thật đã được khải thị! “Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến” (Gi. 16:13) 2. Sự soi sáng của Đức Thánh Linh luôn tôn vinh Đức Chúa Jêsus! “Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi” (Gi. 16:14) 3. Công việc của Đức Thánh Linh luôn hiển minh vai trò nguyên thủ đối với Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus! “Mọi sự Cha có, đều là của Ta; nên Ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi vậy” (Gi. 16:15) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“DÂNG MÌNH CHO LỜI NHẬP THỂ” (Gi. 1:14-18) “14Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha. 15Giăng làm chứng về Ngài khi kêu lên rằng ấy là về Ngài mà ta đã nói: Đấng đến sau ta trổi hơn ta, vì Ngài vốn trước ta. 16Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn. 17Vì Luật Pháp đã ban cho bởi Môise, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến. 18Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con Một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết” (Gi. 1:14-18) I. KINH THÁNH “14Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha. 15Giăng làm chứng về Ngài khi kêu lên rằng ấy là về Ngài mà ta đã nói: Đấng đến sau ta trổi hơn ta, vì Ngài vốn trước ta. 16Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn. 17Vì Luật Pháp đã ban cho bởi Môise, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến. 18Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con Một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết” (Gi. 1:14-18) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời đã nhập thể, sống nhập thế, khải thị chính Ngài (Sv. C. 14a) (1) “đã trở nên xác thịt”: Gr. σάρξ γίνομαι [sarx ginomai] > “đã mặc lấy bản chất xác thịt” (2) “ở giữa chúng ta”: Gr. σκηνόω ἐν ἡμῖν [skenoo en hemin] > “ở cùng chúng ta” (σκῆνος [skenos] > “đền tạm”) (3) “đầy ơn và lẽ thật”: Gr. χάρις καί ἀλήθεια [charis kai aletheia] > “Ân Điển và Chân Lý” “4Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, 5để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài” (Gal. 4:4-5) 2. Sự nhập thể của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus là sự nhập thể của Đạo, tức là Ngài là hiện thân của Ân Điển và Chân Lý (Sv. C. 14b-17) (1) “sự vinh hiển”: Gr. δόξα [doxa] > “sự uy nghiêm” (2) “Con Một”: Gr. μονογενής [monogenes] > “Con Độc Sanh” (Nghĩa đen: “bản sao duy nhất”) (3) “Cha”: Gr. πατήρ [pater] > “Đức Chúa Cha” “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời” (Gi. 1:1) 3. Đức Chúa Jêsus nhập thể chính là Đức Chúa Trời (Sv. C. 18) (1) “ở trong lòng Cha”: Gr. κόλπος ὁ πατήρ [kolpos ho pater] > “tâm địa” (Nghĩa đen: “trong ngực”) (2) “giải bày”: Gr. ἐξηγέομαι [exegeomai] > “bố cáo” “1Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, 2rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian; 3Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bổn thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao, 4vậy được hưởng danh cao hơn danh thiên sứ bao nhiêu, thì trở nên cao trọng hơn thiên sứ bấy nhiêu” (Hê. 1:1-4) III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Jêsus là hiện thân của Đạo Đức Chúa Trời! “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha” (Gi. 1:14) 2. Đạo Đức Chúa Trời là Đạo Ân Điển và Chân Lý duy nhất cho nhân loại! “Vì Luật Pháp đã ban cho bởi Môise, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến” (Gi. 1:17) 3. Dâng mình hoàn toàn cho Đức Chúa Jêsus là dâng mình hoàn toàn cho Lời nhập thể! “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con Một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết” (Gi. 1:18) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |