“ĐỨC CHÚA JÊSUS LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI” (Gi. 1:1) “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” (Gi. 1:1) Hoạt động trong xã hội loài người có thiên hình, vạn trạng; xã hội mà chúng ta đang sống rất đa dạng, phong phú. Đêm nay, vào giờ này, giữa khi chúng ta nhóm nhau lại ở đây để kỷ niệm Lễ Giáng Sinh của Đức Chúa Jêsus Christ thì vẫn có vô số người đang theo đuổi hết mình đối với những gì họ say mê… Dầu vậy, Lời Kinh Thánh cho biết rằng Đức Chúa Trời đòi hỏi trách nhiệm cá nhân của mỗi người trên lối sống của mình. Đây là một sự thật, và cách duy nhất để giải quyết cho vấn đề này là nhận thức được rằng hài nhi Jêsus đã giáng sinh năm nào chính là Đấng Cứu Chuộc cho nhân loại, và tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình. Chỉ khi nào người ta đã được xưng công nghĩa bởi Đức Chúa Trời nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá, người ta mới có thể thực sự được ở trong trạng thái bình an viên mãn vì nợ tội đã được trả, án tội đã được tha, và ách tội đã được thoát. I. “ĐẠO” TRONG VĂN HÓA ĐÔNG PHƯƠNG Ngay từ lời đầu tiên của Sách Sáng Thế Ký, lẽ thật về Cuộc Sáng Tạo vũ trụ đã được bày tỏ: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” (Sáng. 1:1) Thế rồi lịch sử đã lặp lại theo một cách mới và ý nghĩa mới khi Sách Tin Lành Giăng bày tỏ về sự khởi đầu của chương trình tái tạo nhân loại, chương trình cứu chuộc hoàn hảo của Đức Chúa Trời, công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus trên Thập Tự Giá ở đồi Gôgôtha: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” (Gi. 1:1) “Ngôi Lời” được nói đến ở đây là “Đạo”, và ý nghĩa sâu xa của câu Kinh Thánh này là như thế này: “Đạo” chân thực vốn có từ khởi nguyên của giòng thời gian, “Đạo” chân thực phải khởi nguyên từ Đức Chúa Trời, và “Đạo” chân thực duy nhất chính là nguyên thể Đức Chúa Trời”. Quan niệm văn hóa Đông Phương về “đạo” tạo ra ít nhiều khó khăn cho việc hiểu về “Đạo” theo Kinh Thánh! Trước hết, theo cách hiểu Đông Phương, “đạo” luôn luôn gắn liền với “giáo”, và được gọi chung là “đạo giáo”. Quan niệm Đông Phương cho rằng chức năng chủ yếu của “đạo” là “giáo”, tức là “đạo” chỉ nhằm dạy (“giáo”: dạy) cho con người biết từ bỏ điều ác, làm theo điều thiện là chính. Dẫn xuất từ một cách hiểu như thế, người ta thường hiểu một cách chung chung rằng “đạo nào cũng tốt!”, sống theo “đạo” nào cũng được cả, không thành vấn đề! Thậm chí, có người còn cho rằng mỗi người có phận sự phải trung thành với loại tôn giáo vốn có của địa phương mình sống chứ không cần gì phải thay đổi! Tiến xa hơn thế, có người suy luận rằng Cơ Đốc Giáo là ngoại lai, là non trẻ,… Thật ra, cách nghĩ này thể hiện một tầm nhìn tù túng, đồng hóa “Đạo” của Đức Chúa Trời với “đạo giáo” của thế gian làm một; chưa phân biệt được giữa “Thiên Đạo” với “nhân đạo”. II. DẦU “NHÂN ĐẠO” CÓ NHIỀU, “THIÊN ĐẠO” CHỈ CÓ MỘT Trên phương diện xã hội học, tôn giáo cổ xưa nhất ở Đông Phương là Ấn Độ Giáo. Ấn Độ Giáo là một hệ thống tín ngưỡng dựa trên sự dạy dỗ của kinh Veda mà người Ấn Độ cổ đại đã được biết từ xa xưa. Kinh Veda được người Aryan du nhập vào nước Ấn Độ theo bước chân xâm lược của họ vào khoảng năm 1200 TC. Triết lý của kinh Veda được gọi là Upanishads, một hệ thống triết học lấy tư duy của con người làm đối tượng nghiên cứu, nhằm mục đích khám phá các nguyên lý giúp cho con người thoát khỏi phạm trù luân hồi. Ấn Độ Giáo nguyên thủy gọi thực thể tối cao của mình là Brahman, một biến thể thăng hoa của linh hồn con người, gọi là Atman. Kinh Veda dạy rằng mọi tạo vật đều phải chu chuyển theo một chu kỳ luân hồi hầu như vô tận, và chu kỳ ấy chỉ có thể dừng lại khi nào cá nhân đạt được một sự tự thức thuộc linh gọi là “giác ngộ”… Ấn Độ Giáo là một nổ lực của con người để giải thoát cho con người khỏi thân phận làm người. Theo giòng thời gian, Ấn Độ Giáo đã được pha trộn vào chủ nghĩa dân tộc của người Ấn Độ, trở thành một thế lực chính trị hùng hậu trong sinh hoạt chính trị, xã hội của nước Ấn Độ ngày nay. Cây “cổ thụ” tôn giáo thứ nhì của Đông Phương là Phật Giáo mà nhà sáng lập là Siddhartha Gautama (tức là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Siddhartha Gautama sinh năm 563 TC., viên tịch năm 483 TC. Siddhartha Gautama được tôn xưng là Buddha (tức là “Phật”, có nghĩa là “giác ngộ”). Theo truyền thuyết, Siddhartha Gautama đã rời bỏ cuộc sống giàu sang của hoàng triều vào năm 30 tuổi, tự kết ước tu thân, ép xác để trầm tư mặc tưởng và cuối cùng đã đạt được “giác ngộ” ở mức hoàn thiện. Sự dạy dỗ của Siddhartha Gautama đặt căn bản trên “Tứ Diệu Đề” và “Bát Chính Đạo”, mục tiêu của Phật Giáo là giúp con người đạt được một trạng thái gọi là Nirvana (nhập “Niết Bàn”?). Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là một trong các lời dạy dỗ của Siddhartha Gautama là như thế này: “Ta chỉ đường cho chúng sinh đến với chân lý chứ Ta không phải là chân lý ”. “Khổng Giáo” ban đầu không phải là một tôn giáo, dầu rằng ngày nay nhiều người cho rằng đó là một tôn giáo. Dầu vậy, trong văn hóa vùng chúng ta đang sống, các sự dạy dỗ của “Khổng Giáo” có một tầm ảnh hưởng tương đương với Phật Giáo. Người sáng lập “Khổng Giáo” là Đức Khổng Tử (Kong Fu-Zi), sinh năm 551 TC., chết năm 479 TC., là người nước Lỗ lúc bấy giờ (nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Sự dạy dỗ của Khổng Tử thiên về thực dụng, là một hệ thống triết học thực hành chứ không phải là sự giáo dục tôn giáo. Phương hướng dạy dỗ của Khổng Tử nhằm giúp con người tiếp cận được sự hòa hợp xã hội, mưu cầu đời sống an lành, có lợi, và có ích. “Khổng Giáo” rất chú trọng việc hoàn thành các nghĩa vụ cá nhân đối với cộng đồng (của xã hội Đông Phương cổ đại). Mục tiêu dạy dỗ của Khổng Tử khá minh bạch, có thể được tóm tắt trong chín chữ làm phương châm: “Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ”. Khi được các môn đệ hỏi về “Đạo”, Khổng Tử cho biết rằng “đạo khả đạo phi thường đạo…” (“đạo” mà người ta có thể thiết lập được thì chưa phải là “Đạo”), và kết luận rằng “đạo xuất ư thiên” (“Đạo” chân thực phải khởi nguyên từ “Trời”)! Tri giác của con người nhiều khi ở trong trạng thái ngộ nhận. Chẳng hạn, người ta bị các con số dẫn đến những ý niệm sai lầm: Ấn Độ Giáo:1.200 TC., Phật Giáo: 483 TC., Khổng Giáo: 479 TC. Tất cả đều “TC.”! Trông có vẻ như Đức Chúa Jêsus so với các tôn giáo kia thì chỉ là một Giáo Chủ “sinh sau, đẻ muộn”! Sự thật không phải như vậy! Kinh Thánh phán: “1Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời… 14Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha.” (Gi. 1:1, 14) Kinh Thánh tỏ cho biết rằng Đức Chúa Jêsus là thực thể của “Đạo” chân thực, Ngài thuộc về Đức Chúa Trời Ba Ngôi, và Ngài là một Ngôi trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Dầu rằng Đức Chúa Jêsus đã mặc lấy nhân trạng theo thời điểm của Đức Chúa Trời để bày tỏ Đức Chúa Trời, và thi hành chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời cho nhân loại, nhưng chính Ngài là Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng “TỰ HỮU, HẰNG HỮU”. Kinh Thánh gọi Ngài là Con Một Đức Chúa Trời. “Con Một” là một từ liệu Hylạp nói cho biết rằng Ngài là phiên bản của Đức Chúa Trời trên trần gian, là sự thể hiện của tự thân Đức Chúa Trời trên trần gian. Ngài là Đức Chúa Trời đến trần gian để cứu người trần gian theo chương trình tối cao của Đấng Tối Cao: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Gi. 3:16) “4Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, 5để chuộc những kẻ dưới Luật Pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài.” (Gal. 4:4-5) Brahman của Ấn Độ Giáo chung cuộc chỉ là một biến tướng của linh hồn con người khi nắm bắt được các nguyên lý để nhờ đó mà thoát kiếp luân hồi. Nirvana là một trạng thái mà Phật Giáo dạy rằng người ta có thể nhờ “tu” mà đạt được. “Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ” là lý tưởng mà “Khổng Giáo” dạy dỗ,… Tất cả các tôn giáo của đời này đều thuộc phạm trù “nhân đạo”, tức là đạo do con người thiết lập. Chính Đức Khổng Tử cũng đã nhận thức được rằng “đạo khả đạo phi thường đạo…”. Đức Khổng Tử đã cảm nhận một cách vô thức rằng “đạo xuất ư thiên”, đúng như Lời Kinh Thánh phán cho biết rằng Cơ Đốc Giáo mới là “Thiên Đạo”: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” (Gi. 1:1) Đức Chúa Jêsus không phải là Giáo Chủ “sinh sau, đẻ muộn” của một tôn giáo “sinh sau, đẻ muộn” như người ta ngộ nhận, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus chẳng những chỉ đường cho con người đến với chân lý mà chính Ngài là Con Đường để đi đến chân lý, Ngài chính là Thực Thể có thể tiếp cận được của Chân Lý, và Ngài chính là Sự Sống đích thực, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus phán: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha.” (Gi. 14:6) Hãy đến với Đức Chúa Jêsus. Hãy tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình. Tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là tiếp nhận chính Đức Chúa Trời, là tiếp nhận Sự Sống đích thực từ Đấng Sống. Hãy tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa để nợ tội được trả, án tội được tha, và ách tội được thoát! Hãy tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa để được ở trong trạng thái bình an viên mãn vì có được chính Đức Chúa Trời trong đời sống mình. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Comments are closed.
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |