“HỘI THÁNH LÀ GÌ?” (1Phi. 2:5) “Anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời.” (1Phi. 2:5) Sứ Đồ Phaolô cho biết rằng sự huyền nhiệm về Hội Thánh là “lẽ mầu nhiệm trong các đời khác chưa từng được phát lộ cho con cái loài người, mà bây giờ đã được Đức Thánh Linh tỏ ra cho các Sứ Đồ thánh và Tiên Tri của Ngài” (Êph. 3:5). Lẽ Thật về Hội Thánh đã được kín giấu cho đến lúc Đức Chúa Jêsus tuyên bố công khai về việc thiết lập Hội Thánh của Ngài trong tương lai (Ma. 16:18). Sau đó, Hội Thánh đã được đề cập đến như một thực thể hiện tại khi Sách Công Vụ Các Sứ Đồ cho biết rằng “Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh” (Công. 2:47). Để có thể làm tròn phận sự thành viên trong Hội Thánh Địa Phương, chúng ta phải học biết giáo lý về Hội Thánh… Câu hỏi được nêu lên ở đây là “Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, Hội Thánh là gì?” A. HỘI THÁNH THEO SỰ NHÌN NHẬN CỦA CHÚNG TA Chúng ta đã chịu ảnh hưởng của nhiều quan điểm và lề lối phi Kinh Thánh, thiếu lành mạnh đối với đời sống của Hội Thánh khiến cho nhiều khi Hội Thánh không còn trong sáng và hiệu quả theo sự kỳ vọng của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần tìm hiểu lại Đức Chúa Jêsus kỳ vọng gì ở Hội Thánh của Ngài. Ngày nay có quá nhiều sự vỡ mộng trong lòng các tín hữu về Hội Thánh. Nhìn chung, chúng ta dễ nhận ra một tâm trạng “mệt mỏi về Hội Thánh, nhưng đồng thời vẫn biết khát khao về Đức Chúa Trời”. Sự thật là có cả những người không còn chút hy vọng nào về Hội Thánh và quả quyết rằng họ “sẽ không bao giờ trở lại với Hội Thánh”. Khi nói về nguyên nhân làm cho “chán” Hội Thánh, người ta có thể kể ra được rất nhiều nguyên nhân, và nguyên nhân nào trông cũng “có vẻ” xác đáng cả! Điều hiển nhiên không thể chối cãi là có nhiều sự bất mãn đối với Hội Thánh vì nhận thấy Hội Thánh thiếu xứng hiệp, thiếu hữu ích, và có vẻ lãng phí thời gian… Sự nhìn nhận về Hội Thánh khác nhau tùy nhận thức cá nhân. Có người nhìn nhận Hội Thánh theo quan điểm “cơ quan” với tính cấu trúc và hành chính cao; cho rằng Hội Thánh phải đủ tính bề thế để họ có thể đứng dưới tên của nó. Có người nhìn Hội Thánh theo quan điểm “cấp dưỡng”; xem Hội Thánh là nơi phải cung cấp cho được âm nhạc họ yêu và bài giảng họ thích. Có người nhìn nhận Hội Thánh theo quan điểm “học tập”; muốn Hội Thánh phải là một loại viện giáo dục_đào tạo với một loại hình giảng dạy không chỗ trách được… Nhìn chung có nhiều tín hữu trông có vẻ đã quên mất (hay chưa biết?) ý nghĩa và giá trị chân chính của Hội Thánh; do đó, họ không có được niềm vui và sự thỏa lòng khi đến với Hội Thánh khiến cho Hội Thánh, đối với họ, chỉ là một “nơi” mà họ có thể tùy tiện đến hoặc không đến chứ không phải là cộng đoàn mà họ phải kết ước gắn bó. B. HỘI THÁNH THEO SỰ NHÌN NHẬN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI Khi nghiên cứu từ liệu “Hội Thánh” trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ khám phá được nhiều điều thú vị. Từ liệu “Hội Thánh” (Gk. “ekklesia”) chỉ được Đức Chúa Jêsus sử dụng vỏn vẹn có 3 lần (Ma. 16:18; 18:17[2 lần]), nhưng tổng số lần được các Trước Giả Tân Ước sử dụng lại lên đến 111 lần: Sứ Đồ Phaolô nhắc đến “Hội Thánh” 62 lần, Sứ Đồ Luca sử dụng từ liệu này 23 lần, Sứ Đồ Giăng sử dụng từ liệu ấy 20 lần trong Sách Khải Huyền, và các Trước Giả khác đã sử dụng từ liệu “Hội Thánh” 6 lần. I. Hội Thánh Là Một Cộng Đoàn Thứ nhất, chúng ta cần để ý rằng “Hội Thánh” nói về “con người” chứ không phải về “nơi chốn”. Hội Thánh là tập thể những người được Đức Chúa Trời gọi riêng ra cho Ngài. Trong Tiếng Hylạp, “Hội Thánh” là “ekklesia” với nghĩa nguyên thủy là một nhóm người được gọi ra riêng khỏi các công dân khác. Họ được gọi riêng ra để được hướng dẫn, dạy dỗ, và để thống nhất về những quyết định nào đó. Sau khi người của một “ekklesia” gặp riêng nhau rồi, họ trở về lại gia đình của mình, truyền đạt cho những người còn lại những điều họ đã thống nhất với nhau. Người của một “ekklesia” hành sự như sứ giả nhưng cũng đồng thời là hành giả cho các quyết định của cộng đồng (“ekklesia”) của họ. Đức Chúa Trời kính yêu của chúng ta cũng đã hành sự trong một vai trò tương tự. Đức Chúa Trời đã đến để giảng về và khởi sự cho sự trị vì yêu thương của Ngài ngay trên thế gian này. Đức Chúa Trời đã đến thế gian để kêu gọi nhân loại nhờ Ngài mà vùng dậy khỏi tội lỗi của họ. Ngài đã kêu gọi những người được lựa chọn ra khỏi quỉ quốc của tội lỗi dưới ách cai trị của quỉ vương Satan. Ngài đã kêu gọi Dân Ngài ra khỏi thảm trạng của họ, làm cho họ trở nên một cộng đoàn mới ngay giữa một xã hội cũ: “17Ta sẽ bảo hộ ngươi giữa dân nầy và dân ngoại là nơi Ta sai ngươi đến, 18đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỉ Satan mà đến Đức Chúa Trời, và cho họ bởi đức tin nơi Ta được sự tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ” (Công. 26:17-18). Đức Chúa Trời đã tập hợp Dân Ngài lại trong một thực thể gọi là Hội Thánh với sự thể hiện hữu hình của các Hội Thánh Địa Phương. Hội Thánh với các Hội Thánh Địa Phương của Đức Chúa Trời là một sự biểu hiện cho Vương Quốc Đức Chúa Trời là một thực thể thuộc linh còn mang tính vô hình trong hiện tại và sẽ là một thực thể thuộc linh có tính hữu hình trong tương lai. Hội Thánh là thực thể nói lên rằng Đức Chúa Trời đang trị vì… “19Dường ấy, anh em chẳng phải là người ngoại, cũng chẳng phải là kẻ ở trọ nữa, nhưng là người đồng quốc với các thánh đồ, và là người nhà của Đức Chúa Trời. 20Anh em được dựng lên trên nền của các Sứ Đồ, cùng các Đấng Tiên Tri, chính Đức Chúa Jêsus là Đá Góc Nhà, 21cả Cái Nhà đã dựng lên trên Đá đó, sắp đặt cách hẳn hoi, để làm nên một Đền Thờ Thánh trong Chúa. 22Ấy, anh em cũng nhờ Ngài mà được dự phần vào Nhà đó, đặng trở nên Nhà Ở của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh” (Êph. 2:19-22). Hội Thánh là thực thể nói lên rằng Vương Quốc Đức Chúa Trời đang thực hữu… Tiếng nói của sự kêu gọi, của sự ăn năn, của sự tha thứ, của sự đầu phục Đức Chúa Trời phải được nghe từ Hội Thánh của Đức Chúa Trời: “Ta sẽ giao chìa khóa Nước Thiên Đàng cho ngươi; hễ điều gì mà ngươi buộc dưới đất, thì cũng sẽ phải buộc ở trên trời, và điều gì mà ngươi mở dưới đất, thì cũng sẽ được mở ở trên trời” (Ma. 16:19). II. Hội Thánh Thuộc Về Duy Nhất Đức Chúa Trời Thứ hai, Đức Chúa Jêsus phán cho biết rằng Hội Thánh là thuộc về Ngài và Ma. 16:18 là nơi đầu tiên mà lẽ thật ấy được khải thị: “Còn Ta, Ta bảo ngươi rằng: Ngươi là Phierơ, Ta sẽ lập Hội Thánh Ta trên đá nầy, các cửa Âm Phủ chẳng thắng được Hội đó” Đây là lời phán về một lẽ thật gây ngạc nhiên. Đức Chúa Jêsus tỏ cho biết Hội Thánh của Ngài là một thực thể bất bại trước mọi đối thủ bất kỳ! “Các cửa Âm Phủ” không thể thủ thắng được trước Hội Thánh của Đức Chúa Trời! Quyền lực hung hãn của mọi thế lực thù địch không chận đứng được bước tiến của Hội Thánh vì Hội Thánh là “Hội Thánh Ta” – Hội Thánh của chính Đức Chúa Trời hằng sống! Lẽ thật ấy đã được Sứ Đồ Phaolô nhắc lại: “Anh em hãy giữ lấy mình, và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập anh em làm kẻ coi sóc, để chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình” (Công. 20:28). Phận sự của chúng ta đối với Hội Thánh là trọng đại; và, theo sự định mạng của Đức Chúa Trời, nghĩa vụ của Ngài đối với Hội Thánh là một nghĩa vụ nghiêm túc. Vì Hội Thánh là của chính Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Jêsus chẳng những công bố chủ quyền Ngài trên Hội Thánh mà Ngài cũng còn bày tỏ cho thấy sự hy sinh tận tụy của Ngài đối với Hội Thánh nữa: “25… Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh, 26để khiến Hội nên thánh sau khi lấy nước rửa và dùng Đạo làm cho Hội tinh sạch, 27đặng tỏ ra Hội Thánh đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được ở trước mặt Ngài” (Êph. 5:25-27). III. Đức Chúa Trời Lãnh Đạo Hội Thánh Lẽ Thật thứ ba về Hội Thánh được bày tỏ qua sự dạy dỗ của Sứ Đồ Phaolô về quyền Nguyên Thủ của Đức Chúa Jêsus đối với Hội Thánh: “Ấy cũng chính Ngài là Đầu của Thân Thể, tức là Đầu Hội Thánh. Ngài là ban đầu, sanh trước nhứt từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Côl. 1:18). “22Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm Đầu Hội Thánh, 23Hội Thánh là Thân Thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài” (Êph. 1:22-23). Quyền Nguyên Thủ có nghĩa là quyền lãnh đạo. Đức Chúa Jêsus nắm quyền Nguyên Thủ có nghĩa là Ngài là Lãnh Đạo Tối Cao của Hội Thánh và Ngài lãnh đạo Hội Thánh toàn diện và tuyệt đối. Để Đức Chúa Jêsus thực sự lãnh đạo Hội Thánh, chúng ta phải nghe theo Ngài, tức thuận phục Ngài trong mọi sự. Có khi chúng ta nhìn sai hướng trên vấn đề lãnh đạo Hội Thánh. Thay vì nhận thức một cách rõ ràng và thường trực rằng chính Đức Chúa Jêsus mới là Lãnh Đạo chân thực của Hội Thánh, chúng ta lại lấy các nhà lãnh đạo của Hội Thánh và quyền lãnh đạo Hội Thánh được Chúa trao làm điểm dừng cho quan niệm lãnh đạo Hội Thánh của chúng ta! Loại nhận thức trục trặc này vốn có tuổi thọ từ thời Hội Thánh sơ kỳ: “12Tôi có ý nói rằng trong anh em mỗi người nói như vầy: Ta là môn đồ của Phaolô; - Ta là của Abôlô; - Ta là của Sêpha; - Ta là của Đấng Christ. 13Đấng Christ bị phân rẽ ra sao? Có phải Phaolô chịu đóng đinh trên Cây Thập Tự thế cho anh em, hay là anh em đã nhân danh Phaolô mà chịu Báptêm sao?” (1Cô. 1:12-13). Vì Đức Chúa Jêsus là Lãnh Đạo tối cao và thực sự của Hội Thánh, Hội Thánh được gọi là “Thân Thể Đấng Christ”: “Nay tôi lấy làm vui về sự tôi đã chịu khổ sở vì anh em, tôi lại vì Thân Thể Đấng Christ, là Hội Thánh, mà đem xác thịt mình chịu hết các điều còn lại trong sự thương khó của Ngài” (Côl. 1:24). Hội Thánh Cơ Đốc Phổ Thông thực sự bao gồm tất cả những người đã được cứu trong Định Kỳ Hội Thánh và là những người được kết hiệp bởi sự Báp Tem của Đức Thánh Linh vào trong Đức Chúa Jêsus và kết hiệp với nhau trong Ngài để hợp thành một Thân Thể Huyền Nhiệm mà Ngài là Đầu và là Sự Sống, và trở nên Cô Dâu đã hứa của Ngài. Hội Thánh Cơ Đốc Phổ Thông được biểu thị qua các Hội Thánh Địa Phương. Các kẻ thù thuộc linh của chúng ta luôn luôn muốn làm giảm lòng kính yêu của chúng ta đối với Đức Chúa Trời (1Gi. 2:15) và phải bận tâm với những ý nghĩ trái với ý muốn của Đức Chúa Trời (Êph. 5:17). Tuy nhiên, chúng ta đang giữ chức Thầy Tế Lễ trong Hội Thánh, chúng ta phải sống đẹp ý Chúa: “Anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:5). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HỘI THÁNH THEO KINH THÁNH” (Công. 2:42) “Vả, những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các Sứ Đồ, sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện.” (Công. 2:42) Đại Mạng Lịnh của Đức Chúa Jêsus đối với tất cả các tín hữu của Ngài là hãy môn đồ hóa muôn dân, “Hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đứa Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép Báptêm cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi” (Ma. 28:19-20). Công. 2 mô tả về một bước khởi đầu rực rỡ của việc thực hiện Đại Mạng Lịnh của Chúa. “Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh” (Công. 2:47b) là tin vui cho Hội Thánh khắp mọi nơi từ thời ấy đến nay. Thế nhưng phải chăng “Hội Thánh” luôn luôn là Hội Thánh hợp Kinh Thánh, là Hội Thánh đẹp ý Đức Chúa Trời? Hội Thánh theo Kinh Thánh cần phải có các loại hình sinh hoạt căn bản nào để bảo đảm được tính hợp Kinh Thánh của Hội Thánh cho đẹp ý Đức Chúa Trời? I. “GIỮ LỜI DẠY CỦA CÁC SỨ ĐỒ” Hội Thánh sơ kỳ đã được thành lập trước khi Kinh Thánh Tân Ước được hoàn thành. Vì vậy, các tín hữu đã phải nhận sự dạy dỗ của các Sứ Đồ về những điều mà các vị Sứ Đồ đã được nhận trực tiếp từ sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus: “Chúng tôi lấy điều đã thấy, đã nghe mà truyền cho anh em, hầu cho anh em cũng được giao thông với chúng tôi. Vả chúng tôi vẫn được giao thông với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ” (1Gi. 1:3). Dầu vậy, đối với các tín hữu ngày nay, khi sự khải thị của Đức Chúa Trời qua Kinh Thánh đã hoàn thành, không còn gì quí hơn cho họ là được hưởng sự bổ dưỡng trực tiếp từ “sữa thiêng liêng của Đạo” là những sự dạy dỗ trực tiếp từ Lời Đức Chúa Trời. “1Vậy anh em đã từ bỏ mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành, 2thì hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo, như trẻ con mới đẻ vậy, hầu cho anh em nhờ đó lớn lên mà được rỗi linh hồn” (1Phi. 2:1-2). Về phần người chăn bầy của Đức Chúa Trời, việc bền chí dạy cho các tín hữu giáo lý Kinh Thánh chân chính, và chỉ giáo lý Kinh Thánh chân chính mà thôi, là một đòi hỏi bắt buộc: “Hãy giảng Đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (2Ti. 4:2). “Nhưng con hãy dạy điều hiệp với đạo lành” (Tít 2:1). “4Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép; 5hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời” (1Cô. 2:4-5). “20Anh em biết tôi chẳng trễ nải rao truyền mọi điều ích lợi cho anh em, chẳng giấu điều chi hết, lại biết tôi đã dạy anh em hoặc giữa công chúng, hoặc từ nhà nầy sang nhà kia, 21giảng cho người Giuđa như cho người Gờréc về sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời, và đức tin trong Đức Chúa Jêsus là Chúa chúng ta” (Công. 20:20-21). Các nguyên tắc ấy đã được Sứ Đồ Phaolô thiết lập khi thành lập Hội Thánh cho Dân Ngoại, và đó là những nguyên tắc Kinh Thánh phải luôn luôn được giữ vững, không thể được phép làm ngơ. Trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, việc “sáng tác” giáo lý phi và phản Kinh Thánh, tự nhận cho mình “quyền Sứ Đồ” là một trọng tội đối với Đức Chúa Trời: “36Có phải là Đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng? 37Nếu ai tưởng mình là Tiên Tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa” (1Cô. 14:36-37). II. “SỰ THÔNG CÔNG CỦA ANH EM” Sự tăng trưởng thuộc linh có thể được khơi dậy nhờ sự thông công giữa vòng anh chị em tín hữu với nhau. Mỗi Cơ Đốc Nhân là một “con chiên” của Đức Chúa Jêsus và là chi thể của Thân Thể Đấng Christ. Mỗi một Cơ Đốc Nhân đều đã được ban cho một hoặc các ân tứ thuộc linh để phục vụ, gây dựng lẫn nhau: “5Chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một Thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau. 6Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin, 7ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; 8ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm” (Rô. 12:5-8). Sự ràng buộc với nhau nhờ mối thông công sẽ đem lại được sự khoan dung đối với nhau, và sự cưu mang lẫn nhau. Nhờ có sự thông công, các thánh đồ của Hội Thánh Đức Chúa Trời buổi sơ kỳ đã biết chia sẻ cho nhau các nhu cần cơ bản hằng ngày: “34Vì trong tín đồ không ai thiếu thốn cả, bởi những người có ruộng hay nhà, đều bán đi, bán được bao nhiêu tiền cũng đem đến 35đặt dưới chân các Sứ Đồ; rồi tùy theo sự cần dùng của mỗi người mà phát cho” (Công. 4:34-35). Không hề có nơi nào trong suốt cả Kinh Thánh Tân Ước từ liệu “thông công” nói về “sự vui chơi” vì có vẻ đó là điều trái với ý muốn của Đức Chúa Trời: “Nhưng về phần kẻ ưa sự vui chơi, thì dẫu sống cũng như chết” (1Ti. 5:6). Từ liệu “thông công” (Gk. koinonia) hàm ý về sự chia sẻ. Trong Hội Thánh, “thông công” là chia sẻ với nhau về đức tin chung, chia sẻ với nhau về xúc cảm riêng tư, về gánh nặng riêng tư đến nỗi cái riêng của mỗi người, cả buồn và vui, không còn là riêng nữa… “Cả Luật Pháp chỉ tóm lại trong một lời nầy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình… Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn Luật Pháp của Đấng Christ…” (Gal. 5:14; 6:2). Do đó, sự “thông công” có nghĩa chung là việc tham dự vào một điều gì đó bằng hành vi “cho” hoặc “nhận” tùy theo trường hợp. Mục đích của sự thông công trong Hội Thánh luôn luôn là để gây dựng cho người khác hơn là tìm sự hưởng thụ cho chính mình: “24Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành; 25chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (Hê. 10:24-25). III. “LỄ BẺ BÁNH” Sự thông công cần thiết cho sự tăng trưởng thuộc linh của Cơ Đốc Nhân, nhưng mối thông công giữa con người với nhau luôn luôn là một cái gì đó “mỏng manh”, “dễ vỡ” (Gia. 3:1-12; Rô. 7:14; Gal. 5:17). Tinh thần hiệp một trong một công đồng, chẳng hạn một Hội Thánh Địa Phương, có thể dễ dàng bị tổn hại do việc hiểu lầm hoặc các sự tổn thương do còn non yếu về sự trưởng thành thuộc linh. Do đó, Đức Chúa Jêsus, Nguyên Thủ của Hội Thánh, đã thiết lập Lễ Tiệc Thánh của Ngài để các tín hữu muôn đời lấy đó làm một thời điểm, cơ hội để không những tưởng nhớ về công trình đền tội thay mà Ngài đã hoàn thành trên Thập Tự Giá, mà cũng còn để cho họ kết ước với Ngài và kết ước với nhau: “28Vậy mỗi người phải tự xét lấy mình, và như thế mới ăn bánh, uống chén ấy; 29vì người nào không phân biệt Thân Chúa mà ăn bánh uống chén đó, tức là ăn uống sự xét đoán cho mình” (1Cô. 11:28-29). “Tự xét lấy mình” (Gk. dokimazo) là tự tra xét xem mình có thực sự ăn năn tội và đã xử lý xong các vấn đề liên quan chưa. “Phân biệt Thân Chúa” là nhận thức đầy đủ tính biểu tượng thuộc linh của Lễ Tiệc Thánh: “Thân Chúa” (Gk. soma) mà tín hữu phải nhận thức trong Lễ Tiệc Thánh là Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus (chứ chẳng phải lễ phẩm sẽ trở nên thân thể hữu cơ của Ngài)! “Phân biệt Thân Chúa” (Gk. diakrino) trong Lễ Tiệc Thánh là nhận thức ý nghĩa không gì so sánh được của Hội Thánh là cộng đoàn mà Đức Chúa Jêsus đã xả thân để mua chuộc về cho Ngài, và nhận thức về vai trò của mình trong Hội Thánh, nhất là trong mối quan hệ với các thành viên khác trong Hội Thánh: “Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng?” (Gal. 6:1). “14Vả, nếu các ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. 15Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi” (Ma. 6:14-15). Dự Lễ Tiệc Thánh, Cơ Đốc Nhân kết ước với Đức Chúa Jêsus về việc sẽ rao sự chết của Ngài cho đến lúc Ngài tái lâm: “Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến” (1Cô. 11:26). Dự Lễ Tiệc Thánh, Cơ Đốc Nhân kết ước tha thứ và yêu thương nhau để tự chứng rằng mình là môn đồ của Đức Chúa Jêsus và để gây dựng Thân Thể thuộc linh của Ngài là Hội Thánh: “Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ Ta” (Gi. 13:35). Cũng chính vì thế mà các thánh đồ của Hội Thánh sơ kỳ đã giữ Lễ Tiệc Thánh mỗi ngày (Công. 2:46). IV. “SỰ CẦU NGUYỆN” Sự cầu nguyện của Hội Thánh không phải chỉ là nghi thức chiếu lệ. Thời gian cầu nguyện là thời gian người tín hữu thiết tha tâm sự với Đức Chúa Trời và rồi sự làm chứng tốt về quyền năng Đức Chúa Trời sẽ được hiển thị ra để đem người ta đến chỗ nương cậy Ngài và có ích cho Ngài nhiều hơn nữa: “Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng Đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ” (Công. 4:31). “Cầu nguyện” (Gk. proseuche) là sự thông công của người tín hữu với Cứu Chúa của mình, là hơi thở của đời sống thuộc linh Hội Thánh. Mọi sự đều ở trong Chúa nên mọi sự phải được dâng lên cho Ngài: “17Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài. 18Ấy cũng chính Ngài là Đầu của Thân Thể, tức là Đầu của Hội Thánh. Ngài là ban đầu, sanh trước nhứt từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Côl. 1:18-19). “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời” (Phil. 4:6). “Lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” (1Phi. 5:7). Trong thời đại chúng ta đang sống, hiện có một khuynh hướng thịnh hành là thiên nhiều về truyền giáo mà lại xao lãng các sinh hoạt căn bản của Hội Thánh. Tất nhiên là chúng ta vui mừng khi biết được rằng có nhiều linh hồn được cứu, nhưng việc các tân tín hữu phải được chăm nuôi như thế nào cũng là một sự đòi hỏi hợp Kinh Thánh nữa. Nhu cần chăm sóc các “chiên con” là một trong những sự quan tâm hàng đầu của Đức Chúa Jêsus (Gi. 21:15). Các tân tín hữu cần một sự bảo vệ và chăm sóc thường xuyên. Họ cần có được sự hướng dẫn thực hành để có được các phẩm hạnh và hành vi cần thiết của một đời sống theo Chúa. Cũng có thể là trong đời sống thuộc linh cá nhân của mỗi người chúng ta vẫn còn yếu kém ở một phương diện nào đó. Chúng ta hãy dũng cảm làm tất cả những gì có thể làm được để bồi dưỡng cho chính bản thân cũng như cho các tín hữu khác đi đến chỗ trưởng thành thuộc linh. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HÃY CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI” (Thi. 118:1) “Hãy cảm tạ Đức Giêhôva, vì Ngài là thiện;_Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.” (Thi. 118:1) Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến Cơ Đốc Nhân theo một cách đặc biệt: “Anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức Thầy Tế Lễ Nhà Vua, là Dân Thánh, là Dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài.” (1Phi. 2:9) Kinh Thánh Cựu Ước cũng kêu gọi Dân Sự của Đức Chúa Trời “Hãy cảm tạ Đức Giêhôva, vì Ngài là thiện;_Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.” (Thi. 118:1) Là Cơ Đốc Nhân, thánh chức phổ quát của chúng ta là “rao giảng nhân đức” của Đức Chúa Trời là Đấng đã cứu chúng ta “ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài”. Thánh chức phổ quát này cũng là phận sự phổ quát quan trọng của chúng ta: Chúng ta có phận sự phải sống với lòng cảm tạ Đức Chúa Trời. Lòng cảm tạ Đức Chúa Trời có một bản chất đặc thù, có những tác dụng sâu xa, và cần phải được hình thành và thể hiện với những yêu cầu nhất định. I. BẢN CHẤT CỦA LÒNG CẢM TẠ Tại sao có lòng cảm tạ Đức Chúa Trời là một điều quan trọng, và bản chất của lòng cảm tạ Đức Chúa Trời là gì? Nhìn chung, tấm lòng biết cảm tạ Đức Chúa Trời là một điều tốt đẹp vì như thế là vâng theo ý Ngài (1Tê. 5:18) và đó cũng đồng thời là sản phẩm trực tiếp của đời sống tin kính: “Vả, sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn.” (1Ti. 6:6) Để có được đúng bài học mà Đức Chúa Trời muốn dạy dỗ về sự tin kính, điều quan trọng là cần nên nhận thức rằng Kinh Thánh đặt tấm lòng biết tin kính trong thế đối chiếu (cũng là để đối chọi) với động cơ trục lợi bằng tôn giáo: “3Ví thử có người dạy dỗ đạo khác, không theo lời có ích của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta và đạo lý theo sự tin kính, 4thì người đó là lên mình kiêu ngạo, không biết chi hết; nhưng có bịnh hay gạn hỏi, cãi lẫy, bởi đó sanh sự ghen ghét, tranh cạnh, gièm chê, nghi ngờ xấu xa, 5cùng những lời cãi lẽ hư không của kẻ có lòng hư xấu, thiếu mất lẽ thật, coi sự tin kính như là nguồn lợi vậy._6Vả, sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn.” (1Ti. 6:3-6) “Lợi” là một khái niệm hấp dẫn và thường được nhìn nhận một cách đa biệt. Các trường hợp “lợi” được nói đến ở đây đều dùng từ liệu porismos (Gk.), nhưng nghĩa ở C. 5 và C. 6 vẫn cứ khác nhau! Trong C. 5, vì cớ “lòng hư xấu, thiếu mất lẽ thật” mà “lợi” là “nguồn lợi”, tức là “một sự thu nhập hay một nguồn thu nhập”. Tuy nhiên, “lợi” (Gk. porismos, xuất phát từ “poros” với nghĩa là một phương thức, một phương tiện) được đề cập trong C. 6, nhờ “sự thỏa lòng” mà “lợi lớn” không nói về sự thu nhập mà nói về phương hướng, về sự xu hướng của tấm lòng và đời sống của người tin. Người có tấm lòng cảm tạ là người có đời sống tin kính và vui thỏa trong sự mình đã tin, người ấy có khả năng tiến về những đích điểm đẹp ý Đức Chúa Trời và có lợi cho sự sống đời đời của người ấy: “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.” (Gi. 17:3) Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời trong một người là sự biểu hiện chắc thật rằng người ấy có sự sống đời đời và dốc lòng theo sự sống đời đời, vì nếu chẳng được Đức Thánh Linh chứng giải trong lòng thì không thể nào người ta thực sự nhận biết và có được một mối quan hệ như thế với Đức Chúa Trời (Sv. 1Cô. 12:3). Theo bản chất, tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời không phải là việc làm vì việc làm cho Đức Chúa Trời mà là chứng tích cho thấy một người đang ở đâu trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời. II. TÁC DỤNG CỦA LÒNG CẢM TẠ Như vậy, về bản chất, lòng cảm tạ là kết quả tất yếu của mối quan hệ thân thiết giữa người tín hữu với Đức Chúa Trời. Vì vậy, một khi có được lòng cảm tạ đối với Đức Chúa Trời, sự vui thỏa trong đời sống người tín hữu được gia tăng: “Vả, sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn.” (1Ti. 6:6) “Thỏa lòng” (Gk. autarkeia) nói về trạng thái cảm thấy được đầy đủ trong những sự đã có, và sự tin tưởng rằng không cần phải lo lắng về bất cứ điều gì khác. Nhờ đâu mà người ta có thể thỏa lòng để rồi được yên lòng? Sự “thỏa lòng” thực sự luôn luôn là kết quả của đời sống “tin kính”. Sự thỏa lòng và sự yên lòng không thể có được mà lại thiếu đức tin nơi Đức Chúa Trời. Chỉ khi nào người ta thực sự tin cậy rằng Đức Chúa Trời là tất cả những gì họ cần thì sự thỏa lòng, là điều sẽ dẫn đến lòng cảm tạ, mới thực hữu: “5Chớ tham tiền;hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. 6Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng:_Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết._Người đời làm chi tôi được?” (Hê. 13:5-6) Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời của Cơ Đốc Nhân là một sự làm chứng về quyền năng của Đức Chúa Trời trên đời sống của họ. Những người được dầm thấm trong “sự tin kính cùng sự thỏa lòng” đến độ sắc diện, dáng điệu của họ sáng rực lên “sự tin kính cùng sự thỏa lòng” trong mọi sự bao giờ cũng tạo ra được ấn tượng tốt đối với những người chung quanh. Trái lại, những Cơ Đốc Nhân nào nặng trĩu ưu tư, luôn luôn có cớ để bất mãn và than vãn tự chứng tỏ rằng họ đã được được “báptêm” trong một loại “mật đắng” hay trong một thứ gì đó chứ không phải là trong Thánh Linh! Sự thật đáng buồn là giữa vòng chúng ta vẫn còn có những người chưa sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời trên phương diện cảm tạ Ngài: “17Vậy chớ nên như kẻ dại dột, nhưng phải hiểu rõ ý muốn của Chúa là thế nào.” (Êph. 5:17) Trên phương diện cảm tạ, ý muốn của Đức Chúa Trời là: “Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta.” (Êph. 5:20; Sv. 1Tê. 5:16-18) “Vậy, hãy cậy Đức Chúa Jêsus mà hằng dâng tế lễ bằng lời ngợi khen cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra.” (Hê. 13:15) Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời được thể hiện qua sự chúc tụng Ngài luôn luôn có tác dụng thuyết phục người khác về Ngài: “Ngài để nơi miệng tôi một bài hát mới,_Tức là sự ngợi khen Đức Chúa Trời chúng tôi._Lắm người sẽ thấy điều đó, bắt sợ,_Và nhờ cậy nơi Đức Giêhôva.” (Thi. 40:3; Sv. Công. 16:22-34) Lịch sử Hội Thánh chứng minh rằng một khi Hội Thánh là Hội Thánh sống với tấm lòng vâng phục và cảm tạ Đức Chúa Trời, Hội Thánh sẽ được phấn hưng: “42Vả, những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các Sứ Đồ, sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện. 43Mọi người đều kính sợ, vì có nhiều sự kỳ phép lạ làm ra bởi các Sứ Đồ. 44Phàm những người tin Chúa đều hiệp lại với nhau, lấy mọi vật làm của chung. 45Bán hết gia tài điền sản mình mà phân phát cho nhau, tùy sự cần dùng của từng người. 46Ngày nào cũng vậy, cứ chăm chỉ đến Đền Thờ; còn ở nhà, thì bẻ bánh và dùng bữa chung với nhau cách vui vẻ thật thà, 47ngợi khen Đức Chúa Trời và được đẹp lòng cả dân chúng. Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh.” (Công. 2:43-47) Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời của Cơ Đốc Nhân là một cánh cửa mở rộng của thái độ chấp nhận. Khi một người biết sống với lòng cảm tạ Đức Chúa Trời, các mối quan hệ của họ đều sẽ được cải thiện dễ dàng. Trước hết, họ là người rất dạn dĩ trong việc tiếp cận Đức Chúa Trời. Họ là những người có khả năng thấy được trên đỉnh đồi có gì ngay khi mới khởi sự cuộc hành trình ở chân đồi: “18Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta... 28Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. 29Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; 30còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển.” (Rô. 8:18, 28-30) Đối với người thực sự tin kính, chẳng gì có thể làm cho họ dao động được vì quan hệ giữa họ với Đức Chúa Trời là một sự quan hệ bền chặt. Người ta không thể luôn luôn có lòng tri ân đối với Đức Chúa Trời khi tầm nhìn còn bị sự vật, sự việc trói buộc. Tầm nhìn của tấm lòng tri ân là một tầm nhìn không phải của đôi mắt mà là của tấm lòng nương cậy. Chính mối quan hệ giữa Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Trời sẽ quyết định tính chất của các mối quan hệ của họ với tha nhân: “3 Chúc tạ Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha hay thương xót, là Đức Chúa Trời ban mọi sự yên ủi, 4 Ngài yên ủi chúng tôi trong mọi sự khốn nạn, hầu cho nhân sự yên ủi mà Ngài đã yên ủi chúng tôi, thì chúng tôi cũng có thể yên ủi kẻ khác trong sự khốn nạn nào họ gặp!” (2Cô. 1:3-4) Người sống với lòng cảm tạ Đức Chúa Trời sẽ được chính Đức Chúa Trời ban quyền năng để họ có khả năng hòa tan mình trong mối quan hệ dấn thân, hy sinh cho tha nhân hầu cho ngày càng có nhiều người biết sống cảm tạ Đức Chúa Trời hơn: “7Nhưng chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi... 11Bởi chúng tôi là kẻ sống, vì cớ Đức Chúa Jêsus mà hằng bị nộp cho sự chết, hầu cho sự sống của Đức Chúa Jêsus cũng được tỏ ra trong xác thịt hay chết của chúng tôi; 12vậy thì sự chết làm trong chúng tôi, còn sự sống trong anh em... 15Bởi chưng mọi điều đó xảy đến vì cớ anh em, hầu cho ân điển rải ra cách dư dật, khiến sự tạ ơn nơi nhiều người hơn cũng dư dật, mà thêm vinh hiển cho Đức Chúa Trời.” (2Cô. 4:7, 11-12, 15) III. ĐỂ SỐNG CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI Hãy nhìn thẳng vào các tác dụng của lòng cảm tạ Đức Chúa Trời để nhận ra phần nào lẽ mầu nhiệm của đức nhân từ của Đức Chúa Trời chúng ta. Tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời giúp thăng tiến niềm vui thỏa trong Ngài của chúng ta, tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời giúp thăng tiến hiệu quả làm chứng về Ngài của đời sống chúng ta, và tấm lòng cảm tạ Đức Chúa Trời giúp thăng tiến mối quan hệ của chúng ta đối với Ngài cũng như đối với tha nhân. Thiện thay là Đức Chúa Trời của chúng ta! Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết sống cảm tạ Ngài để chúng ta có Ngài, và vì thế mà chúng ta sẽ có đủ tất cả mọi sự: “Sư tử tơ bị thiếu kém, và đói;_Nhưng người nào tìm cầu Đức Giêhôva sẽ chẳng thiếu của tốt gì.” (Thi. 34:10) Lòng cảm tạ Đức Chúa Trời chỉ hình thành và thể hiện trong đời sống Cơ Đốc Nhân nhờ quyền năng Đức Thánh Linh với sự tham dự hoàn toàn của cả thân_hồn_thần của họ: “12Về phần chúng ta, chúng ta chẳng nhận lấy thần thế gian, nhưng đã nhận lấy Thánh Linh từ Đức Chúa Trời đến, hầu được hiểu biết những ơn mà chúng ta nhận lãnh bởi Đức Chúa Trời; 13chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời nói mà sự khôn ngoan của loài người đã dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh đã dạy, dùng tiếng thiêng liêng để giãi bày sự thiêng liêng.” (1Cô. 2:12-13, Sv. 1Cô. 12:3) “Chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa” (Hê. 10:22) Trước nhất, người ta chỉ có thể cảm tạ Đức Chúa Trời được khi lý trí họ nhận thức được rằng đó là một điều phải làm chứ không phải là để chọn: “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy.” (1Tê. 5:18) Thứ hai, trên phương diện ý chí, người ta chỉ có thể có đời sống cảm tạ khi họ thực sự có một ý chí thực hành sống cảm tạ. Để thực hành đời sống cảm tạ, người ta phải chừa bỏ thói quen lo lắng và than phiền: “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.” (Phil. 4:6) Đồng thời với việc chừa bỏ sự lo lắng và sự than phiền, người ta cũng phải tập thành thói quen luôn luôn cảm tạ Đức Chúa Trời: “19Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa. 20Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta.” (Êph. 5:19-20) Thứ ba, để sống cảm tạ, chỉ có lý trí và ý chí dự phần vẫn chưa đủ. Lý trí và ý chí cần được nuôi dưỡng bằng một loại đức tin xác tín đến độ đã biến thành tình cảm đối với Đức Chúa Trời vì biết rằng Ngài yêu ai thì yêu đến cùng và có chương trình tốt đẹp cho họ: “38Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, 39bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta.” (Rô. 8:38-39) Lòng cảm tạ Đức Chúa Trời trong đời sống Cơ Đốc Nhân không phải là việc làm của Cơ Đốc Nhân vì việc làm của Đức Chúa Trời! Cơ Đốc Nhân sống cảm tạ Đức Chúa Trời theo phận sự tôn vinh hiển Ngài của mình. Một khi Cơ Đốc Nhân biết sống cảm tạ Đức Chúa Trời như một phận sự Cơ Đốc, đời sống Cơ Đốc của Cơ Đốc Nhân sẽ được thăng tiến trên nhiều phương diện khác nhau dẫn đến việc thăng tiến cho sự sống đời đời của chính họ. Lòng cảm tạ Đức Chúa Trời trong đời sống Cơ Đốc Nhân là hình thức biểu hiện của mối quan hệ mật thiết giữa Cơ Đốc Nhân với Đức Chúa Trời. Mối quan hệ mật thiết ấy là kết quả của quyền năng Đức Thánh Linh cùng với sự dự phần tự giác, tích cực của cả thân_hồn_thần của Cơ Đốc Nhân. Đức Chúa Trời là Đấng tối thiện tối nhân, chính Ngài đã chẳng những đòi hỏi mà còn cho phép Cơ Đốc Nhân có thể sống cảm tạ Ngài trong quyền năng Đức Thánh Linh… “Hãy cảm tạ Đức Giêhôva, vì Ngài là thiện;_Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐỪNG XEM THƯỜNG TỘI LỖI” (Ru. 1:1-5) “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết…” (Rô. 6:23) Trong khắp đại dương mênh mông có biết bao con tàu đã bị đắm, nhưng không có một con tàu đắm nào gây được nhiều chú ý như con tàu Titanic. Titanic đã chìm ngay ở chuyến hải hành đầu tiên của mình vào tháng Tư năm 1912 và giả thuyết về nguyên nhân được người ta tin nhiều nhất là một băng sơn đã làm cho con tàu dài gần 300 mét này đã bị một vết cắt rộng và dài hơn 90 mét dọc sườn tàu. Năm 1985, xác con tàu đắm đã được tìm ra ở độ sâu khoảng 2.200 mét dưới mặt biển ở gần Newfoundland. Từ dạo ấy, các bí ẩn về con tàu đắm này đã được bày tỏ dần dần. Tháng Tám năm 1995, một nhóm các khoa học gia và kỹ thuật gia quốc tế được thành lập để tiếp tục nghiên cứu về con tàu đắm. Phần con tàu bị thương bị vùi lấp dưới bùn của đáy biển nên các nhà nghiên cứu đã phải dùng sóng siêu âm thăm dò để xác định vết thương. Kết quả thu được làm cho ai nấy đều phải ngạc nhiên. Vết thương của con tàu không lớn như trước đây người ta vẫn tưởng. Tổng diện tích bị thủng của con tàu chỉ chừng mười mấy mét vuông mà thôi. Sáu lổ thủng bên sườn tàu đã đánh chìm con tàu mà người ta huênh hoang rằng “Trời cũng không làm cho nó chìm được”. Trong đời sống theo Chúa, nhiều khi chúng ta cứ tưởng rằng chỉ cần tránh những tội lỗi “lớn’ là được rồi; thật ra, tội lỗi ở mọi kích thước đều có thể khiến cho đời sống thuộc linh của chúng ta chìm đắm. Không phải tất cả những người phạm tội trọng đều đã bắt đầu với những ý đồ lớn. Hầu hết đều khởi sự từ những ý tưởng nho nhỏ, tưởng chừng như vô hại, nhưng rồi đã dần dần trượt dài trong tội lỗi, không sao gỡ mình ra được. Những lời đầu tiên của Sách Rutơ cho chúng ta thấy Êlimêléc đã làm một điều mà ngày nay nhiều Cơ Đốc Nhân vẫn thường làm: Chỉ định “tạm thời” thỏa hiệp với tội lỗi mà thôi, nhưng rồi đã phải trả một giá quá đắc! I. ÊLIMÊLÉC ĐẾN VỚI MÔÁP Lỗi đầu tiên mà Êlimêléc đã phạm là viện lý do để “Đến kiều ngụ trong xứ Môáp”. Êlimêléc đã lập luận để tự thuyết phục mình và thuyyết phục người khác rằng việc chung chạ của mình trong Môáp là phải lẽ: Ysơraên đang thiếu lương thực, Môáp đang có sẵn lương thực, đem cả gia đình vào trong xứ Môáp là đến với sự no đủ, đi làm ăn thì có sao đâu… Thế nhưng: “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Ma. 4:4). Đừng để cho sự đói khát trong lòng làm điếng mất sự đói khát của linh hồn đối với sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời. Việc sống “Nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” phải mang tính thứ nhất, mọi quyết định khác đều phải tùy thuộc vào đó. Người Môáp là hậu duệ của con trai Lót. Người Môáp vốn nổi tiếng về sự kiêu ngạo của họ: “Môáp kiêu ngạo vô chừng, sự xấc xược, sự cậy mình, sự khoe khoang của lòng kiêu căng nó, chúng ta đều nghe cả” (Giê. 48:29). Người Môáp không được cho phép được thờ phượng với người Ysơraên: “3Dân Amôn và dân Môáp sẽ không được phép vào Hội Đức Giêhôva, dầu đến đời thứ mười cũng chẳng hề bao giờ vào được; 4bởi vì khi các ngươi ra khỏi xứ Êdíptô, chúng nó không đem bánh và nước ra rước các ngươi trên đường, và bởi vì chúng nó có mướn Balaam, con trai Bêô, ở Phêthôrơ tại Mêsôbôtami đi đến rủa sả ngươi” (Phục. 23:3-4). Theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời, người Ysơraên không được phép có bất cứ quan hệ nào với người Môáp cả. Vậy mà chỉ vì thiếu bánh thuộc thể, Êlimêléc đã làm ngơ sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời, đã thỏa hiệp với người Môáp bằng một nước đi hết sức mạo hiểm: Đem hết cả gia đình mình vào hẳn trong xứ Môáp để sống! Có lẽ Êlimêléc nghĩ rằng “Chỉ thỏa hiệp tạm thời một giai đoạn thì đâu có sao!”. Ngày nay vẫn còn nhiều Cơ Đốc Nhân có cách nghĩ tương tự: “Nói dối vô hại thì có sao đâu!”, “Công việc làm ăn thì có ảnh hưởng gì đến đức tin đâu!”, “Chỉ giao lưu, thông công thôi mà; có gì đâu!”, “Chỉ vui một chút thôi mà!”,… Thực chất, tất cả những cách lập luận như thế là nổ lực để phạm tội. Nguyên tắc hành động của Cơ Đốc Nhân là vâng theo lời dạy của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Nếu biết lý luận và lý luận giỏi, hoặc nếu cần lý luận, phải lý luận sao cho tính chất vâng lời Đức Chúa Trời của đời sống mình được phát huy cao nhất. Trong tất cả mọi sự, khi nào thấy sự suy luận của tâm trí không thể hiện được tính chất vâng lời Đức Chúa Trời của linh hồn, khá nhận biết rằng có khả năng phạm tội trong một sự suy luận như thế. Cách đặt vấn đề sai sẽ khiến cho sự hành động cũng sẽ sai… II. ÊLIMÊLÉC CHUNG CHẠ VỚI MÔÁP Êlimêléc chỉ định đem gia đình đến Môáp “kiều ngụ” một thời gian ngắn cho qua nạn đói mà thôi. Thế nhưng, khi vào trong Môáp rồi, họ “bèn ở tại đó”: “1Trong đời các quan xét, một cơn đói kém xảy đến trong xứ, có một người từ Bếtlêhem xứ Giuđa, đi với vợ và hai con trai mình đến kiều ngụ trong xứ Môáp. 2Người tên là Êlimêléc, vợ tên là Naômi, hai con trai tên là Mạclôn và Kiliôn, đều là dân Ơphơrát về Bếtlêhem trong xứ Giuđa. Đến xứ Môáp, chúng bèn ở tại đó” (Ru. 1:1-2). Nếu chúng ta gặp Êlimêléc trước khi đưa gia đình ra đi và hỏi ông ấy rằng liệu ông có định ở luôn tại đó hay không thì chắc chắn Êlimêléc sẽ trả lời rằng “Không bao giờ có chuyện ấy!”. Thế nhưng, “Đến xứ Môáp, chúng bèn ở tại đó”! Vậy là, ban đầu dự định chỉ ở tạm một thời gian để làm ăn nhưng rồi việc xảy ra là họ đã quyết định định cư luôn trong Môáp. Ngày mà họ đưa ra quyết định ấy quả thật là một ngày đáng buồn. Có biết bao người ghiền rượu đã từng thề bán mạng rằng họ sẽ chẳng bao giờ để cho mình phải ghiền; và có biết bao người ghiền rượu cứ quả quyết là họ có thể từ bỏ nó bất cứ lúc nào! Chúng ta có thể tin được rằng Êlimêléc đã không hề có ý định ở lại Môáp. Nhưng sự thật là Êlimêléc đã để cho cả gia đình ở luôn tại đó mà không hề định trước. Không phải là Êlimêléc không biết rằng mình chẳng được phép ở với Môáp, vấn đề ở chỗ Êlimêléc không cảnh giác đối với các yếu tố khiến dần dần đưa mình vào sự vi phạm. Êlimêléc tưởng rằng mọi sự đều ở trong tầm tay của mình, nhưng Lời Kinh Thánh vẽ cho chúng ta thấy một bức tranh hoàn toàn khác: “3Êlimêléc, chồng của Naômi, qua đời, để nàng lại với hai con trai mình. 4Chúng nó cưới vợ trong người nữ Môáp, người nầy tên là Ọtba, người kia tên là Rutơ; họ ở tại đó độ mười năm” (Ru. 1:3-4). Trên bước đường theo Chúa, có khá nhiều người có cách khởi sự giống với Êlimêléc. Ban đầu, họ chỉ làm theo cái gì đó một ít, rất ít mà thôi. Thế nhưng, với một ít chỗ này, một ít chỗ kia,… chẳng mấy chốc, khi nhìn lại, chúng ta thấy họ đã nhiễm phải rất nhiều mồi, bã tinh vi của Satan đến độ chính họ không thể nhận ra được. Những ai tưởng rằng hễ cứ là “Hội Thánh” thì đâu cũng tốt, gì cũng tốt, và thế nào cũng tốt - không sớm thì muộn - sẽ trở thành những Êlimêléc mà không biết. Paul Little nói rằng “Sự sụp đổ của đời sống Cơ Đốc ít khi diễn ra như những vụ nổ lốp xe; sự sụp đổ của đời sống Cơ Đốc thường xảy ra theo cách lốp xe bị xì hơi từ từ”. Đó là sự thật. Satan sẽ không làm cho các con cái của Chúa phạm tội thật lớn ngay lần đầu tiên, Satan luôn đưa người ta trượt dần từng chút một trong tội lỗi qua những việc tưởng chừng như vô hại! Nhiều người - khi họ được nhắc nhở, cảnh báo về nguy cơ - đã tỏ ra bực bội: “Như thế này thì sai ở chỗ nào?”. Giống với một chiếc lốp xe bị xì hơi từ từ, họ không hề biết rằng đời sống của họ cuối cùng sẽ không còn có ích cho Đức Chúa Trời và Vương Quốc của Ngài nữa. Vào tháng Mười Một năm 2000, có một phụ nữ nhận được một thư điện tử trên máy vi tính của mình. Tiêu đề của thư rất hấp dẫn: “Anh yêu Em!”. Quả thật là một bức thư rất đáng nên đọc vì trông thật hiền hòa và trữ tình. Người phụ nữ ấy đã bấm chuột để mở thư, và thế là “Con Rệp Tình Yêu” ra đời (“Love Bug”, tên một loại virút máy vi tính rất lợi hại). Với tốc độ của dòng điện, loại virút này đã lan ra khắp thế giới khiến tê liệt nhiều sinh hoạt kinh tế, chính trị, xã hội,… lúc ấy. Đó chính là một loại virút máy vi tính đã gây thiệt hại cho hàng triệu máy vi tính, phá hỏng vô số phần mềm máy vi tính trên thế giới. Bắt đầu chỉ với một cái thư điện tử nhỏ mà thôi, nhưng sự ô nhiễm sau đó lớn vô cùng. Thế nhưng đó không phải là lần đầu tiên virút làm hại nhân loại. Thật ra, đó chỉ là biến tướng của một loại virút chết người đã xuất hiện trước đây hơn sáu ngàn năm, tấn công vào Ađam và Êva là hai người đầu tiên trên hành tinh này. Họ đã không vâng lời Đức Chúa Trời phán truyền rằng chớ kích hoạt vào thông điệp của Satan gửi đến. Họ đã mở thư mời của Satan và rồi hậu quả kinh hoàng đã giáng trên số phận của họ và cả dòng dõi nhân loại. Chính loại virút mang tên “Tội Lỗi” ấy đã sinh ra mọi loại virút ác hại cho đến ngày nay. Có một bài hát có lời rằng “Tội lỗi sẽ đem bạn đi xa hơn nơi bạn muốn, sẽ giữ bạn ở lại lâu hơn bạn định, và bắt bạn phải trả giá cao hơn bạn tưởng”; quả thật là chí lí! Tội lỗi chứa đầy những yếu tố bất ngờ, điều duy nhất không hề bất ngờ trong vấn đề tội lỗi là nó luôn luôn có hậu quả xấu! Tội lỗi của Êlimêléc đã khiến ông đi xa hơn giới hạn mong muốn, giữ ông ở lại với nó lâu hơn dự định, và chúng ta sẽ còn thấy nó bắt trả giá đắt hơn ông tưởng rất nhiều. III. ÊLIMÊLÉC MẤT MẠNG TRONG MÔÁP Êlimêléc đã phải trả một giá đắc cho tội lỗi của mình: “3Êlimêléc, chồng của Naômi, qua đời, để nàng lại với hai con trai mình…5Kế sau, Mạclôn với Kiliôn cũng thác, để Naômi ở lại, không chồng không con” (Ru. 1:3, 5). Êlimêléc là thành viên đầu tiên của gia đình chết tại một nơi mà họ tưởng rằng sẽ nuôi họ sống và họ sẽ được trở về bình an. Êlimêléc đã lập luận cho tội lỗi, đã nán lại trong tội lỗi, thì làm sao khỏi phải trả giá cho tội lỗi được? Chúng ta không ngạc nhiên về cái giá mà Êlimêléc phải trả, ông đã phải trả giá cho tội lỗi của mình theo như Lời Kinh Thánh đã phán: “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết…” (Rô. 6:23). Tuy nhiên, sự chết chẳng phải là món “tiền công” duy nhất mà gia đình Êlimêléc đã phải trả. Trước khi chết, các con trai của Êlimêléc đã chung chạ với những người nữ ngoại Do Thái. Theo Luật Pháp Môise, người Ysơraên không được kết hôn với người khác chủng tộc với mình. Chẳng những thế, người Môáp là một dân cá biệt. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời nghịch cùng người Môáp. Vì quyết định sai trật của Êlimêléc, các con của ông đã phải kết hôn ngược lại với ý chỉ của Đức Chúa Trời. Tình cảnh của Naômi, vợ của Êlimêléc, cũng rất thảm hại: Không chồng, không con nơi đất khách quê người… Từ quyết định sai của chồng, Naômi cuối cùng sống trong tâm trạng cay đắng, mất phương hướng, ngộ nhận Đức Chúa Trời: “… 20Các ngưới nữ hỏi rằng: Ấy có phải Naômi chăng? 20Người đáp: Chớ gọi tôi là Naômi, hãy gọi là Mara, vì Đấng Toàn Năng đã đãi tôi cách cay đắng lắm” (Ru. 1: 19b-20). Lạc bước tất phải sẩy chân, sẩy chân tất phải mất mạng. Thỏa hiệp với tội lỗi thì tất phải đắm chìm trong tội lỗi và việc phải nhận tiền công của tội lỗi chỉ còn là vấn đề thời gian. Êlimêléc có nghĩa là “Đức Chúa Trời tôi là Vua” nhưng Êlimêléc đã không để cho Đức Chúa Trời làm vua trên đời sống mình. Bếtlêhem nghĩa là “Nhà bánh” nhưng Êlimêléc sống theo mắt nhìn của mình, không thấy được sự dự ứng của Đức Chúa Trời, sợ thiếu bánh ngay trong “nhà bánh”. Sai trật chồng chất trên sai trật, tên gọi Naômi có nghĩa là “Ngọt dịu” nhưng lại chỉ thấy toàn “Cay đắng” (Mara) trong đời. Con người chọn lựa sai mà lại tưởng rằng Đức Chúa Trời ngược đãi, chìu theo mắt thấy của mình nhưng lại muốn Đức Chúa Trời phải chịu trách nhiệm: “13Chớ có ai đương bị cám dỗ mà nói rằng: Ấy là Đức Chúa Trời cám dỗ tôi; vì Đức Chúa Trời chẳng bị sự ác nào cám dỗ được, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai. 14Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình. 15Đoạn lòng tư dục cưu mang, sanh ra tội ác; tội ác đã trọn, sanh ra sự chết” (Gia. 1:13-15). Rowland Hill đưa ra một câu chuyện minh họa có ý nghĩa thật súc tích kể về một người đồ tễ rất tài tình. Hàng ngày, người đồ tễ này không phải vất vả gì cả mà vẫn khiến cho những con lợn sắp bị giết thịt tự động theo ông tuần tự đi đến tận bàn mổ! Người đồ tễ thật ung dung, cứ chậm rãi đi trước, con lợn sắp bị giết chăm chú bám sát theo sau; điều duy nhất khiến cho người ta chú ý nơi người đồ tễ là ông có cái bao gì đó mang trên vai mình… Thì ra người đồ tễ này đã cho lợn ngửi biết trong bao có thức ăn ngon, thế là nó cứ mãi miết đi theo cho đến tận nơi bị hành hình! Quả thật là “Tham thực, cực thân”… Theo cùng một cách tương tự, những người không kính sợ Đức Chúa Trời cứ thế mà đi theo Satan vào tận Hồ Lửa đời đời! Chính bằng “Sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời” (1Gi. 2:16) mà Satan đã làm đắm chìm biết bao số phận. Tuy nhiên, dầu rằng “Tiền công của tội lỗi là sự chết” nhưng không phải là không có giải pháp vì “Sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta”. Hãy quay lại với Đức Chúa Trời, đừng nán trễ trong thế gian cùng những sự thuộc về thế gian, vì “Thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (1Gi. 2:17). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐỨC TIN VÀ TÌNH YÊU THƯƠNG CƠ ĐỐC TRONG HỘI THÁNH” (Philm. 1:4-7) “Tôi cầu xin Ngài rằng đức tin đó, là đức tin chung cho chúng ta, được có hiệu nghiệm, khiến người ta biết ấy là vì Đấng Christ mà mọi điều lành được làm trong chúng ta.” (Philm. 1:4-7) “Sự yêu thương”, “Sự tha thứ”, “Đức tin”,… đối với một số nhà khoa học chỉ là những phạm trù xã hội học, là sản phẩm của tâm lý_thần kinh cấp cao của con người. Đối với khá nhiều người, các phạm trù này có quá nhiều yếu tố “phi tự nhiên” không thuận lợi cho việc thực hành trong đời sống xã hội. Tuy vậy, từ xã hội nguyên thủy cho đến xã hội hiện đại, không có ai là không biết yêu thương, không có ai là không phải thực hiện sự tha thứ, và cũng không có ai là không phải tin vào một điều gì đó không hoàn toàn dựa trên sự kiến giải của lý trí. Ngược lại, đối với những người đã được cứu trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, Đức Tin và Tình Yêu Thương là những thực tại sinh động đã từng có trong thời kỳ Hội Thánh ban đầu và ngày nay vẫn còn đang được thể hiện mạnh mẽ. Đức Tin và Tình Yêu Thương Cơ Đốc là những thực tại siêu nhiên có xuất phát điểm từ Đức Chúa Trời, có phạm vi đề cập trong Đức Chúa Trời, và có đích điểm ở Đức Chúa Trời qua cuộc sống đời thường của những con người đã thực sự tin nhận Chúa Cứu Thế Jêsus làm Cứu Chúa và Chúa của đời sống mình. Philêmôn là một con người như thế. I. SỰ CẢM TẠ ĐỐI VỚI “ĐỨC CHÚA TRỜI” (C. 4) “Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời tôi, hằng ghi nhớ anh trong lời cầu nguyện” Nói về Philêmôn, lời đầu tiên của Phaolô là lời cảm tạ Chúa. Phaolô muốn cho Philêmôn biết rằng ông thường xuyên nhắc đến tên của mình trong khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Cảm tạ trong khi cầu nguyện là một việc làm thường lệ của Phaolô. Đối với Sứ Đồ Phaolô, sự cảm tạ hòa quyện vào trong sự cầu nguyện hàng ngày của ông, kể cả khi ở trong tù: - “Trước hết, tôi nhờ Đức Chúa Jêsus Christ, vì hết thảy anh em mà tạ ơn Đức Chúa Trời tôi về đức tin anh em đã đồn ra khắp cả thế gian” (Rô. 1:8). - “Tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, bởi cớ anh em đã được Đức Chúa Trời ban ơn trong Đức Chúa Jêsus Christ” (1Cô. 1:4). - “Mỗi khi tôi nhớ đến anh em, thì cảm tạ Đức Chúa Trời tôi” (Phil. 1:3). - “Trong khi chúng tôi cầu nguyện cho anh em không thôi, thì cảm tạ Đức Chúa Trời, là Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Côl. 1:3). Những lời chứng về việc lành của người công bình là một điều cần thiết; dầu vậy, Đức Chúa Trời phải được cảm tạ trước tiên vì Ngài là tác giả thực sự của những phẩm hạnh, đức độ cao quí ấy: “Chúng ta lại còn khoe mình trong Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (Rô. 5:11). Ý muốn của Đức Chúa Trời là “23Người khôn chớ khoe sự khôn mình; người mạnh chớ khoe sự mạnh mình; người giàu chớ khoe sự giàu mình; 24nhưng kẻ nào khoe, hãy khoe về trí khôn mình biết Ta là Đức Giêhôva, là Đấng làm ra sự thương xót, chánh trực, và công bình trên đất; vì Ta ưa thích những sự ấy, Đức Giêhôva phán vậy” (Giê. 9:23-24). Sứ Đồ Phaolô luôn có niềm vui trong sự cầu nguyện không thôi cho bầy chiên của mình, trong số ấy có cả Philêmôn. Có một số lẽ thật trong nguyên nhân khiến Phaolô cầu nguyện cho Philêmôn. II. ĐỨC TIN “TRONG ĐỨC CHÚA JÊSUS” (C. 5) “Vì nghe nói anh có lòng yêu thương và đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ và cùng các thánh đồ” Sứ Đồ Phaolô có cơ sở khi cầu nguyện cảm tạ về Philêmôn. Vị Sứ Đồ này cho biết có hai điều khích lệ ông không ngừng cầu nguyện cho Philêmôn. Trước tiên, ấy là vì đức tin của Philêmôn. Trong Philm. 1:5, Sứ Đồ Phaolô xác nhận rằng ông thường xuyên cầu nguyện cho “đức tin trong Đức Chúa Jêsus” của Philêmôn. Từ liệu Hy Lạp được sử dụng ở đây cho động từ “nghe” (Gk. akouo) diễn đạt một hành động liên tục. Như vậy chúng ta biết được rằng những gì Phaolô nghe đã được cập nhật và cập nhật từ nhiều nguồn đáng tin khác nhau. Phaolô có một sự quan tâm trước sau như một đối với Philêmôn vì Philêmôn chính là một trong những người đã trở lại với Chúa qua chức vụ của Phaolô (C. 19), có lẽ là tại Hội Thánh Êphêsô khoảng hai năm trước đó. Sự việc rằng Philêmôn là một người đã thực sự trở lại với Chúa Cứu Thế Jêsus là một điểm quan trọng. Sứ Đồ Phaolô cũng đã từng nhắc chúng ta về điều ấy (“Chính anh em hãy tự xét để xem mình có đức tin chăng…”, 2Cô. 13:5). Chúng ta cần phải biết chắc rằng mình đã thực sự tin nhận Ngài, nhiên hậu, chúng ta mới tiếp tục trưởng thành theo mẫu mực của Ngài được: (1) Đã trở lại với Chúa, tức là một Cơ Đốc Nhân, Philêmôn mới kinh nghiệm được tình yêu thương và sự tha thứ của Đức Chúa Trời. (2) Nhờ đó, Philêmôn có được khả năng tin cậy và yêu thương đã nhận lãnh từ Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Trong trường hợp của Philêmôn, chúng ta suy nghĩ như thế là hợp luận lý, vì Lời Chúa phán như thế này: - “Ấy chính Ta, là Đấng vì mình Ta mà xóa sự phạm tội ngươi; Ta sẽ không nhớ đến tội lỗi ngươi nữa” (Ês. 43:25). - “Hãy ăn ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Êph. 4:32). Đức Tin và Tình Yêu Thương dầu phân biệt với nhau nhưng không bao giờ tồn tại biệt lập. Đức Tin luôn được thể hiện bằng Tình Yêu Thương qua việc làm; trái lại, Tình Yêu Thương chân thực chỉ xuất phát từ Đức Tin mà thôi. Chính vì yếu tố ấy mà Tình Yêu Thương lạ lùng của các Cơ Đốc Nhân là một điều khiến cho người đời phải kinh ngạc. Có một sinh viên thần học tại Thần Học Viện Trinity ở Chicago muốn tìm một việc gì đó để phục vụ cho cộng đồng trong thời gian học ở đây. Việc duy nhất mà người này tìm được là lái xe bus ở khu Nam của thành phố. Một ngày kia, có một nhóm thanh thiếu niên hư hỏng lên xe, nhưng không chịu mua vé. Vì nhóm người này cứ làm như thế luôn mấy hôm liền, anh sinh viên ấy đã phải báo cảnh sát. Cảnh sát buộc họ phải mua vé, nhưng khi cảnh sát đi rồi, nhóm người ấy đã đánh cho anh sinh viên một trận tơi bời! Nhóm người trẻ này đã bị bắt, phải ra Tòa, và bị kết án tù. Thế nhưng khi Tòa tuyên án mới vừa xong, anh sinh viên thần học đã làm cho cả phiên tòa phải sửng sốt: Anh nhận ra được tình trạng thuộc linh đáng thương của họ nên xin Tòa hãy để cho anh chịu án thay. Lý lẽ anh sinh viên này đưa ra là như thế này: “Vì Đức Chúa Jêsus đã chịu án thay cho tôi còn nhiều hơn thế, xin hãy cho phép tôi chịu án thay cho họ!”. Tất nhiên là Tòa không chấp nhận sự thỉnh cầu của anh sinh viên; thế nhưng sau đó, nhờ bền lòng thăm viếng, làm chứng cho những người tù ấy, đã có mấy người trong số những người này trở lại với Chúa. Có lần Martin Lloyd Jones đã nói như thế này: “Tôi xin nói hết sức thực lòng rằng cứ mỗi khi suy nghĩ về những điều Chúa đã làm trên đời sống tôi, tôi có thể tha thứ cho bất cứ ai về bất cứ việc gì”. III. TÌNH YÊU THƯƠNG “CÙNG CÁC THÁNH ĐỒ” (C. 5-7) “Tôi cầu xin Ngài rằng đức tin đó, là đức tin chung cho chúng ta, được có hiệu nghiệm, khiến người ta biết ấy là vì Đấng Christ mà mọi điều lành được làm trong chúng ta” Một nét tính cách khác của Philêmôn khiến cho Sứ Đồ Phaolô cảm tạ Đức Chúa Trời là Tình Yêu Thương của Philêmôn. Tình yêu duy nhất thực sự cao thượng là Tình Yêu Thiên Thượng. Khi nào người ta còn đứng trên mặt bằng con người để ban phát tình yêu thương cho người khác, tình yêu ấy vẫn còn mang bản chất thế gian và còn có khuyết tật theo những khuyết tật cố hữu của bản chất người đã bị hư hoại. Chỉ khi nào tình yêu cao sâu của Cứu Chúa đầy dẫy và tuôn chảy qua đời sống thì tình yêu của người ta mới thực sự cao thượng được. Để nói về Tình Yêu Thương, Sứ Đồ Phaolô có thể chọn sử dụng một vài từ liệu khác nhau: (1) “Phileo”: Nói về tình yêu thương với sự quan tâm theo cảm xúc. (2) “Stego”: Nói về tình yêu thương với tính chất che chở, nâng đỡ. (3) “Agape”: Nói về tình yêu theo sự chọn lựa của ý chí, bằng sự hạ mình và hy sinh bản thân. Tất nhiên rằng Tình Yêu Thương Cơ Đốc mang tính chất quan tâm theo cảm xúc, nhưng đó chưa phải là bản chất, vì thế Sứ Đồ Phaolô không dùng từ liệu “phileo”. Vẫn biết rằng Tình Yêu Thương Cơ Đốc nhằm mục đích nâng đỡ, che chở, phục vụ,…; nhưng đó cũng chưa phải là bản chất, vì thế Sứ Đồ Phaolô cũng không sử dụng từ liệu “stego” ở đây. Theo J. I. Packer, “Ý nghĩa của Tình Yêu Thương Cơ Đốc được trực tiếp rút ra từ sự khải thị của Đức Chúa Trời trong và qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Dầu rằng rất mãnh liệt, nhưng Tình Yêu Thương Cơ Đốc không phải là một dạng cảm xúc thiên nhiên của con người, mà là bông trái của Đức Thánh Linh trong đời sống của người tin (“Trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ”, Gal. 5:22-23). Tình Yêu Thương Cơ Đốc là một thực tại của ý chí hơn là của xúc cảm, vì Cơ Đốc Nhân phải yêu cả những người mình không thích nữa (“Hãy yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi”, “Các ngươi hãy nên trọn vẹn như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn”, Ma. 5:44, 48)”. Tình Yêu Thương Cơ Đốc là yếu tố căn bản để trở nên giống với Chúa Cứu Thế Jêsus. Chính vì vậy, Sứ Đồ Phaolô, dưới sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh, đã sử dụng từ liệu “agape” để nói về Tình Yêu Thương Cơ Đốc trong đoạn Kinh Thánh này. Tình Yêu Thương Cơ Đốc đã được Sứ Đồ Phaolô mô tả rõ hơn trong 1Cô. 13:4-8 như sau: “4Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhân từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, 5chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, 6chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật. 7Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự. 8Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ…” Sứ Đồ Phaolô được nghe nói về “agape” của Philêmôn “cùng các thánh đồ”, tức là đối với tất cả các anh em, chị em trong Chúa, nhất là những người nhóm lại trong nhà của Philêmôn. Điều đó là chắc chắn, Sứ Đồ Phaolô khẳng định: “Hỡi anh, tôi đã được vui mừng yên ủi lắm bởi lòng yêu thương của anh, vì nhờ anh mà lòng các thánh đồ được yên ủi” (C. 7). Một khi Philêmôn có được “agape” đối với tất cả các thánh đồ: (1) Philêmôn không còn bận tâm đến hoàn cảnh xuất thân hay hành vi quá khứ của anh em, chị em mình; (2) Tình Yêu Thương của Philêmôn không còn có điều kiện nào nữa cả; nhờ đó, nó cũng không còn bị giới hạn; (3) Như vậy, tình yêu thương của Philêmôn có khả năng trải rộng đến tất cả mọi người, kể cả người đầy tớ đã bỏ trốn mà Sứ Đồ Phaolô khuyên Philêmôn hãy tiếp nhận lại trong bức thư này. Đó chính là Tình Yêu Thương mà Hội Thánh của Đức Chúa Trời ngày nay cần phải có. Tình Yêu Thương Cơ Đốc được sản sinh từ niềm tin Cơ Đốc không phải chỉ để làm nhãn hiệu mà phải có tác dụng thực hành, hay theo cách nói của Sứ Đồ Phaolô là “có hiệu nghiệm”: “Tôi cầu xin Ngài rằng đức tin đó, là đức tin chung cho chúng ta, được có hiệu nghiệm, khiến người ta biết ấy là vì Đấng Christ mà mọi điều lành được làm trong chúng ta” (C. 6). Niềm tin Cơ Đốc là niềm tin thực hành: Nhận lãnh thực hành và ban cho cũng thực hành (“Hãy chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ phung, và trừ các quỉ. Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho không”, Ma. 8:10): “14Hỡi anh em, nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? 15Ví thử có người anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hàng ngày, 16mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng? 17Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết” (Gia. 2:14-17). Những việc lành trong Hội Thánh cần phải được kể ra để làm sáng danh Đức Chúa Trời và giúp cho người đời có thiện cảm với Đạo Tin Lành. Dầu vậy, những lời chứng như thế phải có cơ sở thực tế và nhằm mục đích tạ ơn Đức Chúa Trời là Đấng đã làm tất cả mọi sự tốt đẹp trong chúng ta và qua chúng ta nhờ ơn Đức Chúa Jêsus. Việc lành trong đời sống Cơ Đốc chỉ thực sự là việc lành đẹp ý Đức Chúa Trời nếu được sản sinh nhờ đức tin, và là bông trái của Tình Yêu Thương Cơ Đốc, vì đời sống Cơ Đốc là đời sống thực hành đức tin. Một khi Hội Thánh có được các dấu hiệu của Tình Yêu Thương Cơ Đốc, Hội Thánh sẽ được phát triển vì “Hội Thánh biết yêu thương sẽ phát triển, và chỉ có Hội Thánh phát triển mới biết yêu thương” (Rick Warren). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” (Ma. 1:18-25) “Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một Con Trai,_Rồi người ta sẽ đặt tên Con Trai đó là Emmanuên; _Nghĩa là: Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.” (Ma. 1:18-25) Sứ Đồ Phaolô khẳng định rằng “Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy…” (1Ti. 1:15). Kinh Thánh bày tỏ cho chúng ta biết được rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, Ngài đã giáng sinh để ở cùng chúng ta, hiện vẫn đang ở cùng chúng ta bởi Thánh Linh của Ngài, và sẽ còn tái lâm để ở cùng chúng ta… I. “ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” ĐỂ TỰ KHẢI THỊ CHO CHÚNG TA “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” là Lẽ Thật căn bản của mọi Lẽ Thật Cơ Đốc. Trước hết là vì chúng ta chỉ là loài người hữu hạn, nếu Đấng Vô Hạn không đẹp ý tự khải thị Ngài cho chúng ta thì chúng ta sẽ không thể biết được Ngài. Kinh Thánh phán rằng “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” để tự khải thị Ngài cho chúng ta: “1Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các Đấng Tiên Tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần, nhiều cách, 2rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian.” (Hê. 1:1-2) Với một sự khôn ngoan vô hạn, Đức Chúa Trời đã chọn giải pháp nhập thể để khải thị chính Ngài và chương trình cứu rỗi hoàn hảo của Ngài. “Trở nên giống như loài người” (Phil. 2:7) là cách thuận lợi nhất cho nhân loại có thể lĩnh hội Ngài: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy Ơn và Lẽ Thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến từ nơi Cha.” (Gi. 1:14) Đức Chúa Jêsus là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, Ngài là Đức Chúa Trời, Ngài là Bản Thể của Đạo (“Ngôi Lời”, Gk. logos). “Đạo” của Đức Chúa Jêsus cũng là “Đạo” về Đức Chúa Jêsus, tức là Đạo của Đức Chúa Trời và về Đức Chúa Trời. Đạo của Đức Chúa Trời là con đường duy nhất chân chính theo sự nhìn nhận của Ngài để nhân loại theo đó mà được cứu độ đến sự sống đời đời. II. “ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” ĐỂ CỨU ĐỘ CHÚNG TA “Đạo” của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus là Thiên Đạo, là Đạo chân chính duy nhất có quyền năng cứu chuộc người tin ra khỏi nợ tội, án tội, và ách tội: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có Danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” (Công. 4:12) “Danh” của Đức Chúa Jêsus không phải chỉ đơn thuần có nghĩa là “danh xưng” của Đức Chúa Jêsus, tức là tên gọi Đức Chúa Jêsus! Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “Danh” (Gk. onoma) được dùng để nói về tất cả những gì mà Đấng có “Danh” ấy đem lại được. “Danh” của Đức Chúa Jêsus hàm ý về Công Nghiệp Cứu Rỗi mà Đức Chúa Jêsus đã hoàn thành trên Thập Tự Giá cho nhân loại, cùng những gì Ngài đang hoàn thành trong đời sống người tin, và với những gì Ngài sẽ còn hoàn thành cho người tin Ngài trong tương lai khi Ngài tái lâm! Ba sự hoàn thành ấy hợp lại thành một thể thống nhất của sự cứu rỗi trọn vẹn trong và qua Đức Chúa Jêsus: “Người sẽ sanh một Trai, ngươi khá đặt tên là JÊSUS, vì chính Con Trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.” (Ma. 1:21) “4Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới Luật Pháp, 5để chuộc những kẻ ở dưới Luật Pháp…” (Gal. 4:4-5) “6Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội… 8Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:6, 8) “3Vả, trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo Lời Kinh Thánh; 4Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại theo Lời Kinh Thánh.” (1Cô. 15:3-4) Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, Ngài đã giáng sanh, sống như một người giữa mọi người. Đức Chúa Jêsus đã chết thay trên Thập Tự Giá cho tội lỗi của nhân loại. Đức Chúa Jêsus đã bị chôn, nhưng chúng ta là những người có phước vì “đến ngày thứ ba” Cứu Chúa của chúng ta đã phục sinh và hiện nay Ngài vẫn đang sống! III. “ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” ĐỂ BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI CHO CHÚNG TA Trong một thế giới “vô phước”, chúng ta là những người có phước vì chúng ta đang được sống trong sự dắt dẫn của một Cứu Chúa hằng sống! Đức Chúa Jêsus chẳng những đã chết cho tội lỗi của chúng ta, Ngài cũng đã sống lại để bảo đảm sự sống đời đời cho chúng ta: “4Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, 5nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ - ấy là nhờ Ân Điển mà anh em được cứu – 6và Ngài làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Đức Chúa Jêsus Christ.” (Êph. 2:4-6) “Sự sống đời đời” không đồng nghĩa với “được sống đời đời”. Trước hết, sống đời đời là “sống với Đấng Christ” trong hiện tại, tức có mối tương giao mật thiết với Ngài, được sống đắc thắng trong quyền năng phục sinh của Ngài. “Sự sống đời đời” trước hết là sự sống thuộc linh của chúng ta có được nhờ Đức Chúa Jêsus: “13Khi anh em đã chết bởi tội lỗi mình và sự xác thịt mình không chịu cắt bì, thì Đức Chúa Trời đã khiến anh em sống lại với Đấng Christ, vì đã tha thứ hết mọi tội chúng ta: 14Ngài đã xóa tờ khế lập nghịch cùng chúng ta, các điều khoản trái với chúng ta nữa, cùng phá hủy tờ khế đó mà đóng đinh trên Cây Thập Tự; 15Ngài đã truất bỏ các quyền cai trị cùng các thế lực, dùng Thập Tự Giá chiến thắng chúng nó, và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ.” (Côl. 2:13-15) “Sự sống đời đời” còn có nghĩa là được sống lại trong tương lai để sống đời đời với Đức Chúa Jêsus trong sự vinh hiển của Ngài: Chúng ta sẽ được mặc lấy thân thể vinh hiển giống như Ngài, được ban thưởng trước Ngôi Ngài, và sẽ được đồng trị cùng Ngài: “22Như trong Ađam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại, 23nhưng mỗi người theo thứ tự riêng của mình: Đấng Christ là trái đầu mùa; rồi tới ngày Đấng Christ đến, những kẻ thuộc về Ngài sẽ sống lại.” (1Cô. 15:22-23) “48Người thuộc về đất thể nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy; người thuộc về trời thể nào, thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. 49Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời” (1Cô. 15:48-49) “Đấng đã khiến Đức Chúa Jêsus sống lại cũng sẽ làm cho chúng tôi sống lại với Đức Chúa Jêsus, và làm cho chúng tôi ứng hầu với anh em trước mặt Ngài.” (2Cô. 4:14) “Khi Đấng làm đầu các kẻ chăn chiên hiện ra, anh em sẽ được mão triều thiên vinh hiển, chẳng hề tàn héo.” (1Phi. 5:4) Vì vậy, niềm tin và sự trông cậy của chúng ta trong khi theo Chúa phải là “sự sống đời đời”: “Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết.” (1Cô. 15:19) IV. “ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA” ĐỂ Ở TRONG CHÚNG TA Niềm tin và sự trông cậy là chỗ dựa cho đức tin của một cá nhân chứ không phải là xúc cảm của cá nhân ấy. Việc “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” là Lẽ Thật mà chúng ta tin nhận chứ không phải là xúc cảm mà chúng ta tri giác được. “Tin” (điều gì) là kết quả của nhận thức, còn “xúc cảm” (về điều gì) là kết quả của tri giác: “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy.” (Hê. 11:1). Chúng ta tin nhận rằng Đức Chúa Trời hiện vẫn đang ở cùng chúng ta trong chúng ta theo lời phán của Ngài trong Kinh Thánh chứ không phải vì chúng ta “cảm nhận” được bằng sự tri giác bất toàn của bản chất người đã bị sa bại mà chúng ta hiện đang có: “…Chúng ta là đền thờ của Đức Chúa Trời hằng sống, như Đức Chúa Trời đã phán rằng: Ta sẽ ở và đi lại giữa họ; Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ, và họ làm dân Ta.” (2Cô. 6:16) “Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.” (Ma. 28:20b) Đức Chúa Trời đã “ở cùng chúng ta” trong nhân trạng Đức Chúa Jêsus, Ngài đã chịu chết trên Thập Tự Giá để đền tội thay cho chúng ta, Ngài đã phục sinh để bảo đảm cho sự sống đời đời của chúng ta, và Ngài đang “ở cùng chúng ta” trong chúng ta bởi Thân Vị Đức Thánh Linh, Ngôi Ba của Đức Chúa Trời Ba Ngôi: “Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên Ủi khác, để ở với các ngươi đời đời.” (Gi. 14:16) “Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời.” (Rô. 8:16) Đức Thánh Linh hiện đang ở cùng chúng ta trong chúng ta để mục vụ cho chúng ta trên nhiều phương diện khác nhau nhưng tựu trung là để cho chúng ta có năng lực vâng theo sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh: “Nhưng Đấng Yên Ủi, tức là Đức Thánh Linh mà Cha sẽ nhân danh Ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều Ta đã phán cùng các ngươi.” (Gi. 14:26) Đức Chúa Jêsus đã giáng sinh trong trần gian này. Chúng ta đã có được Ngài qua việc ăn năn tội, tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa của đời sống chúng ta, và nhờ đó chúng ta đã nhận được sự cứu rỗi mà Ngài đã hoàn thành trên Thập Tự Giá cho người tin Ngài. Nhưng Đức Chúa Jêsus cũng đã phục sinh để bảo đảm cho sự sống đời đời của chúng ta là mối tương giao thuộc linh mật thiết giữa chúng ta với Ngài. Chúng ta cũng cần phải có được một sự quả quyết như Sứ Đồ Phaolô rằng“10…tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, 11mong cho tôi được sống lại từ trong kẻ chết.” (Phil. 3:10-11). Đức Chúa Trời vẫn đang “ở cùng chúng ta” bởi Thánh Linh của Ngài để “dạy dỗ” chúng ta mọi điều theo ý chỉ Thiên Thượng đã được khải thị trong Kinh Thánh, thế nhưng mỗi ngày, trong tất cả mọi điều, chúng ta có quả quyết được rằng “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi,_Ánh sáng cho đường lối tôi.” (Thi. 119:105) hay không? “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” là Lẽ Thật căn bản của mọi Lẽ Thật Cơ Đốc; Ngài ở cùng chúng ta để Ngài có thể có được chúng ta và nhờ đó mà chúng ta có Ngài; phận sự của chúng ta là phải biến sự tin nhận này thành hiện thực trong đời sống chúng ta bằng sự vâng lời chứ không phải chỉ là một sự cảm nhận theo cảm xúc. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HÃY CHỊU KHỔ VÌ DANH CHÚA!” (1Phi. 4:12-19) “Vậy những kẻ chịu khổ theo ý muốn của Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín.” (1Phi. 4:19) Malcolm Muggeridge, một nhà hoạt động Cơ Đốc được xem là có tài hùng biện “như các vị Sứ Đồ”, đã nhìn nhận như thế này: “Tôi có thể nói hoàn toàn thực lòng rằng tất cả những gì tôi đã học được trong quãng đời 75 năm trên đời này của tôi, những gì đã thực sự thăng tiến và soi sáng cho vốn sống của tôi, tất cả đều đã được đến từ nỗi đau chứ không phải từ niềm vui”. Chính qua nỗi đau và sự chịu khổ mà những bài học lớn nhất cho cuộc sống đã được chắt lọc, tích lũy. Chính những nhà giảng luận bậc thầy trong thế giới Cơ Đốc Giáo đã xác nhận điều ấy. Samuel Rutherford cho biết rằng khi mình phải ở trong hố sâu của những sự khổ đau thì đó cũng chính là lúc ông thấy như được ở trong những gian hầm lớn chứa vô số mỹ tửu của một hoàng đế thịnh vượng. Một nhà giảng luận Báptít nổi tiếng, Charles Spurgeon, nói: “Chỉ những ai đã từng lặn lội trong các vùng biển khổ đau mới có thể đem về được những viên ngọc quí”. Sứ Đồ Phierơ khích lệ chúng ta hãy vui mừng giữa khi chịu khổ bằng cách nhìn vào một viễn cảnh tươi sáng hơn là hoàn cảnh đen tối hiện thời. Dầu hiện tại trông có vẻ đen tối, vẫn có một tương lai xán lạn ở phía sau những gì chúng ta đang trông thấy và cảm nhận. Trong mạch văn của phân đoạn Kinh Thánh này, Sứ Đồ Phierơ giải thích cho sự chịu khổ bằng cách trả lời câu hỏi “Tại sao?”. Thật vậy, mỗi khi phải chịu bắt bớ vì danh Đức Chúa Jêsus, chúng ta đều hỏi “Tại sao?”. Đó là một câu hỏi có ích, chúng ta cần phải biết đích điểm của việc chịu khổ vì làm một chứng nhân kiên định cho Tin Lành của Đức Chúa Trời là gì? A. Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI Câu trả lời cho câu hỏi “Tại sao chúng ta phải chịu khổ?” có thể được tìm thấy ngay trong 1Phi. 4:19: “Vậy những kẻ chịu khổ theo ý muốn của Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín.”. Dầu rằng thoạt đầu trông có vẻ khó hiểu, nhưng chúng ta rất dễ nhận ra rằng ấy chính là theo ý muốn của Đức Chúa Trời mà mỗi một người chúng ta phải chịu đựng các nỗi đau trên bước đường theo Chúa. Sự đau khổ không những được Đức Chúa Trời cho phép xảy đến trong đời sống của chúng ta, nó còn được Đức Chúa Trời sử dụng để hoàn thành chương trình và mục đích của Ngài. Thế nhưng, tại sao Đức Chúa Trời lại dùng việc chịu khổ? “12Hỡi kẻ rất yêu dấu, khi anh em bị trong lò lửa thử thách, chớ lấy làm lạ như mình gặp một việc khác thường. 13Nhưng anh em có phần trong sự thương khó của Đấng Christ bao nhiêu, thì hãy vui mừng bấy nhiêu, hầu cho đến ngày vinh hiển của Ngài hiện ra, thì anh em cũng được vui mừng nhảy nhót. 14Ví bằng anh em vì cớ danh Đấng Christ chịu sỉ nhục, thì anh em có phước; vì sự vinh hiển và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đậu trên anh em.” (1Phi. 4:12-14) I. VIỆC CHỊU KHỔ THANH TẨY VÀ TINH LUYỆN ĐỨC TIN CHÚNG TA 1. Chịu Khổ Như Trải Qua Thử Thách Sứ Đồ Phierơ gọi việc chịu khổ là “lò lửa thử thách” (C. 12 > Gk. purosis: đốt để tinh luyện). Một sự thử thách có thể là một sự cám dỗ, mà cũng có thể là một cuộc thử nghiệm. Sự cám dỗ nhằm mục đích làm sụp đổ đức tin của chúng ta. Ngược lại, cuộc thử nghiệm là nhằm làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Như chúng ta đã biết, Đức Chúa Trời không cám dỗ ai cả: “Chớ có ai đương bị cám dỗ mà nói rằng: Ấy là Đức Chúa Trời cám dỗ tôi; vì Đức Chúa Trời chẳng bị sự ác nào cám dỗ được, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Gia. 1:13). Không bao giờ Đức Chúa Trời muốn làm cho chúng ta phạm tội. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cho phép sự chẳng lành đến với chúng ta như một sự thử nghiệm để luyện lọc, tinh chế đức tin của chúng ta. Chúng ta có thể thấy điều này nghiệm đúng trong trường hợp của Ađam và Êva, Gióp, cũng như trong việc Đức Chúa Jêsus chịu cám dỗ trong đồng vắng. Mặc dầu Đức Chúa Trời không phải là nguồn gốc của sự cám dỗ, Ngài vẫn cho phép sự cám dỗ xảy ra như một phương tiện để tinh luyện đức tin của Dân Ngài. Thực tế ấy cũng được Sứ Đồ Phierơ bày tỏ trong một nơi khác: “6Anh em vui mừng về điều đó, dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã ít lâu; 7hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa Jêsus Christ hiện ra” (1Phi. 1:6-7). Sự thử nghiệm làm cho chúng ta phải buồn khổ, nhưng đó là điều cần thiết vì chỉ qua thử nghiệm chúng ta mới biết đức tin của mình có thật hay không. Qua thử nghiệm, chúng ta tỏ cho thấy đức tin của mình ra sao là điều bảo đảm cho sự vinh hiển tương lai và đời đời của chúng ta. Như vậy, việc chịu khổ được sử dụng theo ý muốn của Đức Chúa Trời như một phương tiện tinh luyện cho đức tin. Đức Chúa Trời dùng việc chịu khổ cho chúng ta tự chứng đức tin của mình. Kim loại phải được tinh luyện bằng nhiệt độ cao thế nào thì đức tin của chúng ta cũng cần được thử nghiệm trong lửa chịu khổ thế ấy. 2. Chịu Khổ Như Hậu Quả Của Tội Lỗi Tuy nhiên, không phải tất cả các sự chịu khổ đều theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Có nhiều việc chịu khổ không phải do Đức Chúa Trời gửi đến để tinh luyện đức tin của chúng ta mà là do chúng ta chuốc lấy vì thiếu sự toàn tín đối với Ngài. “Trong anh em chớ có ai chịu khổ như kẻ giết người, như kẻ trộm cướp, như kẻ hung ác, như kẻ thày lay việc người khác.” (1Phi. 4:15) Lời của Sứ Đồ Phierơ chỉ ra cho chúng ta thấy còn có nhiều nguy cơ khác khiến chúng ta phải chịu khổ, và tất cả các nguy cơ ấy đều là hậu quả của tội lỗi. Lời Kinh Thánh chỉ rõ rằng chẳng phải tất cả những gì chúng ta phải nếm chịu đều thuộc về trận chiến thuộc linh. Cơ Đốc Nhân được kêu gọi hãy chịu khổ vì làm điều đẹp ý Đức Chúa Trời (1Phi. 4:19), và chỉ để làm điều đẹp ý Đức Chúa Trời mà thôi (Sv. Công. 4:19; 5:29). Như vậy, mỗi người cần phải hết sức thận trọng trong công việc của mình để khỏi làm ô nhục sự chịu khổ của Đức Chúa Jêsus và các thánh đồ của Ngài. II. VIỆC CHỊU KHỔ LÀM VINH HIỂN ĐỨC CHÚA TRỜI Mục đích thứ hai của việc chịu khổ của Cơ Đốc Nhân là làm vinh hiển cho Đức Chúa Trời: “Nhưng nếu có ai vì làm tín đồ Đấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn; thà hãy vì danh ấy ngợi khen Đức Chúa Trời là hơn.” (1Phi. 4:16) Hãy chú ý lời của Tiên Tri Êsai: “9Ta vì danh mình mà tạm nhịn giận Ta; vì sự vinh hiển mình mà nhịn nhục đối với ngươi, đặng không hủy diệt ngươi. 10Nầy, ta luyện ngươi, nhưng không phải như luyện bạc; Ta đã thử ngươi trong lò hoạn nạn. 11Ấy là vì Ta, một mình Ta, mà Ta sẽ làm điều đó; vì Ta há để nhục danh Ta sao? Ta sẽ chẳng nhường sự vinh hiển Ta cho thần nào khác.” (Ês. 48:9-11) Theo ý muốn của Đức Chúa Trời, sự chịu khổ của chúng ta làm vinh hiển Ngài. Chúng ta không thể nào làm vinh hiển Chúa khi chúng ta làm sai, nhưng một khi vì ý muốn của Đức Chúa Trời mà chúng ta phải chịu khổ thì chúng ta làm vinh hiển Ngài. Bằng sự chịu khổ, chúng ta làm cho danh Ngài hiển hiện ra giữa thế giới này. Làm sáng danh Đức Chúa Trời là mục đích tối hậu mà ai nấy đều phải ra sức thực hiện cho được: “Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen.” (1Phi. 4:11). Khi vì cớ Đức Chúa Jêsus mà chúng ta trung tín chịu khổ, chúng ta làm cho vinh hiển danh Đức Chúa Trời. III. PHẢI CHỊU KHỔ VÌ SỰ PHÁN XÉT ĐƯỢC KHỞI TỪ NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI Lý do thứ ba khiến Đức Chúa Trời để cho Dân Ngài chịu khổ được tìm thấy trong câu 17: “Vì thời kỳ đã đến, là khi sự phán xét sẽ khởi từ nhà Đức Chúa Trời; vả, nếu khởi từ chúng ta, thì sự cuối cùng của những kẻ chẳng vâng theo Tin Lành của Đức Chúa Trời sẽ ra thế nào?” (1Phi. 4:17) Đây là một câu hỏi không kém phần quan trọng: “Vì sao hiện nay lại là thời kỳ đang có sự phán xét đối với gia đình Đức Chúa Trời? Đã là người nhà của Đức Chúa Trời, tại sao các Cơ Đốc Nhân lại còn phải chịu phán xét? Bản chất của sự phán xét ấy là như thế nào?” Sự phán xét mà Sứ Đồ Phierơ nhắc đến ở đây không phải là sự phán xét đời đời dành cho những người không tin khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. Sự phán xét được nói đến ở đây là sự phán xét nhất thời để củng cố cho Hội Thánh vững mạnh trước khi Đức Chúa Jêsus trở lại để đón nhận. Sự phán xét mà Sứ Đồ Phierơ nhắc đến không phải là một tai họa cho Hội Thánh. Trái lại, tai họa là ở chỗ Hội Thánh không biết tự chuẩn bị mình cho sự chịu khổ phải có trước khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. Đó đây vẫn còn khá nhiều người cho rằng đời sống theo Chúa là một đời sống an nhàn, không cần phải trả giá, không cần phải tự chuẩn bị mình để được hoàn thành sự cứu rỗi,… Đời sống theo Chúa không phải là một cuộc phiêu lưu vô định với những diễn biến bất định: “Vả, trong các ngươi có ai là người muốn xây một cái tháp, mà trước không ngồi tính phí tổn cho biết mình có đủ của đặng làm xong việc cùng chăng sao?” (Lu. 14:28) Đời sống theo Chúa không phải là không có giá phải trả: “Ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta” (Ma. 10:38). Đời sống theo Chúa là một cuộc kinh nghiệm quyền năng đắc thắng của Đức Chúa Trời qua mỗi ngày, trong từng việc: “Nếu ai muốn theo Ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo Ta.” (Lu. 9:23) Trong những năm 1930 ở Nga, làm thành viên tích cực của Hội Thánh đồng nghĩa với việc trở thành một kẻ phản động đối với chế độ. Kinh Thánh đã từng bị ráo riết tịch thu, và nhiều tín hữu đã phải bỏ mình chỉ vì không chịu từ bỏ niềm tin. Một ngày kia, giữa khi một nhóm tín hữu tư gia đang nhóm lại với nhau thì có một tốp lính đến. Biết trong nhà có nhiều người đang nhóm lại, họ đứng bên ngoài và thông báo cho biết rằng họ là lính của Nhà Nước; họ cho phép mọi người có 5 phút để được rời khỏi địa điểm trước khi họ vào nhà. Chỉ trong vòng vài phút đầu tiên, hơn một nửa số người đang nhóm đã vội vàng bỏ đi. Số còn lại đang hoang mang, túm tụm lại với nhau ở một góc nhà, thiết tha cầu nguyện… Hết hạn 5 phút, tốp lính bước vào nhà. Họ chào những người còn lại, ngỏ ý cho biết muốn được có một dịp thờ phượng trong sự an toàn, không có mặt những tín hữu dễ bị dao động… Trên một phương diện, sự phán xét của Đức Chúa Trời dành cho gia đình Ngài là để cho Dân Ngài “Khỏi bị án làm một với người thế gian” (1Cô. 11:32) vì “Nếu người công bình còn khó được rỗi, thì những kẻ nghịch đạo và có tội sẽ trở nên như thế nào?” (1Phi. 4:18) B. SỰ ĐÁP ỨNG CỦA CHÚNG TA Nếu đã biết việc chịu khổ vì danh Chúa là theo ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta cần phải quyết tránh những điều không nên làm, và phải quyết làm những điều không nên tránh: I. NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÊN LÀM Trên phương diện thụ động, có những việc không nên làm: 1. Thứ nhất, “Chớ Lấy Làm Lạ” (C. 12) “Lấy làm lạ” là ngạc nhiên hay bối rối. Chúng ta không ngạc nhiên về việc chịu khổ trong đời sống Cơ Đốc khi chúng ta đã biết trước rằng có một cái giá phải trả cho đời sống theo Chúa và đã tự chuẩn bị mình về việc ấy (Sv. Lu. 14:28; Ma. 10:38). Chúng ta cũng sẽ không bối rối khi đã biết chấp nhận giá phải trả, và biết nương cậy Chúa để làm trọn phần việc được giao của mình (Sv. Lu. 9:23). 2. Thứ hai, “Đừng Hổ Thẹn” (C. 16) Một khi biết được rằng việc chịu khổ trong đời sống theo Chúa sẽ làm cho vinh hiển Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ thôi không còn chịu ảnh hưởng bởi sự phê phán của thế gian nữa. Buồn sẽ được đổi làm vui một khi ý nghĩa đã được nhận thức. Chúng ta sẽ được khích lệ nhiều bởi lời của Sứ Đồ Phaolô: “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (1Cô. 15:58). Chúng ta sẽ xem lời gièm chê của thế gian này là vô nghĩa vì “Họ thấy anh em chẳng cùng họ theo sự dâm dật bậy bạ ấy, thì họ lấy làm lạ và gièm chê” (1Phi. 4:4). II. NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÊN TRÁNH Tích cực hơn, Cơ Đốc Nhân chân chính phải làm những điều không nên tránh: 1. Thứ nhất, “Hãy Vui Mừng” (C. 13) Thông thường, khi đối diện với sự chịu khổ, chúng ta dễ bị co rúm trong sự đau đớn của hoàn cảnh hiện tại, chúng ta bị hiện trạng làm che lấp mất viễn cảnh. Thay vì dùng thực trạng để làm vinh hiển Đức Chúa Trời, chúng ta dễ bị rơi vào chỗ để cho thực trạng cuốn hút chúng ta vào một tiến trình ngày càng bi đát. Điều chúng ta đáng nên làm là phải vui mừng vì biết rằng nhờ sự chịu khổ: (1) Chúng ta giữ được đức tin và sẽ được hưởng tương lai vinh hiển mà Đức Chúa Jêsus sẽ đem đến cho chúng ta khi Ngài trở lại (C. 13); (2) Chúng ta được thông công với sự thương khó của Đức Chúa Jêsus và của các thánh đồ trong quyền phép của Đức Thánh Linh (C. 14). Một vị Mục Sư đã từng chịu nhiều sự tra tấn, bắt bớ dưới thời của Nicholae Ceausescu ở Romania ghi lại như thế này: “Sự liên hiệp với Đức Chúa Jêsus là một sự kiện đẹp nhất trong đời sống Cơ Đốc. Sự liên hiệp với Chúa nói lên rằng tôi không phải chỉ là tôi trên thế gian này mà tôi là cánh tay nối dài của Đức Chúa Jêsus. Khi tôi vì Ngài mà chịu tra tấn, hành hạ thì đó là lúc Ngài chịu tra tấn, hành hạ trong xác thân tôi. Sự chịu khổ của tôi không còn là của riêng tôi nữa. Tôi chỉ là công cụ để tôn cao và chia sẻ sự chịu khổ của Đức Chúa Jêsus mà thôi”. Sự vui mừng trong tương lai của các Cơ Đốc Nhân sẽ tỷ lệ thuận với những nỗi đau vì danh Chúa trong hiện tại: “11Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi điều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. 12Hãy vui vẻ và nức lòng mừng rỡ, vì phần thưởng các ngươi ở trên trời sẽ lớn lắm…” (Ma. 5:11-12). 2. Thứ hai, “Hãy Cứ Làm Lành” (C. 19) Làm lành là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, vì “Chỉ có một Đấng Nhân Lành, là Đức Chúa Trời” (Mác 10:18). Làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời là tiêu chuẩn để nhận biết một người có thuộc về Đức Chúa Jêsus hay không: “Hễ ai làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời, thì người đó là anh em, chị em Ta, cùng là mẹ Ta vậy” (Ma. 12:50). Việc làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời là sự biểu hiện cao độ và tập trung của đời sống Cơ Đốc. Chính vì thế mà nguyên tắc hành động của Cơ Đốc Nhân mọi thời đại là “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” (Công. 5:29) cho dầu giá phải trả là sự chịu khổ hay bất cứ điều gì. Sự chịu khổ của Cơ Đốc Nhân trên thế gian này không phải là một điều ngẫu nhiên mà là theo mục đích của Đức Chúa Trời. Sự chịu khổ vì danh Chúa của những người kính yêu Ngài là phổ quát vì “Hết thảy mọi người muốn sống cách nhơn đức trong Đức Chúa Jêsus Christ, thì sẽ bị bắt bớ” (2Ti. 3:12). Sự chịu khổ của các Cơ Đốc Nhân cũng không phải là một công việc riêng tư của từng người mà là một sự liên hiệp giữa mỗi người tin với chính Ba Ngôi Đức Chúa Trời đến nỗi họ “Được biết Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài…” để rồi “Nên giống như Ngài trong sự chết Ngài”, và rồi sẽ “Được sự sống lại từ trong kẻ chết” (Phil. 3:10-11). Mọi Cơ Đốc Nhân chân chính đều không ngại chịu khổ, họ tin chắc vào lời hứa của Đức Chúa Trời: “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em chịu cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (1Cô 10:13). Tin, và trung tín trong sự mình đã tin, chúng ta có thể đồng thanh cùng thánh đồ của mọi thời đại rằng “Vậy những kẻ chịu khổ theo ý muốn của Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín” (1Phi. 4:19). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐỂ TRỪNG PHẠT HAY ĐỂ ĐƯỢC TÔN VINH HIỂN?” (Gi. 9:1-3Gi. 9:1-3) “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Đó chẳng phải tại người hay tại cha mẹ đã phạm tội; nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người.” (Gi. 9:3) Trong vài tuần đầu sau thảm họa ‘Tsunami Ấn Độ Dương’, trên một số kênh truyền hình có mục thảo luận về đề tài “Vì Sao Đức Chúa Trời Cho Phép Thảm Họa Tsunami Xảy Ra?”. Có cả các Cơ Đốc Nhân lẫn những người vô thần tham gia vào việc thảo luận. Một vị nữ Cơ Đốc Nhân phát biểu một cách đầy tin tưởng rằng “Chính cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời đã trút đổ trên các nạn nhân ấy”. Người ta tường thuật rằng các nhà lãnh đạo Hồi Giáo ở Indonesia cũng đã giảng dạy cho các tín đồ Hồi Giáo ở đó rằng thảm họa ‘Tsunami’ ấy xảy đến là vì tội lỗi của họ. Đã có hơn 220.000 người bị thiệt mạng trong thảm họa ‘Tsunami Ấn Độ Dương’. Vậy có phải đây thực sự là một sự trừng phạt của Đức Chúa Trời hay không? Những người vô thần nói rằng chính ‘Tsunami’ cho thấy được rằng không hề có Đức Chúa Trời nào cả. Theo họ, không thể có một “Đức Chúa Trời Yêu Thương” nào lại có thể cho phép một thảm họa bi thảm đến thế xảy ra. Thế nhưng, trong cương vị Cơ Đốc Nhân, từ Lời Kinh Thánh trong Gi. 9:1-3, chúng ta có thể nhận được nhiều sự dạy dỗ hơn. I. MỌI LOẠI THẢM HỌA, ĐAU KHỔ,… ĐỀU LÀ HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI NGUYÊN THỦY Chúng ta không hề có ý muốn nói rằng các nạn nhân của ‘Tsunami Ấn Độ Dương” là những người hoàn toàn vô tội vì “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô. 3:23), và “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô. 6:23). Điều chúng ta muốn nói, ấy là rất có thể Đức Chúa Trời cho phép thảm họa này xảy đến để cho công việc của Ngài được bày tỏ ra. Một trong những câu hỏi mà người ta thường nêu ra là “Nếu Đức Chúa Trời đang tể trị và toàn năng, tại sao Ngài lại để cho nhiều người sinh ra phải chịu khuyết tật, hoặc phải chịu thiên tai khủng khiếp?”. Chúng ta tin rằng những gì đã xảy ra trong vườn Êđen giải đáp được cho câu hỏi ấy. Khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên trời đất, mọi sự đều hoàn hảo. Đức Chúa Trời đã đặt để cho con người địa vị cao hơn hết trong muôn loài thọ tạo của Ngài. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cũng đã ban cho con người một sự chọn lựa. Tại sao Đức Chúa Trời lại đặt “Cây Biết Điều Thiện Và Điều Ác” ở giữa vườn? Mọi việc trên thế gian này có vẻ như sẽ được tốt hơn nếu khi ấy Đức Chúa Trời đã không làm như thế! Tuy nhiên, Đức Chúa Trời biết rằng, nếu Ngài thực sự được thờ phượng và kính yêu, con người phải có được cơ hội chọn lựa: Chọn theo Ngài, hoặc khước từ Ngài. Vì thế, Đức Chúa Trời đã thử nghiệm Ađam và Êva bằng “Cây Biết Điều Thiện Và Điều Ác”; và, như chúng ta đã biết, họ đã thất bại trong cuộc thử nghiệm này. Hậu quả của sự thất bại của Ađam và Êva là tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian. Tộ lỗi đã không những ảnh hưởng trên toàn thể nhân loại mà còn lan tỏa sang muôn loài thọ tạo khác, cả động vật, thực vật, khoáng vật, lẫn plasma (plasmat) dầu rằng ban đầu mọi sự đều đã được Đức Chúa Trời tạo dựng trong tình trạng hoàn hảo:“Đức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, và các côn trùng trên đất tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành” (Sáng. 1:25). Lời Kinh Thánh cho biết rằng khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên muôn vật, muôn vật đều hoàn hảo. Tuy nhiên, khi Ađam và Êva phạm tội, tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian và khiến muôn vật trở nên hỗn loạn: Không những chỉ các loài sinh vật mà thôi, tự thân địa cầu này cũng phải vận động theo xu thế thoái hóa, trong đó tất yếu phải có những cuộc địa chấn định hình: “17Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. 18Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; 19ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi” (Sáng. 3:17-19). Hậu quả của tội lỗi nguyên thủy là “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi”(Sáng. 3:17), “Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê”(Sáng. 3:18). Như vậy, nếu tổ phụ của nhân loại không ăn trái cây mà Đức Chúa Trời đã cấm, địa cầu này đã không phải chịu những cơn địa chấn cùng những biến động tàn hại khác. Cuộc địa chấn định hình dẫn đến ‘Tsunami Ấn Độ Dương” ngày 26.12.2004 vừa qua chính là hậu quả của tội lỗi nguyên thủy trong vườn Êđen. “Người Mù Từ Thuở Sanh Ra” được nói đến trong đoạn Kinh Thánh này cũng là hậu quả của tội lỗi nguyên thủy trong vườn Êđen. Và, tội lỗi trong vườn Êđen cũng chính là căn nguyên của mọi loại thiên tai, tật bệnh, khổ đau khác trong thế gian này: “Ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng” (Sáng. 3:18b), “Ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn”(Sáng. 19a). Tội lỗi đem lại khổ đau, một khi tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian này rồi, không một ai tránh thoát đau khổ được. Khuyết tật trong con người hay thiên tai trong thiên nhiên không phải do Đức Chúa Trời tạo ra mà là hậu quả tất yếu của tội lỗi nguyên thủy. Tội lỗi đã khiến thế gian này trở nên một cánh đồng đau thương mênh mông vì “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi”(Sáng. 3:17). Mọi nỗi thống khổ mà nhân loại phải chịu chỉ là sự tất yếu của tất yếu vì “Ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng” (Sáng. 3:18). Nguyên nhân của tai ương, đau khổ là tội lỗi; và tác giả của tội lỗi là Satan. Trách nhiệm về những sự hư hoại và nỗi khốn khổ không thuộc về Đức Chúa Trời. II. ĐỨC CHÚA TRỜI KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI NGUYÊN THỦY Có người nêu lên vấn đề này: Nếu Đức Chúa Trời loại bỏ sự đau khổ, liệu thế gian này có tốt đẹp hơn không? Trong tác phẩm “The Case For Faith” của Lee Strobel, khi được phỏng vấn, vị giáo sư triết học của Đại Học Boston, Tiến Sĩ Peter Kreeft, đã phát biểu như thế này: “Chúng ta biết được rằng tính cách đạo đức vốn được hình thành qua gian khổ, qua việc vượt qua trở ngại, qua việc chịu đựng những nỗi truân chuyên do hiềm thù,… Chẳng hạn, sự can đảm sẽ không có trong một thế giới không hề biết đau đớn là gì. Sứ Đồ Phaolô chứng thực cho phẩm chất được tinh luyện này khi dạy chúng ta rằng ‘Hoạn nạn sanh ra sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh ra sự rèn tập, sự rèn tập sanh ra sự trông cậy’ ”. Nếu không có việc chịu khổ trong thế gian này, chúng ta ắt sẽ không nhận thức được nhu cần phải quay trở lại với Đức Chúa Trời. Nhiều người trong chúng ta dành một sự ngưỡng mộ đặc biệt cho “Mẹ Theresa”, nhưng nếu không có những cảnh khổ ải ở Calcutta, thì cũng không có Theresa. Chính vì những nỗi khổ to lớn của người ở Calcutta mà Theresa đã được cảm thúc để dâng cả cuộc đời mình phục vụ họ. Nếu không có cảnh khổ trong thế giới này, người ta cũng sẽ không thể có được năng lực thấu cảm. Những người cho rằng không hề có Đức Chúa Trời vì có quá nhiều nỗi khổ giáng trên những “nạn nhân vô tội” đã không nhận thức hết vấn đề. Hiển nhiên rằng thảm họa ‘Tsunami’ vừa qua đem đến sự chết chóc, tàn phá ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng, hãy nhìn xem những làn sóng yêu thương vô cùng to lớn của cả thế giới đang trào dâng để cưu mang cho các nạn nhân của ‘Tsunami Ấn Độ Dương”: Phải chăng đó chính là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu thương mà Đức Chúa Trời đã đặt để trong tấm lòng con người là loài vốn được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài? Ngày 20.01.2005, một cơ quan hàng đầu của thế giới đã đưa ra nhận xét rằng “Năm 2004 đã được kết thúc với một thảm họa kinh hoàng nhất trong lịch sử, và năm 2005 đã được bắt đầu bằng những nổ lực cao thượng nhất trong lịch sử nhân loại từ trước cho đến nay”. Chúng ta hãy quay lại suy gẫm về điều Đức Chúa Jêsus phán:“Đó chẳng phải tại người hay tại cha mẹ đã phạm tội; nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người” (Gi. 9:3). 1. Đức Chúa Trời Thấu Hiểu Và Can Thiệp Sự thật là Đức Chúa Trời đã hoàn toàn thấu hiểu nỗi khổ của nhân loại vì Ngài đã chịu khổ cho chúng ta qua Đức Chúa Jêsus. Lời Kinh Thánh cho chúng ta biết điều ấy: “Bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus đã vì mọi người nếm sự chết”(Hê. 2:9). “Vì quả thật không phải Ngài đến vùa giúp các Thiên Sứ, bèn là vùa giúp dòng dõi của Ápraham” (Hê. 2:17). “Vì chúng ta không có Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm chẳng có thể thương cảm sự yếu đuối của chúng ta, bèn có một Thầy Tế Lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội” (Hê. 4:15). Bởi việc Ngài đến giữa vòng nhân loại, và bởi sự thương khó mà Ngài đã từng trải, Đức Chúa Jêsus chẳng những thấu cảm được sự đau khổ của chúng ta mà Ngài còn cùng chung chịu phận người đầy đau khổ với chúng ta nữa. Đức Chúa Trời của chúng ta siêu việt hơn hẳn thần của các tôn giáo khác: Thần của Hồi Giáo là một thần hà khắc, chỉ biết trút đổ sự phẫn nộ lên thế gian; thần của Phật Giáo không phải là một thân vị và không gánh vác cho nỗi đau khổ của nhân loại trong thế gian, không trực tiếp cứu độ mà chỉ đưa ra một học thuyết để “cứu độ”… Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời của chúng ta là Đấng đã sống, đang sống, và sẽ còn chung sống với nhân loại. Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời của chúng ta là Đấng đã trở thành con người: “Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phil. 2:8). 2. Đức Chúa Trời Đáng Được Tôn Vinh Hiển Theo sự bày tỏ của Lời Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đáng được tôn vinh hiển qua sự chịu khổ của chúng ta, vì chính qua sự chịu khổ mà Ngài chữa lành và nâng chúng ta lên những tầm cỡ cao hơn: “3Nào những thế thôi, nhưng chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh ra sự nhịn nhục, 4sự nhịn nhục sanh ra sự rèn tập, sự rèn tập sanh ra sự trông cậy. 5Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rô. 5: 3-5) “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định”(Rô. 8:28) Chúng ta đã từng kinh nghiệm được rằng từ sự chịu khổ bền lòng mà biết bao điều tốt đẹp đã đến trên đời sống của chúng ta trong bước đường theo Chúa. Chúng ta cũng tin chắc rằng thảm họa đau thương bởi ‘Tsunami Ấn Độ Dương’ cũng sẽ đem đến nhiều điều làm cho vinh hiển Đức Chúa Trời. Trong những năm 1950, lúc Jim Elliot còn đang là sinh viên tại đại học Wheaton, ông nhận được sự kêu gọi đến làm giáo sĩ cho người da đỏ Auca, một bộ tộc còn ở trong tình trạng của thời kỳ đồ đá ở Ecuador. Tháng Giêng năm 1956, Elliot cùng bốn người đồng hành khác đáp xuống bờ sông Curaray, miền Đông Ecuador. Hôm ấy, họ đã có được một vài cuộc tiếp xúc thân thiện với bộ tộc đã từng giết nhiều công nhân của Công Ty Shell này. Tuy nhiên, chỉ hai ngày sau, cả Jim Elliot cùng bốn người bạn đồng hành đã ngã gục dưới ngọn giáo của người da đỏ Auca. Jim Elliot chắc chắn đã hoàn toàn bình an trong sự chết của mình vì ông đã từng nói rằng “Người ta chẳng dại dột chút nào hết khi biết cho đi cái không thể giữ để nhận được cái không thể mất”. Thế nhưng, làm thế nào Đức Chúa Trời có thể được tôn vinh hiển qua cái chết của năm con người này là những người muốn làm một điều gì đó tốt đẹp trong danh của Ngài? Một thời gian sau, Elisabeth Elliot, người vợ góa của Jim Elliot, đã tìm đến với bộ tộc đã giết chồng mình. Elisabeth Elliot đã sống với người Auca, đã bền lòng chia sẻ Tin Lành với họ, và cuối cùng đã chinh phục được bộ tộc này về cho Đức Chúa Jêsus. Trong số những người đầu tiên tiếp nhận Tin Lành có cả người đã từng cầm giáo đâm chết chồng của Elisabeth Elliot. Đến đây, chúng ta thấy hiển nhiên là Đức Chúa Trời đã được tôn vinh hiển qua thảm kịch này! Chúng ta tin rằng, trong một cách tương tự, Đức Chúa Trời sẽ dùng thảm họa ‘Tsunami Ấn Độ Dương’ - vốn là một thảm kịch của tội lỗi, không phải của Ngài - để cứu nhiều người Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan,… về với Chúa Cứu Thế Jêsus! Người mù trong đoạn Kinh Thánh này vì mù mà được đến với Đức Chúa Jêsus như thế nào thì những người vì chịu thảm cảnh, biết đổi lòng, cũng sẽ được Chúa Cứu Thế Jêsus cứu về thể ấy. Người mù này không phải chỉ được chữa lành thuộc thể mà còn nhận được sự chữa lành thuộc linh nữa: “Người thưa rằng: Lạy Chúa, tôi tin; bèn sấp mình xuống trước mặt Ngài” (Gi. 9:38). Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta có sự hy vọng khi đối đầu với nghịch cảnh: “18Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta. 19Thật thế, muôn vật ước ao nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được tỏ ra. 20Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không, chẳng phải tự ý mình, bèn là bởi cớ Đấng bắt phục. 21Muôn vật mong rằng mình cũng sẽ được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát, đặng dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời. 22Vì chúng ta biết rằng muôn vật đều than thở và chịu khó nhọc cho đến ngày nay; 23không những muôn vật thôi, lại chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở trong lòng, đang khi chúng ta đợi sự làm con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy” (Rô. 8:18-23). Niềm hy vọng này cần phải được chúng ta chia sẻ cho tất cả những ai đang ở trong tai ương, hoạn nạn, đau khổ,… vì đó là ý muốn của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Người mù trong đoạn Kinh Thánh này đã được Đức Chúa Jêsus làm cho sáng mắt; chúng ta hãy cầu xin Đức Chúa Trời sớm cung cấp những sự cần dùng cho những người vì thiên tai mà mất hết nhà cửa, mùa màng,… Người mù trong đoạn Kinh Thánh này đã được Đức Chúa Jêsus chữa lành thuộc linh; chúng ta cũng tin và hãy cầu xin Đức Chúa Trời sẽ cứu các nạn nhân của ‘Tsunami Ấn Độ Dương’ về với Ngài gấp nhiều lần hơn là số người đã bị tử vong! Chúng ta đang sống bình an ở đây, không chịu hậu quả của ‘Tsunami’; nhưng không phải vì thế mà chúng ta không có sự đau thương, tai ương. Điểm lại thời gian qua, chúng ta thấy được rằng mình cũng đã phải trải qua không ít điều bất như ý. Thế nhưng, khi đếm những ơn phước của Chúa đã ban trên đời sống của mình, chúng ta có một sự tổng kết giống như người mù đã kinh nghiệm được ơn chữa lành của Chúa: “Tôi đã mù mà bây giờ lại sáng” (Gi. 9:25). Chúng ta đã phải trải qua tai ưong, hoạn nạn, mất mác, thiếu thốn, ngộ nhận, buồn giận,… nhưng rồi tất cả đều đã qua, mọi sự đều đã được tốt đẹp hơn trong ơn Chúa. Không có hố sâu nào sâu hơn tình yêu của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Ngài can thiệp để khắc phục hậu quả của tội lỗi bằng việc cứu chuộc chúng ta, ở cùng chúng ta, thấu cảm và vùa giúp chúng ta để chúng ta tôn vinh hiển Ngài! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐỂ NGỢI KHEN CHÚA” (Mác 11:1-10) “Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót.” (1Phi. 2:10) Có truyền thuyết kể về một ngôi làng nhỏ ở Tây Ban Nha. Dân làng được biết nhà vua sẽ đến thăm. Đã từ hàng ngàn năm nay, chưa bao giờ có chuyện đức vua ngự giá đến thăm làng này. Do đó, khi nhận được tin, ai nấy đều rất hân hoan. Được hứng khởi, họ bàn với nhau: “Chúng ta phải tổ chức một cuộc đón rước thật trọng thể!”, và họ đều đồng ý với nhau như thế. Tuy nhiên, đây là một làng rất nghèo; khi suy tính lại, họ thấy không thể nào trang trải nổi cho một cuộc đón rước theo ý họ muốn. Vì vậy, họ phải thống nhất với nhau về một lối đón tiếp cổ điển: Vì dân làng ai cũng đều làm rượu để dùng trong gia đình mình, người ta đề xuất việc dựng lên một thùng đựng rượu thật lớn tại bãi sinh hoạt của làng để mỗi người sẽ mang một cốc rượu lớn và ngon nhất của gia đình đến nhập vào thùng ấy làm của lễ đón tiếp đức vua. Họ nói với nhau: “Chúng ta sẽ đổ chung rượu ngon nhất của mỗi người vào thùng để đón tiếp cho đức vua vui lòng, vì khi Ngài dùng một cốc rượu từ thùng này, thì đó sẽ là cốc rượu của cả làng và là là cốc rượu ngon nhất làng… Chắc chắn đức vua sẽ thích thú, vì ắt là Ngài chưa bao giờ được nếm một loại rượu có hương vị được hòa hợp độc đáo đến như thế”. Trước hôm đức vua ngự đến, hàng trăm người đứng xếp hàng chờ đến lượt nhập rượu góp của mình vào thùng để nghênh đón vị khách tôn quí của họ. Họ hân hoan trèo lên theo một cầu thang, đổ rượu góp của mình vào thùng qua một miệng nhỏ ở nắp thùng, rồi lần lượt đi theo một cầu thang khác để xuống trở lại. Cuối cùng, thùng rượu lớn đã được đổ đầy. Khi đức vua ngự đến, ngài được hộ tống đến bãi sinh hoạt của làng. Người ta dâng cho đức vua một chiếc cốc bằng bạc và xin Ngài hãy tự tay hứng vào vòi thùng để lấy rượu và thưởng thức. Ngạc nhiên thay, khi đức vua nếm rượu, ngài nhận ra đó chỉ là nước lã! Nguyên do là vì mỗi người dân trong làng đều nhủ thầm: “Rượu nhà mình không có nhiều, cần phải để dành mới có mà dùng. Hãy cứ lấy nước lã thay cho rượu đem đến góp vào... Chắc chắn sẽ chẳng ai biết được đâu! Cả một thùng rượu to thế kia thì một cốc nước nhỏ như thế này làm sao ai biết được…”. Vì ai nấy cũng đều nghĩ như nhau, họ đã âm thầm làm cùng một cách như nhau, và kết quả là thay vì được tôn trọng, nhà vua đã bị dân làng thất kính… Bối cảnh được mô tả trong đoạn văn Kinh Thánh này tương phản hẳn với câu chuyện kể trên. Đây chính là thời điểm Đức Chúa Jêsus, Vua của muôn vua, được Dân Ngài tôn cao một cách đặc biệt: Ai nấy đều dâng lên cho Ngài điều tốt nhất mà họ có, đó là sự ngợi khen! Thời điểm được nói đến trong phân đoạn Kinh Thánh này là thời điểm khởi đầu của giai đoạn cuối của chức vụ trên trần gian trong nhân thể giáng sinh của Đức Chúa Jêsus. Chính vào buổi sáng Thứ Sáu của tuần lễ này Đức Chúa Jêsus đã chịu đóng đinh vào thập tự giá; Ngài đã được chôn vào thạch mộ chiều Thứ Sáu ấy và trải qua suốt ngày và đêm Thứ Bảy; cuối cùng, Ngài đã phục sinh vào sáng Chúa Nhật tiếp theo. Hội Thánh Cơ Đốc của Đức Chúa Trời thường gọi tuần lễ kỷ niệm kể từ ngày Chúa Nhật mà Đức Chúa Jêsus vào thành Giêrusalem được mô tả ở đây cho đến ngày Chúa Nhật khi Ngài phục sinh là “Tuần Lễ Thương Khó_Phục Sinh”. Xin đừng quên: Lúc ấy, Dân Ngài đã kỷ niệm “Tuần Lễ Thương Khó_Phục Sinh” bằng sự ngợi khen cá nhân rất ấn tượng: “7Hai người dắt lừa con về cho Đức Chúa Jêsus, lấy áo mình trải trên nó; rồi Ngài cỡi lên. 8Nhiều người trải áo mình trên đường; lại có kẻ rải nhánh cây chặt trong đồng ruộng. 9Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hôsana! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!10Phước cho nước đến, là nước vua Đavít tổ phụ chúng ta! Hôsana ở trên nơi rất cao!” I. PHẢI CÓ Ý THỨC NGỢI KHEN Đây chính là thời điểm kỷ niệm Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua là cuộc lễ lớn nhất của người Do Thái Giáo: Dân Ysơraên ở khắp mọi nơi đều hành hương về Giêrusalem trong dịp lễ trọng thể này để kỷ niệm công việc quyền năng của Đức Chúa Trời đã giải cứu người Do Thái thoát khỏi ách nộ lệ của Ai Cập dưới thời Môise. Đức Chúa Jêsus đã từng “Đi thành nầy đến thành kia, làng nầy đến làng khác, giảng dạy và rao truyền Tin Lành của nước Đức Chúa Trời…” (Lu. 8:1). Cho đến thời điểm này, qua chức vụ của Ngài “Kẻ đui được sáng, kẻ què được đi, kẻ phung được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết được sống lại, Tin Lành đã rao giảng cho kẻ nghèo” (Lu. 7:22). Chuyến trở về lại Giêrusalem lần này là chuyến hành trình cuối cùng của Đức Chúa Jêsus. Ngài đã biết, và cũng đã nói với các môn đồ, những gì sắp sửa xảy ra với Ngài tại đây. Đức Chúa Jêsus đã cho các môn đồ biết Ngài sẽ phải chịu đối đãi ra sao, phải chịu chết như thế nào… Chỉ mới mấy ngày trước đó Ngài đã phán: “Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu. 19:10). Sứ mệnh của Đức Chúa Jêsus là cứu chuộc. Đức Chúa Jêsus phải chịu khổ, chịu chết và sống lại là để cứu chuộc. Thực ra, nguyên nghĩa của “Hôsana” chính là “Đức Giêhôva ôi, xin hãy cứu!” (Thi. 118:25). Phải chăng khi nghe “Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hôsana! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” Đức Chúa Jêsus đã thầm nghĩ: “Phải, chính đó là sứ mệnh của Ta. Các ngươi nói đúng, nhưng các ngươi biết còn ít lắm!”. Hình thức nguyên thủy của “Hôsana” là “Yasha” trong Tiếng Hêbơrơ:“Đức Giêhôva ôi! Xin hãy cứu!_Đức Giêhôva ơi, xin ban cho chúng tôi được thới thạnh” (Thi. 118:25). Hình thức chuyển tự từ “Yasha” trong Tiếng Hêbơrơ sang thành “Hôsana” trong Tiếng Hy Lạp được sử dụng trong các Sách Tin Lành 6 lần khi nói về việc Đức Chúa Jêsus tiến vào thành Giêrusalem như là Đấng Mêsia mà Xachari đã miêu tả (Xa. 9:9), và khi Ngài dẹp sạch Đền Thờ: Ma 21:9 (2lần), 15; Mác 11:9, 10; Gi 12:13. Hình thức dịch nghĩa “Hôsana” cũng thay đổi tùy nơi: Hôsana con vua Đavít! Đáng ngợi khen cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hôsana ở trên nơi rất cao!” (Ma. 21:9) “9Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hôsana! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!10Phước cho nước đến, là nước vua Đavít tổ phụ chúng ta! Hôsana ở trên nơi rất cao!” (Mác 11:9, 10). “Hôsana! Chúc phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến, là vua của Ysơraên!” (Gi. 12:13). Như vậy, đối với các trước giả của các Sách Tin Lành, “Hôsana” là một sự hoan hô, một lời tán tụng nhằm thể hiện sự ngợi khen. Và như vậy, “Hôsana” đã biến nghĩa từ ý nghĩa kêu cầu sang ý nghĩa thốt lên sự vui mừng, chào đón. Tại sao có sự biến nghĩa này? Vì Đức Chúa Jêsus chính là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Chuộc, Ngài đã đến, sự cứu rỗi từ nơi Ngài đã đến. Trở lại với văn cảnh của phân đoạn Kinh Thánh đang được học, dầu đám đông không ý thức rõ được sứ mệnh sắp sửa được hoàn thành của Đức Chúa Jêsus nhưng họ vẫn hòa được hồn mình vào sự ngợi khen Ngài! Tuy nhiên, Đức Chúa Jêsus muốn mọi người biết chính Ngài là Đấng Giải Cứu để họ được giải cứu: “37Hỡi Giêrusalem, Giêrusalem, ngươi giết các Đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần Ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng! 38Nầy, nhà các ngươi sẽ bỏ hoang!39Vì Ta bảo, các ngươi sẽ không thấy Ta nữa, cho đến lúc các ngươi sẽ nói rằng: Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!” (Ma. 23:37-39). Dưới ánh sáng của Kinh Thánh, lời chúc tôn “Hôsana” phải là một lời chúc tôn có ý thức. “Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến” phải là lời Hôsana với đầy đủ ý thức tôn vinh Đấng đến để cứu vì biết mình cần được cứu. Mọi lưỡi sẽ tung hô lời Hôsana ấy trong Ngày Của Chúa: “9Sự ấy đoạn, tôi nhìn xem, thấy vô số người, không ai đếm được, bởi mọi nước, mọi chi phái, mọi dân tộc, mọi tiếng mà ra; chúng đứng trước Ngôi và trước Chiên Con, mặc áo dài trắng, tay cầm nhành chà là, 10cất tiếng lớn kêu rằng: Sự cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời ta, là Đấng ngự trên ngôi, và thuộc về Chiên Con” (Khải. 7:9-10). “Sự đó đoạn, tôi nghe ở trên trời như có tiếng lớn của lũ đông lắm rằng: Alêlugia! Sự cứu chuộc, vinh hiển, quyền phép đều thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta” (Khải. 19:1). Một sự chúc tôn vô thức rất có thể sẽ là không chúc tôn gì cả. Trong câu chuyện kể về việc dân làng đón nhà vua, họ chỉ có sự cảm thức về việc đón mừng chứ không có một sự ý thức nghiêm túc về nghĩa vụ ấy. Nếu không, người ta tất đã đem rượu ngon nhất mà mình có đến để góp vào chứ không phải chỉ là góp nước lã một cách giả dối như thế. Chính “đám đông” tung hô “Hôsana” để đón mừng Đức Chúa Jêsus vào thành Giêrusalem; nhưng rồi chỉ mấy ngày sau, cũng chính “đám đông”lại điên cuồng gào thét đòi phải đóng đinh Ngài trên thập tự giá; nhiều khi, đám đông chỉ là một thực thể hay dao động, khó tin cậy (Sv. Ma. 27:21-24). Sự chúc tôn vô thức không giúp loại bỏ được sự lăng mạ vô thức. Những người theo Do Thái Giáo đã đóng đinh Đức Chúa Jêsus trên thập tự giá hơn 2000 năm trước đây, nhưng dầu sao họ cũng chỉ là những người chưa được cứu. Chúng ta cần phải thận trọng trong bước đường theo Chúa để tránh không vừa tung hô “Hôsana” đón Ngài lại vừa làm nhục Ngài: “18Tôi đã thường nói điều nầy cho anh em, nay tôi lại khóc mà nói nữa: Lắm người có cách ăn ở như là kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ. 19Sự cuối cùng của họ là hư mất; họ lấy bụng mình làm Chúa mình, và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi” (Phil. 3:18-19). “Hãy tỉnh biết, theo cách công bình, và chớ phạm tội; vì có người không biết Đức Chúa Trời chút nào, tôi nói vậy để anh em hổ thẹn” (1Cô. 15:34). “7Hãy làm cho mình sạch men cũ đi, hầu cho anh em trở nên bột nhồi mới không men, như anh em là bánh không men vậy. Vì Đấng Christ là con sinh Lễ Vượt Qua của chúng ta, đã bị giết rồi. 8Vậy thì, chúng ta hãy giữ lễ, chớ dùng men cũ, chớ dùng men gian ác độc dữ, nhưng dùng bánh không men của sự thật thà và của lẽ thật” (1Cô. 5:7-8). II. PHẢI CÓ ĐỜI SỐNG NGỢI KHEN Đức Chúa Trời đáng được ngợi khen, bản chất và thuộc tính của Ngài khiến sự ngợi khen luôn đi cặp theo, sự ngợi khen luôn luôn sẵn dành cho Đức Chúa Trời, nhất là giữa vòng Dân Ngài: “Còn Chúa là thánh, Ngài là Đấng ngự giữa sự ngợi khen của Ysơraên” (Thi. 22:3). Nếu vì thiếu ý thức mà không có sự ngợi khen bằng môi miệng của con người thì các tạo vật khác của Đức Chúa Trời vẫn cứ không ngừng ngợi khen Ngài: Núi non hùng vĩ, đại dương bao la, vũ trụ vô tận,… Mặt trời, mặt trăng, các vì sao lấp lánh, muôn thú, cỏ cây, hoa lá,… vẫn ngày đêm thầm thì về bản chất và thuộc tính vô song của Đức Chúa Trời. Tạo vật của Đức Chúa Trời vẫn hằng ngợi khen về một Đấng Sáng Tạo Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh. Không gì có thể ngăn được sự ngợi khen đối với Đức Chúa Trời; điều này được tìm thấy qua lời phán của Đức Chúa Jêsus dành cho người Pharisi: “Ta phán cùng các ngươi, nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên” (Lu. 19:40). Theo Chúa, chúng ta phải biết vâng lời Chúa, sống một đời sống đức tin thực hành “Vì nước Đức Chúa Trời chẳng ở tại lời nói, mà ở tại năng lực” (1Cô. 4:20): “21Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước Thiên Đàng đâu; nhưng chỉ kẻ nào làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời mà thôi. 22Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa cùng Ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhân danh Chúa mà trừ quỉ sao? Và lại nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao? 23Khi ấy, Ta sẽ phán rõ cùng họ rằng: Hỡi kẻ làm gian ác, Ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi Ta!” (Ma. 7:21-23). Đoạn văn Kinh Thánh mà chúng ta đang học cho biết rằng đám đông dân chúng không phải chỉ biết tung hô suông mà họ biết trải bày những điều tốt họ có để nghênh đón Đức Chúa Jêsus: “Nhiều người trải áo mình trên đường; lại có kẻ rải nhánh cây chặt trong đồng ruộng” (C. 8). Đó là việc đã diễn ra hơn hai mươi thế kỷ trước, còn chúng ta ngày nay thì sao? Trước hết, cần nên nhận xét rằng dầu dưới hình thức nào thì sự ngợi khen Chúa cũng đều có tính chất là một món quà mà những người biết ơn Ngài muốn dâng lên: “9Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân hánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài. 10Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót” (1Phi. 2:9). Động từ “rao giảng” bằng Tiếng Hy lạp được dùng trong câu Kinh Thánh này (Gk. exaggello) nói về hành động phô bày ra để cho mọi người đều được biết. Sự phô bày ấy có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: Hành vi, cử chỉ, lời nói, chữ viết, các ký hiệu giúp cho việc hát hay múa, các hình tượng biểu đạt văn học, nghệ thuật như kịch nghệ, phim ảnh,… Nói chung là bất cứ hình thái truyền thông nào cũng đều có thể được Dân Chúa sử dụng cả, và đó là phận sự của Dân Ngài. Thế nhưng, điều gì cần phải được “rao giảng”? Đó chính là sự “nhân đức” của Đức Chúa Trời, Đấng đã thương xót mà cứu chuộc để chúng ta được trở nên Dân Ngài. Thật ra, cách hiệu quả nhất cho việc “rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi” chúng ta “ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” chính là việc sống một đời sống thể hiện được những điều ấy: “13Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài. 14Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự, 15hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phil. 3:13-15). Bằng việc trải áo của mình, cũng như “rải nhánh cây chặt được trong đồng ruộng”, người ta muốn tỏ bày thái độ trọng thị như ngày nay người ta trải thảm đỏ để nghênh đón các nguyên thủ quốc gia. Để thực sự tung hô “Hôsana” đón mừng, tán tụng Cứu Chúa yêu dấu, chúng ta đừng làm như dân làng trong câu chuyện kể trên. Đừng bước lên đỉnh cao của cầu thang, đưa tay cầm cốc lên thật tỏ tường, nhưng rồi lại trút nước lã vào thùng! Chúng ta hoàn toàn được phép dùng bông trái của môi miệng để ngợi khen Chúa, nhưng tấm lòng phải chân thật để chúng ta cũng còn có thể tìm được những điều gì đó từ trong đời sống của chúng ta, đem trải ra, dâng lên mà tôn vinh Ngài. Hãy nhắm mắt lại, tưởng tượng Chúa chúng ta lúc này đang cỡi lừa đi trên đường ngoài kia và đang được mọi người tán tụng, tung hô. Biết được như thế, chúng ta ai nấy đều mừng rỡ cùng nhau chạy ra đón Ngài. Ngoài đó, ai nấy đều có ít nhất một điều tốt trải bày ra cho Chúa thấy nhằm làm cho Ngài đẹp ý. Khi đi ngang qua, Chúa nhìn và hỏi mỗi người chúng ta: “Con đã có gì để trải bày ra, đón mừng Ta chưa?” Mỗi người chúng ta sẽ thưa lại với Chúa như thế nào? Trong mùa “Thương Khó_Phục Sinh” này, chúng ta đừng quên: Vốn đã được cứu chuộc, đời sống chúng ta phải là đời sống biết ơn, ngợi khen Ngài; và Ngợi khen Chúa là dâng cho Chúa một lễ vật từ trong chính đời sống của mình. Vâng, xin được có lời kết như thế này: Lễ vật dâng lên Chúa có thể là lời ngợi khen bằng môi miệng nhưng nhất thiết phải có một đời sống ngợi khen vì “Anh em ngày trước không phải là một dân, mà bây giờ là dân Đức Chúa Trời, trước không được thương xót, mà bây giờ được thương xót”. (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐỂ NGHE ĐƯỢC TIẾNG PHÁN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” (Giô. 1:1-9) “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước.” (Giô. 1:6) Chúng ta nghe được tiếng gọi từ phía nào thì sẽ đi về phía ấy. Nếu chúng ta chỉ nghe tiếng nói của xúc cảm mình, chúng ta vẫn cứ còn lang thang trong hoang mạc thuộc linh và là Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng. Trong một tình trạng như thế, chúng ta dễ nghe theo tiếng thì thầm của kẻ thù thuộc linh, và chúng ta sẽ bị lung lạc. Một khi bị cuốn hút vào sự lung lạc, nhất định chúng ta sẽ bị bối rối, mất phương hướng, và nhất định sẽ lạc đường. Chỉ khi nào chúng ta biết thường xuyên nghe theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta mới có đủ dũng khí để làm theo ý muốn của Ngài, thắng vượt được mọi sự bất cập, tiến lên trong chiến thắng và sự chinh phục. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng chúng ta đang ở trong một trận chiến thuộc linh mà chỉ có thể chiến đấu bằng những vũ khí thuộc linh. Để có thể nắm vững chiến lược, chiến thuật, phương án tác chiến, chúng ta cần phải thường xuyên và liên tục giữ liên lạc với vị Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét những gì Đức Chúa Trời phán với Giôsuê để tìm ra bài học cho mình. I. “HÃY ĐỨNG DẬY ĐI” (C. 1-2) Từ đầu Sách Giôsuê, đã có lời phán rằng “Môise, tôi tớ ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả dân sự nầy hãy đứng dậy đi…” (C. 2). Cho đến khi Môise qua đời, Dân Sự vẫn còn mơ hồ về mục tiêu chung của mình là tiến vào Đất Hứa. Tâm trạng phổ biến của Dân Sự là vẫn chưa thấy rõ vì sao họ phải tiếp tục gian nan trong con đường mà Môise đã dẫn họ đi. Đức Chúa Trời không hề có ý định cứ để họ lang thang trong hoang mạc. Thật ra, Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho họ nhiều điều tốt hơn. Đức Chúa Trời đã dành cho họ nhiều điều đáng ước ao hơn là một đời sống đầy truân chuyên, rất đáng chán trong hoang mạc. Tại mọi thời điểm, Dân Chúa đều luôn phải thực hiện một sự chọn lựa: Họ phải quyết định hoặc cứ sống với những gì hiện có hoặc đi theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và sẽ hoàn thành những việc lớn lao theo ý muốn của Ngài. Chúng ta ngày nay cũng vậy. Lệnh truyền rằng “ Hãy đứng dậy đi…” vẫn còn có giá trị đối với chúng ta. Chúng ta phải biết “đứng dậy” khỏi các cảm xúc đang thắng thế của mình. Ngày nay chúng ta cũng phải đứng trước một sự chọn lựa tương tự như sự chọn lựa của Dân Sự ngày xưa. Câu hỏi mà chúng ta phải tự vấn phải là “Liệu chúng ta mới chỉ biết thỏa lòng với những kinh nghiệm mà người khác đã từng có được với Đức Chúa Trời hay chúng ta đang khát khao tự khám phá được những điều gì đó có kết quả trong cõi đời đời? Liệu chúng ta có đang thực sự tiến lên để dành những chiến thắng thuộc linh trong miền Đất Hứa mà Đức Chúa Trời đã dự ứng hay không?” Nếu chúng ta chỉ biết thỏa lòng với hiện trạng thuộc linh của mình, chúng ta phải thấy được hậu quả đáng buồn của việc ấy. Nếu chúng ta chỉ biết giữ nguyên trạng thuộc linh của mình, chẳng trước thì sau chúng ta cũng sẽ rơi vào trạng thái chán nản của Dân Sự ngày xưa khi lang thang trong đồng vắng. Khó có thể hiểu hết được vì sao người ta cứ mãi dậm chân tại chỗ trên phương diện thuộc linh; nhưng chúng ta biết chắc có sự chọn lựa cá nhân trong việc ấy. Nếu chúng ta muốn biết chúng ta đang ở đâu trên phương diện thuộc linh, hãy chú ý những hiện tượng sau đây của việc còn sống trong hoang mạc thuộc linh: (1) Bất An Trong hoang mạc, Dân Sự không hề có nơi ở ổn định. Dân Sự không thể nào biết ngày mai mình sẽ đến đâu, ở đâu. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng sẽ cứ bất an trong thân thể, tâm trí, và tâm linh. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân bình an trong hoang mạc thuộc linh. (2) Bất Mãn Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng thường kêu ca, than phiền Đức Chúa Trời và người chăn bầy của Ngài. Đối với những người này, dầu Đức Chúa Trời cung ứng bao nhiêu cũng không đủ. Các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng luôn phải bận tâm về những lo toan riêng của họ và tỏ ra không đủ sức cho trận chiến thuộc linh. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân thật trong hoang mạc thuộc linh. (3) Không Bông Trái Ngày xưa, Dân Sự đã từng chiến đấu và chiến thắng một số trận chiến nhưng họ đã không dành được lợi thế và lãnh thổ đối với kẻ thù. Những chiến trận của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng hầu như mang đặc trưng của sự manh động hơn là sự chiến đấu, chiến thắng, và chinh phục. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân đầy dẫy bông trái trong hoang mạc thuộc linh. (4) Tiêu Cực Đối với các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng, tính tiến công rất thấp. Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng được tiêu biểu bằng những gì họ không làm: Không hút, không uống, không dự vào,… Đời sống của họ mang tính chất chung chung, có rất ít tính đặc sắc. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng chỉ đáng kể ở những gì họ kiêng giữ chứ không phải ở những gì họ tự thân khám phá được. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân tích cực trong hoang mạc thuộc linh. (5) Dao Động Đem Dân Sự ra khỏi Ai Cập thì dễ nhưng làm cho Ai Cập ra khỏi Dân Sự là một sự thách thức lớn lao. Việc đem những đời sống thiếu phương hướng ra khỏi hoang mạc thuộc linh khá giống với việc ngồi tàu chạy vòng vòng trong công viên. Nếu công việc hanh thông, người ta dễ dàng cảm thấy tự tin, vững vàng. Thế nhưng khi tình hình trở nên xấu, người ta bắt đầu nhớ lại “Xứ Êdíptô, khi còn ngồi kề nồi thịt và ăn bánh chán chê” (Xuất. 16:3). Trên một phương diện, các Cơ Đốc Nhân thiếu phương hướng khá giống với một nhiệt kế cứ khi trồi, khi sụt theo nhiệt độ bên ngoài. Về nguyên tắc, không hề có Cơ Đốc Nhân ổn định trong hoang mạc thuộc linh. Một con tàu nếu cứ bỏ neo đứng yên trong bến cảng thì sẽ được an toàn, nhưng một con tàu không đạp sóng, lướt gió, vượt đại dương thì không còn là một con tàu nữa; và rồi nó sẽ rỉ sét, mục nát một cách vô dụng. Đời sống của các Cơ Đốc Nhân cũng vậy. Đức Chúa Trời có chương trình phong phú cho mỗi Cơ Đốc Nhân tự khám phá. Đức Chúa Trời muốn mỗi người chúng ta “Hãy đứng dậy đi” để tiến vào một xứ “Đẹp đẽ và rộng rãi, đượm sữa và mật” (Xuất. 3:8) chứ không thỏa lòng với trạng thái tiềm sinh thuộc linh trong hoang mạc. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hãy bước ra khỏi sự cầm buộc của cảm xúc để tiến lên phía trước theo đức tin. Ngài muốn đời sống thuộc linh chúng ta có nhiều đức tin và có ít cảm xúc hơn! Ngay cả khi đã có ý thức và quyết định “Hãy đứng dậy đi”, người ta vẫn còn khả năng mắc lỗi “đi giật lùi”. Có quá nhiều vấn vương khiến họ cứ ngoái mặt lại nhìn vào quá khứ nên họ không làm được điều Phaolô đã kinh nghiệm: “Tôi cứ làm một điều: Quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Phil. 3:14). Việc đáp lại mệnh lệnh “Hãy đứng dậy đi” đòi hỏi chúng ta phải có một sự chọn lựa: Chúng ta phải chọn tiến lên phía trước theo tiếng phán của Đức Chúa Trời, và sẽ nhận được quyền năng dẫn dắt không rời của Đức Chúa Trời theo như lời Ngài phán hứa trong Kinh Thánh: “Vậy, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó; và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng sẽ lấy sự đó soi sáng cho anh em” (Phil. 3:15). II. “HÃY VỮNG LÒNG BỀN CHÍ” (C. 3-7) Sau khi Môise qua đời, Đức Chúa Trời cần một người đưa Dân Sự tiến lên phía trước, và người ấy chính là Giôsuê. Giôsuê là một mẫu người không chịu thỏa lòng với việc chỉ ngồi yên trong sự an nhàn. Giôsuê muốn làm một điều gì đó giàu ý nghĩa hơn cho Đức Chúa Trời. Chỗ dựa cho cả Giôsuê lẫn Dân Sự là lời hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời hứa gì cho Dân Sự ngày xưa và cho các Cơ Đốc Nhân ngày nay? Phải chăng Ngài chỉ hứa sự giàu có? Hay chỉ là sự khỏe mạnh? Hay chỉ là quyền năng? Hay là tất cả những điều vừa kể? Để tìm được lời giải đáp, chúng ta phải xem lại Canaan có ý nghĩa như thế nào đối với Dân Sự Đức Chúa Trời: Canaan là sản nghiệp của Dân Chúa, đó là lời Đức Chúa Trời đã hứa với Ápraham và hậu tự Ápraham trong Sách Sáng Thế Ký: “Ta là Đức Giêhôva, Đấng đã dẫn ngươi ra khỏi xứ Urơ, thuộc về xứ Canhđê, để ban cho ngươi xứ nầy làm sản nghiệp” (Sáng. 15:7). Có người giải nghĩa rằng lời hứa này chỉ dành riêng cho Ysơraên, và đã được hoàn nghiệm khi Giôsuê lãnh đạo Ysơraên tiến vào, chinh phục được Canaan. Có người lại cho rằng Canaan là một thực thể trên Thiên Đàng: Sau khi đã trải qua đời này rồi, Dân Chúa mới nhận được xứ ấy. Xứ Canaan là một thực thể địa cầu mà Ysơraên đã chinh phục và sẽ được khôi phục lại cho Ysơraên khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. Sẽ có Giêrusalem mới, vì vậy cũng sẽ có Canaan hiểu theo nghĩa một thực thể Thiên Đàng trong cõi đời đời. Mặt khác, dưới Định Kỳ Ân Điển, Cananan cũng còn là hình bóng của đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh, là đời sống mà Đức Chúa Trời muốn tất cả các Cơ Đốc Nhân phải có. Đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh không phải chỉ dành riêng cho một số người nào mà là cho tất cả các Cơ Đốc Nhân, tức là các thánh đồ của Đức Chúa Trời: “Môise, tôi tớ Ta, đã chết; bây giờ ngươi và cả Dân Sự nầy hãy đứng dậy đi qua sông Giôđanh, đặng vào xứ mà Ta ban cho dân Ysơraên” (C. 3). Động từ sử dụng cho phần cuối của câu Kinh Thánh này ở thì quá khứ: Đã ban. “Xứ” đã được ban cho Ysơraên, giống như đời sống mới trong Đức Chúa Jêsus đã được dành sẵn cho những người tin theo Ngài mà không phụ thuộc vào sức riêng của mỗi người. “Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến, thì Ta ban cho các ngươi, y như Ta đã phán cùng Môise…” (C. 4-6) Hàm ý của những lời phán hứa này là Cơ Đốc Nhân có thể có tất cả những gì họ biết nhận lấy trong và qua Đức Chúa Jêsus. Chúng ta có thể có được mọi chiều kích của sự sống đời đời trong Cứu Chúa của chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ nhận được nhiều hơn những gì vốn sẵn có trong Đức Chúa Jêsus rồi. Như vậy, chúng ta có thể có tất cả những điều đáng mong ước nếu chúng ta biết nhận lãnh; và như vậy, nếu chúng ta còn ở trong một tình trạng chưa xứng hiệp, điều ấy có nghĩa rằng chúng ta không thực sự khát khao có đầy trọn những gì vốn đã được Đức Chúa Trời dành sẵn cho chúng ta. Ngày nay, trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời, không có lý do chính đáng cho các tín hữu phải phân vân, lo lắng nếu họ biết bước đi theo tiếng phán của Đức Chúa Trời bởi sự dắt dẫn của chính Ngài qua các nhà lãnh đạo thuộc linh trong Hội Thánh. Mệnh lệnh “Hãy vững lòng bền chí” dành cho tất cả chúng ta, cả những thuộc viên lẫn các lãnh đạo Hội Thánh. Một em bé đến tham quan tượng đài Tổng Thống Washington, thấy có người lính gác đứng cạnh, em tiến đến nói với người ấy: - Thưa ông, em muốn mua tượng đài này! - “Em có được bao nhiêu tiền”, người lính gác hỏi em bé. - “Ba mươi lăm xu”, em bé trả lời. Nghe nói thế, người lính gác này giải thích: - Em cần phải hiểu ba điều sau đây: (1) Thứ nhất, ba mươi lăm xu không đủ để mua tượng đài này; thật ra, đến ba mươi lăm triệu đôla cũng không đủ để mua. (2) Thứ hai, tượng đài của Tổng Thống Washington cũng không phải dành để bán. Và, (3) thứ ba, nếu em thực sự là một công dân Hoa Kỳ, tượng đài này vốn đã là của em rồi, không cần phải mua! Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, đôi khi chúng ta cũng không nhận thức được một cách đúng đắn mối quan hệ giữa chúng ta với Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Chúng ta chưa biết tin và nhận lấy bằng sự vâng lời Đức Chúa Trời mà vẫn cứ còn xin những điều vốn đã sẵn dành cho chúng ta. Hãy chú ý lời của Sứ Đồ Phaolô trong Kinh Thánh: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời” (Êph. 1:3). Bí quyết để bước đi trong phước hạnh của Đức Thánh Linh chỉ đơn giản là vâng theo lời phán thành văn của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh. Những tấm lòng vâng lời một cách vững lòng bền chí có tác dụng đem lại sự ban cho quyền năng Đức Thánh Linh, và đó chính là đời sống trong miền Đất Hứa dưới Định Kỳ Ân Điển hiện nay. III. “ĐỨC CHÚA TRỜI NGƯƠI VẪN Ở CÙNG NGƯƠI” (C. 8-9) Bí quyết để được ở trong miền Đất Hứa thuộc linh của Đức Chúa Trời là vừa đứng vững trên lời hứa, vừa ở trong sự hiện diện của Ngài. Trong phân đoạn Kinh Thánh này, có đến ba lần Đức Chúa Trời phán truyền Giôsuê “Hãy vững lòng bền chí” (C. 6, 7, 9). Tại sao? Đức Chúa Trời phán “Hãy vững lòng” có nghĩa là Ngài thấy Giôsuê và Dân Sự cảm biết mình yếu đuối, sợ hãi. Đức Chúa Trời phán “Hãy bền chí” có nghĩa là Ngài thấy ở Giôsuê và Dân Sự chưa có được một sự nhìn nhận nghiêm túc và chưa có được một quyết tâm kiên định để hoàn thành sự kêu gọi Thiên Thượng. “Hãy vững lòng bền chí” vẫn còn là một sự khích lệ dành cho tất cả chúng ta ngày nay. Thử hỏi ai trong chúng ta là người không cảm thấy yếu đuối, sợ hãi, thiếu kiên định khi hầu việc Đức Chúa Trời? Đã biết bao lần chúng ta do dự, khước từ đối với tiếng phán của Ngài? Chúng ta thoái thác Đức Chúa Trời mà không hề nhớ những lẽ thật Kinh Thánh qua lời của Sứ Đồ Phaolô: “Chúng tôi đựng của quí nầy trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi” (2Cô. 4:7). “Của quí” là Đức Thánh Linh và Tin Lành của Đức Chúa Jêsus. “Chậu bằng đất” là chúng ta. Đức Chúa Trời đã đẹp ý chọn sử dụng cái yếu, cái tầm thường như chúng ta để trao cho chúng ta quyền phép Đức Thánh Linh của Ngài. Đức Chúa Trời hiện diện trong chúng ta bởi Đức Thánh Linh của Ngài để chúng ta tôn qui vinh hiển cho Ngài. Đức Chúa Trời phán với Giôsuê và Dân Sự rằng “Hãy vững lòng bền chí” vì Ngài ở cùng họ. Đối với chúng ta cũng vậy, Đức Chúa Trời không bao giờ đòi hỏi chúng ta phải một mình làm bất cứ việc gì cả. Có chăng chỉ là chúng ta xao lãng Ngài, không biết ở trong sự hiện diện của Ngài để vâng lời Ngài mà thôi. Về phần Đức Chúa Trời, Ngài không bao giờ thay đổi về lời hứa ở cùng chúng ta; Đức Chúa Jêsus phán: “19Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báptêm cho họ, 20và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Ma. 28:19-20). Có một bộ tộc thổ dân Châu Mỹ có một phong tục thực tập lòng can đảm cho các thiếu niên thật độc đáo. Ngay đêm đầu tiên một nam thiếu niên bước vào tuổi mười ba, người ấy sẽ được đem bỏ vào rừng già một mình để sống ở đó suốt một đêm. Cho đến đêm thử thách ấy, các thiếu niên luôn được ở dưới sự bảo bọc của gia đình, chưa bao giờ phải một mình qua đêm ở đâu cả. Thế nhưng vào đêm thử thách, họ được gia đình bịt kín mắt, đem đến một khu rừng già xa lạ rồi thả ra. Khi người nhà bỏ đi rồi, lột khăn bịt mắt ra, người thiếu niên chỉ thấy đêm đen dày đặc, đưa tay lên tận mắt cũng chẳng thấy gì. Lang thang trong rừng, người thiếu niên được thử thách phải sống những giờ phút hết sức căng thẳng: Chỉ cần tiếng nhánh cây khô gãy “rắc” dưới chân cũng khiến họ hình dung ra hình ảnh một con thú dữ nào đó đang rình rập, sẵn sàng lao ra tấn công bất cứ lúc nào. Nghe tiếng thú dữ gầm, rống xa xa, họ tưởng chừng như mình sẽ là con mồi tiếp theo của chúng trong giây lát, và cái chết sẽ đến không sao tránh thoát. Mỗi lần tiếng gió lao xao trong cành lá, họ sợ dựng tóc gáy hoang mang không biết hiểm họa nào sẽ xảy đến… Cứ thế suốt một đêm dài là một cực hình tưởng chừng không sao chịu nổi. Chỉ một đêm mà tưởng chừng như vô tận; thế nhưng cái đêm kinh hoàng ấy rồi cũng trôi qua. Và, ngay khi những tia sáng đầu tiên xuất hiện - còn nhạt mờ cho đến nỗi chưa giúp phân biệt được màu của lá, của hoa - người thiếu niên được thử thách đã phải ngạc nhiên hết sức khi thấy thấp thoáng trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt ấy một bóng người với đầy đủ cung tên, gươm giáo đang bám theo mình trong một khoảng cách không xa. Đó chính là cha của người được thử thách, ông đã bám sát theo đứa con để sẵn sàng bảo vệ trong suốt đêm qua… Đức Chúa Trời là Đấng kêu gọi chúng ta bước ra khỏi hoang mạc thuộc linh trong thế gian này cũng luôn luôn ở bên cạnh chúng ta như thế. Ngài là Đức Chúa Trời đã truyền phán cho chúng ta, nhưng đồng thời Ngài cũng là Đức Chúa Trời kết ước với chúng ta: “Hãy vững lòng bên chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (C. 9). Đức Chúa Trời của Môise, Đức Chúa Trời của Giôsuê cũng chính là Đức Chúa Trời của chúng ta ngày nay! Kinh Thánh luôn luôn so sánh sự bước đi của Cơ Đốc Nhân với chiến trận thuộc linh. Để làm một chiến sĩ khôn ngoan, chúng ta phải biết tự vũ trang cho mình một cách thỏa đáng. Tuy nhiên, vũ khí của chúng ta sẽ trở nên vô dụng nếu kênh thông tin_liên lạc giữa chúng ta với Tổng Tư Lệnh của chúng ta là Đức Chúa Trời bị nhiễu. Điều bắt buộc là chúng ta phải nghe cho được tiếng phán của Đức Chúa Trời. Thế nhưng, để nghe cho được tiếng phán của Đức Chúa Trời, chúng ta phải biết phân biệt: (1) Tiếng của Satan là kẻ thù của chúng ta gầm rống như sư tử (1Phi. 5:8). Tiếng của Satan đầy dọa dẫm, dễ làm cho chúng ta khiếp nhược. Nếu chúng ta bị cuốn theo tiếng Satan, chúng ta sẽ bị tê điếng, không sao tiến lên phía trước được. (2) Tiếng của dân bản địa trong “xứ” là dân mà chúng ta phải chiến đấu để chiến thắng và chinh phục. “Xứ” là thế gian này, là nơi không muốn ánh sáng của Tin Lành soi rọi vào vì nó sẽ làm phơi bày tội lỗi của họ ra. Vì thế, nếu chúng ta nghe theo tiếng của người thế gian, chúng ta sẽ đánh mất phương hướng, bỏ rơi sự kêu gọi và chức vụ đã được trao ban cho chúng ta. (3) Cũng còn có tiếng huyên náo trong chính trại quân của chúng ta là Hội Thánh nữa! Tiếng này có nhiều giọng khác nhau: Giọng ganh tị, giọng mạ lị, giọng chia rẽ, và cả giọng kiêu ngạo của chính xúc cảm của bản thân… Nếu nghe theo các giọng này, chúng ta dễ bị tụt hậu, thối lui, hoặc bỏ cuộc. Chỉ có duy nhất một loại tiếng có thẩm quyền tối hậu đối với chúng ta là tiếng phán của Đức Chúa Trời qua Lời Ngài trong Kinh Thánh. Tiếng phán của Đức Chúa Trời mạnh nhưng mang tính yên ủi. Tiếng phán của Đức Chúa Trời đanh thép nhưng đầy yêu thương. Đức Chúa Trời truyền cho chúng ta phải có dũng khí, phải biết nương cậy Ngài không thôi vì Ngài luôn ở với chúng ta. Với sự ở cùng của Đức Chúa Trời trong chúng ta, chúng ta sẽ vô địch, chúng ta sẽ không bao giờ thất bại nếu chúng ta biết kiên trung vâng theo tiếng phán của Ngài: “Quyển sách Luật Pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước” (C. 8). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |