“ĐỂ TRỪNG PHẠT HAY ĐỂ ĐƯỢC TÔN VINH HIỂN?” (Gi. 9:1-3Gi. 9:1-3) “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Đó chẳng phải tại người hay tại cha mẹ đã phạm tội; nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người.” (Gi. 9:3) Trong vài tuần đầu sau thảm họa ‘Tsunami Ấn Độ Dương’, trên một số kênh truyền hình có mục thảo luận về đề tài “Vì Sao Đức Chúa Trời Cho Phép Thảm Họa Tsunami Xảy Ra?”. Có cả các Cơ Đốc Nhân lẫn những người vô thần tham gia vào việc thảo luận. Một vị nữ Cơ Đốc Nhân phát biểu một cách đầy tin tưởng rằng “Chính cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời đã trút đổ trên các nạn nhân ấy”. Người ta tường thuật rằng các nhà lãnh đạo Hồi Giáo ở Indonesia cũng đã giảng dạy cho các tín đồ Hồi Giáo ở đó rằng thảm họa ‘Tsunami’ ấy xảy đến là vì tội lỗi của họ. Đã có hơn 220.000 người bị thiệt mạng trong thảm họa ‘Tsunami Ấn Độ Dương’. Vậy có phải đây thực sự là một sự trừng phạt của Đức Chúa Trời hay không? Những người vô thần nói rằng chính ‘Tsunami’ cho thấy được rằng không hề có Đức Chúa Trời nào cả. Theo họ, không thể có một “Đức Chúa Trời Yêu Thương” nào lại có thể cho phép một thảm họa bi thảm đến thế xảy ra. Thế nhưng, trong cương vị Cơ Đốc Nhân, từ Lời Kinh Thánh trong Gi. 9:1-3, chúng ta có thể nhận được nhiều sự dạy dỗ hơn. I. MỌI LOẠI THẢM HỌA, ĐAU KHỔ,… ĐỀU LÀ HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI NGUYÊN THỦY Chúng ta không hề có ý muốn nói rằng các nạn nhân của ‘Tsunami Ấn Độ Dương” là những người hoàn toàn vô tội vì “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô. 3:23), và “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô. 6:23). Điều chúng ta muốn nói, ấy là rất có thể Đức Chúa Trời cho phép thảm họa này xảy đến để cho công việc của Ngài được bày tỏ ra. Một trong những câu hỏi mà người ta thường nêu ra là “Nếu Đức Chúa Trời đang tể trị và toàn năng, tại sao Ngài lại để cho nhiều người sinh ra phải chịu khuyết tật, hoặc phải chịu thiên tai khủng khiếp?”. Chúng ta tin rằng những gì đã xảy ra trong vườn Êđen giải đáp được cho câu hỏi ấy. Khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên trời đất, mọi sự đều hoàn hảo. Đức Chúa Trời đã đặt để cho con người địa vị cao hơn hết trong muôn loài thọ tạo của Ngài. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cũng đã ban cho con người một sự chọn lựa. Tại sao Đức Chúa Trời lại đặt “Cây Biết Điều Thiện Và Điều Ác” ở giữa vườn? Mọi việc trên thế gian này có vẻ như sẽ được tốt hơn nếu khi ấy Đức Chúa Trời đã không làm như thế! Tuy nhiên, Đức Chúa Trời biết rằng, nếu Ngài thực sự được thờ phượng và kính yêu, con người phải có được cơ hội chọn lựa: Chọn theo Ngài, hoặc khước từ Ngài. Vì thế, Đức Chúa Trời đã thử nghiệm Ađam và Êva bằng “Cây Biết Điều Thiện Và Điều Ác”; và, như chúng ta đã biết, họ đã thất bại trong cuộc thử nghiệm này. Hậu quả của sự thất bại của Ađam và Êva là tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian. Tộ lỗi đã không những ảnh hưởng trên toàn thể nhân loại mà còn lan tỏa sang muôn loài thọ tạo khác, cả động vật, thực vật, khoáng vật, lẫn plasma (plasmat) dầu rằng ban đầu mọi sự đều đã được Đức Chúa Trời tạo dựng trong tình trạng hoàn hảo:“Đức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, và các côn trùng trên đất tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành” (Sáng. 1:25). Lời Kinh Thánh cho biết rằng khi Đức Chúa Trời tạo dựng nên muôn vật, muôn vật đều hoàn hảo. Tuy nhiên, khi Ađam và Êva phạm tội, tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian và khiến muôn vật trở nên hỗn loạn: Không những chỉ các loài sinh vật mà thôi, tự thân địa cầu này cũng phải vận động theo xu thế thoái hóa, trong đó tất yếu phải có những cuộc địa chấn định hình: “17Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. 18Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; 19ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi” (Sáng. 3:17-19). Hậu quả của tội lỗi nguyên thủy là “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi”(Sáng. 3:17), “Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê”(Sáng. 3:18). Như vậy, nếu tổ phụ của nhân loại không ăn trái cây mà Đức Chúa Trời đã cấm, địa cầu này đã không phải chịu những cơn địa chấn cùng những biến động tàn hại khác. Cuộc địa chấn định hình dẫn đến ‘Tsunami Ấn Độ Dương” ngày 26.12.2004 vừa qua chính là hậu quả của tội lỗi nguyên thủy trong vườn Êđen. “Người Mù Từ Thuở Sanh Ra” được nói đến trong đoạn Kinh Thánh này cũng là hậu quả của tội lỗi nguyên thủy trong vườn Êđen. Và, tội lỗi trong vườn Êđen cũng chính là căn nguyên của mọi loại thiên tai, tật bệnh, khổ đau khác trong thế gian này: “Ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng” (Sáng. 3:18b), “Ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn”(Sáng. 19a). Tội lỗi đem lại khổ đau, một khi tội lỗi đã thâm nhập vào thế gian này rồi, không một ai tránh thoát đau khổ được. Khuyết tật trong con người hay thiên tai trong thiên nhiên không phải do Đức Chúa Trời tạo ra mà là hậu quả tất yếu của tội lỗi nguyên thủy. Tội lỗi đã khiến thế gian này trở nên một cánh đồng đau thương mênh mông vì “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi”(Sáng. 3:17). Mọi nỗi thống khổ mà nhân loại phải chịu chỉ là sự tất yếu của tất yếu vì “Ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng” (Sáng. 3:18). Nguyên nhân của tai ương, đau khổ là tội lỗi; và tác giả của tội lỗi là Satan. Trách nhiệm về những sự hư hoại và nỗi khốn khổ không thuộc về Đức Chúa Trời. II. ĐỨC CHÚA TRỜI KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI NGUYÊN THỦY Có người nêu lên vấn đề này: Nếu Đức Chúa Trời loại bỏ sự đau khổ, liệu thế gian này có tốt đẹp hơn không? Trong tác phẩm “The Case For Faith” của Lee Strobel, khi được phỏng vấn, vị giáo sư triết học của Đại Học Boston, Tiến Sĩ Peter Kreeft, đã phát biểu như thế này: “Chúng ta biết được rằng tính cách đạo đức vốn được hình thành qua gian khổ, qua việc vượt qua trở ngại, qua việc chịu đựng những nỗi truân chuyên do hiềm thù,… Chẳng hạn, sự can đảm sẽ không có trong một thế giới không hề biết đau đớn là gì. Sứ Đồ Phaolô chứng thực cho phẩm chất được tinh luyện này khi dạy chúng ta rằng ‘Hoạn nạn sanh ra sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh ra sự rèn tập, sự rèn tập sanh ra sự trông cậy’ ”. Nếu không có việc chịu khổ trong thế gian này, chúng ta ắt sẽ không nhận thức được nhu cần phải quay trở lại với Đức Chúa Trời. Nhiều người trong chúng ta dành một sự ngưỡng mộ đặc biệt cho “Mẹ Theresa”, nhưng nếu không có những cảnh khổ ải ở Calcutta, thì cũng không có Theresa. Chính vì những nỗi khổ to lớn của người ở Calcutta mà Theresa đã được cảm thúc để dâng cả cuộc đời mình phục vụ họ. Nếu không có cảnh khổ trong thế giới này, người ta cũng sẽ không thể có được năng lực thấu cảm. Những người cho rằng không hề có Đức Chúa Trời vì có quá nhiều nỗi khổ giáng trên những “nạn nhân vô tội” đã không nhận thức hết vấn đề. Hiển nhiên rằng thảm họa ‘Tsunami’ vừa qua đem đến sự chết chóc, tàn phá ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng, hãy nhìn xem những làn sóng yêu thương vô cùng to lớn của cả thế giới đang trào dâng để cưu mang cho các nạn nhân của ‘Tsunami Ấn Độ Dương”: Phải chăng đó chính là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu thương mà Đức Chúa Trời đã đặt để trong tấm lòng con người là loài vốn được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài? Ngày 20.01.2005, một cơ quan hàng đầu của thế giới đã đưa ra nhận xét rằng “Năm 2004 đã được kết thúc với một thảm họa kinh hoàng nhất trong lịch sử, và năm 2005 đã được bắt đầu bằng những nổ lực cao thượng nhất trong lịch sử nhân loại từ trước cho đến nay”. Chúng ta hãy quay lại suy gẫm về điều Đức Chúa Jêsus phán:“Đó chẳng phải tại người hay tại cha mẹ đã phạm tội; nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người” (Gi. 9:3). 1. Đức Chúa Trời Thấu Hiểu Và Can Thiệp Sự thật là Đức Chúa Trời đã hoàn toàn thấu hiểu nỗi khổ của nhân loại vì Ngài đã chịu khổ cho chúng ta qua Đức Chúa Jêsus. Lời Kinh Thánh cho chúng ta biết điều ấy: “Bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus đã vì mọi người nếm sự chết”(Hê. 2:9). “Vì quả thật không phải Ngài đến vùa giúp các Thiên Sứ, bèn là vùa giúp dòng dõi của Ápraham” (Hê. 2:17). “Vì chúng ta không có Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm chẳng có thể thương cảm sự yếu đuối của chúng ta, bèn có một Thầy Tế Lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội” (Hê. 4:15). Bởi việc Ngài đến giữa vòng nhân loại, và bởi sự thương khó mà Ngài đã từng trải, Đức Chúa Jêsus chẳng những thấu cảm được sự đau khổ của chúng ta mà Ngài còn cùng chung chịu phận người đầy đau khổ với chúng ta nữa. Đức Chúa Trời của chúng ta siêu việt hơn hẳn thần của các tôn giáo khác: Thần của Hồi Giáo là một thần hà khắc, chỉ biết trút đổ sự phẫn nộ lên thế gian; thần của Phật Giáo không phải là một thân vị và không gánh vác cho nỗi đau khổ của nhân loại trong thế gian, không trực tiếp cứu độ mà chỉ đưa ra một học thuyết để “cứu độ”… Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời của chúng ta là Đấng đã sống, đang sống, và sẽ còn chung sống với nhân loại. Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời của chúng ta là Đấng đã trở thành con người: “Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phil. 2:8). 2. Đức Chúa Trời Đáng Được Tôn Vinh Hiển Theo sự bày tỏ của Lời Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đáng được tôn vinh hiển qua sự chịu khổ của chúng ta, vì chính qua sự chịu khổ mà Ngài chữa lành và nâng chúng ta lên những tầm cỡ cao hơn: “3Nào những thế thôi, nhưng chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh ra sự nhịn nhục, 4sự nhịn nhục sanh ra sự rèn tập, sự rèn tập sanh ra sự trông cậy. 5Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rô. 5: 3-5) “Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định”(Rô. 8:28) Chúng ta đã từng kinh nghiệm được rằng từ sự chịu khổ bền lòng mà biết bao điều tốt đẹp đã đến trên đời sống của chúng ta trong bước đường theo Chúa. Chúng ta cũng tin chắc rằng thảm họa đau thương bởi ‘Tsunami Ấn Độ Dương’ cũng sẽ đem đến nhiều điều làm cho vinh hiển Đức Chúa Trời. Trong những năm 1950, lúc Jim Elliot còn đang là sinh viên tại đại học Wheaton, ông nhận được sự kêu gọi đến làm giáo sĩ cho người da đỏ Auca, một bộ tộc còn ở trong tình trạng của thời kỳ đồ đá ở Ecuador. Tháng Giêng năm 1956, Elliot cùng bốn người đồng hành khác đáp xuống bờ sông Curaray, miền Đông Ecuador. Hôm ấy, họ đã có được một vài cuộc tiếp xúc thân thiện với bộ tộc đã từng giết nhiều công nhân của Công Ty Shell này. Tuy nhiên, chỉ hai ngày sau, cả Jim Elliot cùng bốn người bạn đồng hành đã ngã gục dưới ngọn giáo của người da đỏ Auca. Jim Elliot chắc chắn đã hoàn toàn bình an trong sự chết của mình vì ông đã từng nói rằng “Người ta chẳng dại dột chút nào hết khi biết cho đi cái không thể giữ để nhận được cái không thể mất”. Thế nhưng, làm thế nào Đức Chúa Trời có thể được tôn vinh hiển qua cái chết của năm con người này là những người muốn làm một điều gì đó tốt đẹp trong danh của Ngài? Một thời gian sau, Elisabeth Elliot, người vợ góa của Jim Elliot, đã tìm đến với bộ tộc đã giết chồng mình. Elisabeth Elliot đã sống với người Auca, đã bền lòng chia sẻ Tin Lành với họ, và cuối cùng đã chinh phục được bộ tộc này về cho Đức Chúa Jêsus. Trong số những người đầu tiên tiếp nhận Tin Lành có cả người đã từng cầm giáo đâm chết chồng của Elisabeth Elliot. Đến đây, chúng ta thấy hiển nhiên là Đức Chúa Trời đã được tôn vinh hiển qua thảm kịch này! Chúng ta tin rằng, trong một cách tương tự, Đức Chúa Trời sẽ dùng thảm họa ‘Tsunami Ấn Độ Dương’ - vốn là một thảm kịch của tội lỗi, không phải của Ngài - để cứu nhiều người Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan,… về với Chúa Cứu Thế Jêsus! Người mù trong đoạn Kinh Thánh này vì mù mà được đến với Đức Chúa Jêsus như thế nào thì những người vì chịu thảm cảnh, biết đổi lòng, cũng sẽ được Chúa Cứu Thế Jêsus cứu về thể ấy. Người mù này không phải chỉ được chữa lành thuộc thể mà còn nhận được sự chữa lành thuộc linh nữa: “Người thưa rằng: Lạy Chúa, tôi tin; bèn sấp mình xuống trước mặt Ngài” (Gi. 9:38). Trong cương vị Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta có sự hy vọng khi đối đầu với nghịch cảnh: “18Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta. 19Thật thế, muôn vật ước ao nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được tỏ ra. 20Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không, chẳng phải tự ý mình, bèn là bởi cớ Đấng bắt phục. 21Muôn vật mong rằng mình cũng sẽ được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát, đặng dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời. 22Vì chúng ta biết rằng muôn vật đều than thở và chịu khó nhọc cho đến ngày nay; 23không những muôn vật thôi, lại chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở trong lòng, đang khi chúng ta đợi sự làm con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy” (Rô. 8:18-23). Niềm hy vọng này cần phải được chúng ta chia sẻ cho tất cả những ai đang ở trong tai ương, hoạn nạn, đau khổ,… vì đó là ý muốn của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Người mù trong đoạn Kinh Thánh này đã được Đức Chúa Jêsus làm cho sáng mắt; chúng ta hãy cầu xin Đức Chúa Trời sớm cung cấp những sự cần dùng cho những người vì thiên tai mà mất hết nhà cửa, mùa màng,… Người mù trong đoạn Kinh Thánh này đã được Đức Chúa Jêsus chữa lành thuộc linh; chúng ta cũng tin và hãy cầu xin Đức Chúa Trời sẽ cứu các nạn nhân của ‘Tsunami Ấn Độ Dương’ về với Ngài gấp nhiều lần hơn là số người đã bị tử vong! Chúng ta đang sống bình an ở đây, không chịu hậu quả của ‘Tsunami’; nhưng không phải vì thế mà chúng ta không có sự đau thương, tai ương. Điểm lại thời gian qua, chúng ta thấy được rằng mình cũng đã phải trải qua không ít điều bất như ý. Thế nhưng, khi đếm những ơn phước của Chúa đã ban trên đời sống của mình, chúng ta có một sự tổng kết giống như người mù đã kinh nghiệm được ơn chữa lành của Chúa: “Tôi đã mù mà bây giờ lại sáng” (Gi. 9:25). Chúng ta đã phải trải qua tai ưong, hoạn nạn, mất mác, thiếu thốn, ngộ nhận, buồn giận,… nhưng rồi tất cả đều đã qua, mọi sự đều đã được tốt đẹp hơn trong ơn Chúa. Không có hố sâu nào sâu hơn tình yêu của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Ngài can thiệp để khắc phục hậu quả của tội lỗi bằng việc cứu chuộc chúng ta, ở cùng chúng ta, thấu cảm và vùa giúp chúng ta để chúng ta tôn vinh hiển Ngài! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Comments are closed.
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |