“ĐÁP ỨNG PHẢI TRÌNH DÂNG” (Thi. 51:15-17) “15Chúa ơi, xin mở môi tôi, Rồi miệng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa. 16Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa: 17Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương; Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi. 51:15-17) I. KINH THÁNH “15Chúa ơi, xin mở môi tôi, Rồi miệng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa. 16Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa:17Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương; Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi. 51:15-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Để thờ phượng, trước hết cần phải được Chúa khai phóng khỏi trạng thái trì trệ bởi tội lỗi (C. 15). (1) “mở môi”: Hb. חתפ [pathach]; “làm cho dạn dĩ” (2) “truyền ra”: Hb. דגנ [nagad]; “nói lên” (3) “sự ngợi khen”: Hb. הלהת [tᵉhillah]; “sự tán tụng” 2. Lắm khi người thờ phượng không thể tìm thấy của lễ qui định cho sự vi phạm mình (C. 16a). (1) “ưa thích”: Hb. ץפח [chaphets]; “mong” (2) “của lễ”: Hb. חבז [zebach]; “của lễ dâng cho tội cố ý tà dâm và sát nhân mà vua Đavít đã phạm” 3. Ngay đến của lễ thiêu vốn đã được qui định nhưng nếu thiếu lòng chân thật thì Đức Chúa Trời vẫn không đẹp ý (C. 16b). (1) “của lễ thiêu”: Hb. הלע [‘olah]; “của lễ dâng bằng lửa được chính thức qui định” (Sv. 1Sa. 15:22; Ôsê 6:6, Thi. 69:30-31) (2) “đẹp lòng”: Hb. הצר [ratsah]; “chấp nhận” 4. Nhưng Đức Chúa Trời quí chuộng những tâm linh đang nhận được chứng giải về tội lỗi (C. 17a) (1) “tâm thần”: Hb. חור [ruwach]; “tâm linh” (2) “đau thương”: Hb. רבשׁ [shabar]; “tan vỡ” 5. Ngài không hề chê bỏ những tấm lòng ăn năn vì đó mới là của lễ không thể thiếu đối với Ngài (C. 17b) (1) “lòng”: Hb. בל [leb]; “tấm lòng” (2) “thống hối”: Hb. הכד [dakah]; “bị dày vò vì đã nhận biết tội lỗi” III. ÁP DỤNG 1. Đời sống Cơ Đốc phải là một đời sống chịu trình dâng! (Thi. 51:15; Sv. Rô. 3:19-20) “Chúa ơi, xin mở môi tôi, Rồi miệng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa” (Thi. 51:15) “19Vả, chúng ta biết rằng những điều mà Luật Pháp nói, là nói cho mọi kẻ ở dưới Luật Pháp, hầu cho miệng nào cũng phải ngậm lại, cả thiên hạ đều nhận tội trước mặt Đức Chúa Trời; 20vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo Luật Pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì Luật Pháp cho người ta biết tội lỗi” (Rô. 3:19-20) 2. Ý chỉ của Đức Chúa Trời là chúng ta phải trình dâng! (Thi. 51:16; Sv. Php. 4:6-7; Hê. 5:7-10) “Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa” (Thi. 51:16) “6Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. 7Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Php. 4:6-7) 3. Trình dâng là của lễ thờ phượng đẹp ý Đức Chúa Trời hơn hết! (Thi. 51:17; Sv. Ma. 22:11-14) “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương; Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi. 51:17) “11Vua vào xem khách dự tiệc, chợt thấy một người không mặc áo lễ, 12thì phán cùng người rằng: Hỡi bạn, sao ngươi vào đây mà không mặc áo lễ? Người đó làm thinh. 13Vua bèn truyền cho đầy tớ rằng: Hãy trói tay chân nó lại, và quăng ra ngoài nơi tối tăm, là nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng. 14Bởi vì có nhiều kẻ được gọi, mà ít người được chọn” (Ma. 22:11-14) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG PHẢI HIẾN THÂN” (Rô. 6:12-14) “12Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. 13Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình. 14Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:12-14) I. KINH THÁNH “12Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. 13Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình. 14Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển” (Rô. 6:12-14) II. GIẢI NGHĨA 1. Chúng ta phải tách ly khỏi tội lỗi (C. 12). (1) “cai trị”: Gr. βασιλεύω [basileuo], “cầm quyền điều khiển” (2) “chiều”: Gr. ὑπακούω [hupakouo], “nghe theo”, “vâng lời” 2. Phải dâng cả đời sống mình cho Đức Chúa Trời (C. 13a; Xuất. 20:5). (1) “nộp”, “phó”: Gr. παρίστημι [paristemi], “dành sẵn” (2) “chi thể”: Gr. παρίστημι [paristemi], “cơ quan của thân thể” 3. Phải tận hiến cho sự công nghĩa của Ngài (C. 13b; Xuất. 7:16). (1) “dâng”: Gr. παρίστημι [paristemi], “dành sẵn” (2) “đồ dùng”: Gr. ὅπλον [hoplon], “để dùng” 4. Để hưởng ân điển làm người thờ phượng Ngài (C. 14). (1) “cai trị”: Gr. κυριεύω [kurieuo], “làm chủ, Gr. κύριος [kurios]” (2) “Luật Pháp”: Gr. νόμος [nomos]; “qui định” (Sv. Gal. 3:24) (3) “Ân Điển”: Gr. χάρις [charis]; “ân huệ, sự ưu đãi” (Sv. Gal. 3:25) III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải tách ly để tận hiến cho Ngài! “Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình” (Rô. 6:13) 2. Chức phận môn đồ đòi hỏi chúng ta phải hiến thân cho Đức Chúa Trời! “Nếu có ai đến theo Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ Ta” (Lu. 14:26; Sv. 25-27) 3. Thờ phượng là một cách hiến thân đẹp ý Đức Chúa Trời! “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô. 12:1; Sv. 1-2) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐÁP ỨNG PHẢI HẠ MÌNH” (Gia. 4:7-10) “7Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10) I. KINH THÁNH “7Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. 8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. 10Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:7-10) II. GIẢI NGHĨA 1. Phải qui phục Đức Chúa Trời mới mong thoát được ách Ma Quỉ! (C. 7) (1) “phục”: Gr. ὑποτάσσω [hupotasso], “chịu ở dưới quyền điều khiển” (2) “chống trả”: Gr. ἀνθίστημι [anthistemi], “kháng cự lại sự cầm buộc” 2. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hạ mình đối với Ngài! (C. 8a) (1) “Hãy đến gần Đức Chúa Trời”: Gr. ἐγγίζω [eggizo], “đến để kết hiệp” (2) “Ngài sẽ đến gần anh em”: Gr. ἐγγίζω [eggizo], “tiếp nhận” 3. Chúng ta hạ mình đối với Ngài khi chúng ta chịu sống sạch tội (C. 8b) (1) “hãy lau tay mình”: Gr. καθαρίζω [katharizo], “gạt bỏ đi cho hết ô nhiễm” (2) “hãy làm sạch lòng đi”: Gr. ἁγνίζω [hagnizo], “thanh tẩy” (Sv. 1Phi. 1:22; 1Gi. 3:3 ) 4. Chúng ta hạ mình đối với Ngài khi chúng ta nhận thức đúng thực trạng của chúng ta! (C. 9) (1) “cảm biết…”: Gr. ταλαιπωρέω [talaiporeo], “buồn vì…” (2) “đổi…”: Gr. μεταστρέφω [metastrepho], “chuyển biến…” 5. Chúng ta sẽ được nâng đỡ khi chúng ta thờ phượng Ngài cách hạ mình! (C. 10) (1) “hạ mình”: Gr. ταπεινόω [tapeinoo], “từ bỏ sự tự cao” (2) “nhắc”: Gr. ὑψόω [hupsoo], “tôn cao” III. ÁP DỤNG 1. Cách duy nhất để thoát ách nô dịch của Ma Quỉ là phải hạ mình đối với Đức Chúa Trời! “Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em” (Gia. 4:7) 2. Hạ mình đối với Đức Chúa Trời là để cho Ngài xác lập quyền làm Chúa trên đời sống mình! “8Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; 9hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn” (Gia. 4:8-9) “28Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. 29Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. 30Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Ma. 11:28-30) 3. Đời sống thờ phượng luôn được Đức Chúa Trời nâng đỡ! “Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên” (Gia. 4:10) “19Samuên trở nên khôn lớn, Đức Giêhôva ở cùng người: Ngài chẳng để một lời nào của người ra hư. 20Từ Đan cho đến BêeSêba, cả Ysơraên đều biết rằng Samuên được lập làm Tiên Tri của Đức Giêhôva” (1Sa. 3:19-20) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỜ PHƯỢNG ĐỂ ĐÁP ỨNG” (Khải. 22:6-11) “6Bấy giờ thiên sứ nói với tôi rằng: Những lời này là trung tín và chân thật, Chúa là Đức Chúa Trời của thần các đấng tiên tri, đã sai thiên sứ mình đặng tỏ cùng các tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy ra. 7Kìa, Ta đến mau chóng. Phước thay cho kẻ nào giữ những lời tiên tri trong sách nầy! 8Chính tôi là Giăng đã thấy và nghe những điều đó. Khi nghe và thấy đoạn, tôi sấp mình xuống dưới chân thiên sứ đã tỏ những điều ấy cho tôi, để thờ lạy. 9Song người phán rằng: Chớ làm vậy! Ta là bạn tôi tớ với ngươi, với anh em ngươi, là các đấng tiên tri, và với những kẻ giữ các lời trong sách nầy. Hãy thờ phượng Đức Chúa Trời! 10Rồi người lại phán cùng tôi rằng: Chớ niêm phong những lời tiên tri trong sách nầy; vì thì giờ đã gần đến. 11Kẻ nào không công bình, cứ không công bình nữa; kẻ nào ô uế, cứ còn ô uế nữa; kẻ nào công bình, cứ làm điều công bình nữa; kẻ nào là thánh, cứ làm nên thánh nữa!” (Khải. 22:6-11) I. KINH THÁNH “6Bấy giờ thiên sứ nói với tôi rằng: Những lời này là trung tín và chân thật, Chúa là Đức Chúa Trời của thần các đấng tiên tri, đã sai thiên sứ mình đặng tỏ cùng các tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy ra. 7Kìa, Ta đến mau chóng. Phước thay cho kẻ nào giữ những lời tiên tri trong sách nầy! 8Chính tôi là Giăng đã thấy và nghe những điều đó. Khi nghe và thấy đoạn, tôi sấp mình xuống dưới chân thiên sứ đã tỏ những điều ấy cho tôi, để thờ lạy. 9Song người phán rằng: Chớ làm vậy! Ta là bạn tôi tớ với ngươi, với anh em ngươi, là các đấng tiên tri, và với những kẻ giữ các lời trong sách nầy. Hãy thờ phượng Đức Chúa Trời! 10Rồi người lại phán cùng tôi rằng: Chớ niêm phong những lời tiên tri trong sách nầy; vì thì giờ đã gần đến. 11Kẻ nào không công bình, cứ không công bình nữa; kẻ nào ô uế, cứ còn ô uế nữa; kẻ nào công bình, cứ làm điều công bình nữa; kẻ nào là thánh, cứ làm nên thánh nữa!” (Khải. 22:6-11) II. GIẢI NGHĨA 1. Sự khải thị của Chúa là “trung tín và chân thật” (C. 6). (1) “trung tín và chân thật”: Gr. πιστός καί ἀληθινός [pistos kai alethinos] - Có bản chất chân chính (alethinos) - Có tính chất đáng tin (pistos) (2) “tỏ”: Gr. δεικνύω [deiknuo], “làm cho mắt thấy được để biết và hiểu” 2. Sự vâng lời Chúa là “Phước” (C. 7). (1) “phước”: Gr. μακάριος [makarios], “đáng mừng” (2) Mừng vì có được sự chân chính, đáng tin. 3. “Thờ phượng” là sự đáp ứng chân chính đối với sự khải thị của Chúa (C. 8). (1) “thờ lạy”: Gr. προσκυνέω [proskuneo] (2) Biết, hiểu sự chân chính, đáng tin cho nên đáp ứng bằng sự qui phục. 4. Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời là đối tượng thờ phượng (C. 9). (1) “giữ”: Gr. τηρέω [tereo], “tuân theo” (2) “thờ phượng”: Gr. προσκυνέω [proskuneo] (3) “Đức Chúa Trời”: Gr. θεός [theos] 5. Sự hầu việc phải cặp theo sự thờ phượng (Cc. 10-11). (1) Chớ “niêm phong”: Gr. σφραγίζω [phragizo], “giữ im lặng” (C. 10b) (2) Hãy cứ tận hiến (C. 11b; Sv. Rô. 12:1-2; 1Cô. 9:16) III. ÁP DỤNG 1. Chỉ có thể thực sự biết Chúa nhờ Lời “trung tín và chân thật” của Ngài! “Những lời này là trung tín và chân thật” (Khải. 22:6a) 2. Thờ phượng Chúa là sự đáp ứng phải có khi biết Chúa! “Khi nghe và thấy đoạn, tôi sấp mình xuống dưới chân thiên sứ đã tỏ những điều ấy cho tôi, để thờ lạy” (Khải. 22:8b) 3. Không được phép thờ phượng bất cứ ai ngoài Chúa! “Hãy thờ phượng Đức Chúa Trời!” (Khải. 22:9b) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“NGỮ NGHĨA CỦA THỜ PHƯỢNG” (Gi. 4:23-24; Rô. 12:1-2) “23Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. 24Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Gi. 4:23-24) “1Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:1-2) I. KINH THÁNH “23Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. 24Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Gi. 4:23-24) “1Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:1-2) II. NGỮ NGHĨA 1. Cựu Ước (1) Hb. החשׁ [shachah]: “phủ phục”, “bái phục”, “qui phục” “Hết thảy các dân mà Chúa đã dựng nên_Sẽ đến thờ lạy(Hb. החשׁ [shachah]) trước mặt Chúa,_Và tôn vinh danh Chúa” (Thi. 86:9) (2) Hb. דבע [‘abad]: “phục sự”, “phục vụ”, “hầu việc”, “phụng sự” “Ngươi phải kính sợ Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, phục sự(Hb. דבע [‘abad]) Ngài, và lấy danh Ngài mà thề” (Phục. 6:13) 2. Tân Ước (1) Gr. προσκυνέω [proskuneo]: “phủ phục”, “bái phục”, “qui phục” “Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Satan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng(Gr. προσκυνέω [proskuneo]) Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi” (Ma. 4:10; Sv. Công. 10: 25-26; Khải. 22:8-9) (2) Gr. λατρεύω [latreuo]: “phục sự”, “phục vụ”, “hầu việc”, “phụng sự” “Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nhưng Ta sẽ đoán xét dân đã bắt chúng nó làm tôi, kế đó, chúng nó sẽ ra khỏi, và thờ phượng(Gr. λατρεύω [latreuo]) Ta trong nơi nầy” (Công. 7:7) III. ÁP DỤNG 1. “Thờ phượng” Chúa là tận hiến cả đời sống cho Chúa! “1Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng(Gr. λατρεία [latreia]) phải lẽ của anh em. 2Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô. 12:1-2) 2. Không thể “thờ phượng” Chúa mà thiếu “hầu việc” Chúa được! “8Ma Quỉ lại đem Ngài lên trên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước thế gian, cùng sự vinh hiển các nước ấy; 9mà nói rằng: Ví bằng ngươi sấp mình trước mặt ta mà thờ lạy(Gr. προσκυνέω [proskuneo]), thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy. 10Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Satan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng(Gr. προσκυνέω [proskuneo]) Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc(Gr. λατρεύω [latreuo]) một mình Ngài mà thôi. 11Ma Quỉ bèn bỏ đi; liền có thiên sứ đến gần mà hầu việc Ngài” (Ma. 4:8-11) 3. Phải “biết” Chúa mới có thể thờ phượng Chúa được! “8Chính tôi là Giăng đã thấy và nghe những điều đó. Khi nghe và thấy đoạn, tôi sấp mình xuống dưới chân thiên sứ đã tỏ những điều ấy cho tôi, để thờ lạy(Gr. προσκυνέω [proskuneo]). 9Song người phán rằng: Chớ làm vậy! Ta là bạn tôi tớ với ngươi, với anh em ngươi, là các đấng tiên tri, và với những kẻ giữ các lời trong sách nầy. Hãy thờ phượng(Gr. προσκυνέω [proskuneo]) Đức Chúa Trời!” (Khải. 22:8-9) “23Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng(Gr. προσκυνητής [proskunetes]) thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng(Gr. προσκυνέω [proskuneo]) Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng(Gr. προσκυνητής [proskunetes]) mà Cha ưa thích vậy. 24Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy(Gr. προσκυνέω [proskuneo]) Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy(Gr. προσκυνέω [proskuneo])” (Gi. 4:23-24) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI SỐNG KẾT ƯỚC” (Ma. 6:24; Sv. 19-24) “Ai muốn làm bạn với thế gian, thì người ấy trở nên kẻ nghịch thù cùng Đức Chúa Trời vậy.” (Công. 20:24) Làm tôi hai chủ là điều không thể làm được vì sẽ dẫn đến tình trạng bất trung, làm tôi hai chủ cũng là điều không được phép làm vì sự bất trung là một điều đáng gớm ghiếc… Kinh Thánh: “Chẳng ai được làm tôi hai chủ; vì sẽ ghét người nầy mà yêu người kia, hoặc trọng người nầy mà khinh người kia. Các ngươi không có thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi Mamôn nữa.” (Ma. 6:24; Sv. 19-24) Là Cơ Đốc Nhân chúng ta phải kết ước tận trung theo Chúa, không được làm tôi hai chủ… Câu Gốc: “Ai muốn làm bạn với thế gian, thì người ấy trở nên kẻ nghịch thù cùng Đức Chúa Trời vậy.” (Gia. 4:4b) I. GIẢI NGHĨA “Anh em há chẳng biết rằng nếu anh em đã nộp mình làm tôi mọi đặng vâng phục kẻ nào, thì là tôi mọi của kẻ mình vâng phục, hoặc của tội lỗi đến sự chết, hoặc của sự vâng phục để được nên công bình hay sao?” (Rô. 6:16) 1. Cơ Đốc Nhân Chúng Ta Phải Tránh Sự Bất Trung Trong Đời Sống Cơ Đốc Biểu Hiện Qua Việc Làm Tôi Hai Chủ! (C. 24a) “Chẳng ai được làm tôi hai chủ; vì sẽ ghét người nầy mà yêu người kia, hoặc trọng người nầy mà khinh người kia.” (Ma. 6:24a) (1) “làm tôi hai chủ”: Gr. δύο κύριος δουλεύω [duo kurios douleuo] >> “làm nô lệ cho hai chủ” - Chịu sự toàn quyền sai khiến của cả hai chủ; - Phải vâng phục đồng thời và hoàn toàn cả hai chủ! (2) “ghét”: Gr. μισέω [miseo] >> “chán chê” (3) “yêu”: Gr. ἀγαπάω [agapao] >> “ưa chuộng” “Đêma đã lìa bỏ ta rồi, tại người ham hố đời nầy, và đã đi qua thành Têsalônica. Cơrếtxen đi trong xứ Galati, còn Tít thì đi xứ Đamati rồi.” (2Ti. 4:10) 2. Để Giữ Phận Sự Môn Đồ Chúng Ta Phải Chọn Chỉ Vâng Lời Duy Nhất Đức Chúa Trời Mà Thôi! (C. 24b) “Các ngươi không có thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi Mamôn nữa.” (Ma. 6:24b) (1) “không có thể ”: Gr. οὐ δουλεύω [ou douleuo] >> “không được phép phục vụ” (2) “Đức Chúa Trời”: Gr. θεός [theos] >> “Đức Chúa Trời” (3) “Mamôn”: Gr. μαμμωνᾶς [mammonas] >> “tiền của” “Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Satan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi.” (Ma. 4:10) II. ÁP DỤNG “Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn.” (1Ti. 6:10) 1. Phải Tự Tra Xét Về Sự Nương Cậy Và Thỏa Lòng Ở Đức Chúa Trời Ẩn Trong Động Cơ Của Mọi Việc Chúng Ta Làm! (24a) “Chẳng ai được làm tôi hai chủ; vì sẽ ghét người nầy mà yêu người kia, hoặc trọng người nầy mà khinh người kia.” (Ma. 6:24a; Sv. Ma. 6:21) 2. Phải Tự Tra Xét Về Đời Sống Vâng Lời Đức Chúa Trời Là Biểu Hiện Của Đời Sống Cơ Đốc Chân Chính Của Người Môn Đồ! (24b) “Các ngươi không có thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi Mamôn nữa.” (Ma. 6:24b; Sv. Gi. 8:31) “Hỡi bọn tà dâm kia, anh em há chẳng biết làm bạn với thế gian tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời sao? Cho nên, ai muốn làm bạn với thế gian, thì người ấy trở nên kẻ nghịch thù cùng Đức Chúa Trời vậy.” (Gia. 4:4) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI SỐNG HY SINH” (Lu. 14:26-27; Sv. 25-27) “Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình làm quí, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Jêsus, để mà làm chứng về Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời.” (Công. 20:24) Việc theo Chúa có bản chất là một cuộc hy sinh để tận hiến trọn đời sống mình cho Chúa… Kinh Thánh: “26 Nếu có ai đến theo Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ Ta. 27 Còn ai không vác thập tự giá mình mà theo Ta, cũng không được làm môn đồ Ta.”(Lu. 14:26-27; Sv. 25-27) Vì vậy, sự cao nhất trong đời sống người theo Chúa là chức phận được giao chứ không phải là các lợi ích ích kỷ của bản thân… Câu Gốc: “Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình làm quí, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Jêsus, để mà làm chứng về Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời.” (Công. 20:24) I. GIẢI NGHĨA “Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ.” (Php. 3:8) 1. Theo Chúa Cần Phải Hy Sinh Về Các Mối Quan Hệ Tự Nhiên (C. 26) “Nếu có ai đến theo Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ Ta.” (Lu. 14:26) (1) “đến”: Gr. ρχομαι [erchomai] >> “gia nhập” với hai mục đích chính: - Có một mối quan hệ hoặc vị trí; - Có một sự ảnh hưởng hoặc được ảnh hưởng. (2) “ghét”: Gr. μισέω [miseo] >> “không ưu tiên” (Sv. Ma. 10:37; Rô. 9:11-13) (3) “môn đồ”: Gr. μαθητής [mathetes] >> “người học và làm theo thầy mình” “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng cho Ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn Ta thì cũng không đáng cho Ta.” (Ma. 10:37) 2. Theo Chúa Cần Phải Hy Sinh Về Lợi Ích, Sở Thích Bản Thân (C. 27) “Còn ai không vác thập tự giá mình mà theo Ta, cũng không được làm môn đồ Ta.” (Lu. 14:27) (1) “vác thập tự giá mình”: Gr. βαστάζω ὁ σταυρός [bastazo ho stauros] >> “nói về giá phải trả cho chức phận môn đồ” (2) “không được làm”: Gr. οὐ δύναμαι [ou dunamai] >> “không có khả năng làm” “Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng môn đồ rằng: Nếu ai muốn theo Ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta.” (Ma. 16:24) Ghi Chú: “liều mình”: Gr. ἀπαρνέομαι [aparneomai] >> “từ bỏ, hy sinh”; có hai hàm ý… - Không còn chịu ràng buộc chặt chẽ với ai khác; - Không còn đặt nặng lợi ích, sở thích của riêng mình. II. ÁP DỤNG “Nếu ai được cả thiên hạ, mà chính mình phải mất hoặc hư đi, thì có ích gì?” (Lu. 9:25) 1. Phải Chắc Được Rằng Mối Quan Hệ Với Chúa Là Tối Thượng Trong Đời Sống Mình! (C. 26) “Nếu có ai đến theo Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ Ta.” (Lu. 14:26) 2. Phải Chắc Được Rằng Không Còn Bị Lâm Lụy Với Lợi Ích, Sở Thích Ích Kỷ Của Mình! (C. 27) “Còn ai không vác thập tự giá mình mà theo Ta, cũng không được làm môn đồ Ta.” (Lu. 14:27) “Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình làm quí, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Jêsus, để mà làm chứng về Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời.” (Công. 20:24) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI SỐNG BIẾN ĐỔI” (Êph. 4:22-24) “Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành.” (Êph. 4:22) Đích điểm của đời sống Cơ Đốc là Cơ Đốc Nhân phải biến đổi thành con người mới thể theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh: “22 Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, 23 mà phải làm nên mới trong tâm chí mình, 24 và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời,trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật.” (Êph. 4:22-24) Phải quyết tâm từ bỏ đời sống cũ là điều then chốt để Cơ Đốc Nhân sống biến đổi. Câu Gốc: “Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành.” (Êph. 4:22) I. GIẢI NGHĨA “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới.” (2Cô. 5:17) 1. Để Có Thể Sống Biến Đổi Cơ Đốc Nhân Chúng Ta Phải Lột Bỏ Người Cũ (C. 22) “Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành.” (Êph. 4:22) (1) “bỏ”: Gr. ἀποτίθημι [apotithemi] >> “lột ra”, “dẹp qua” (2) “cách ăn nết ở”: Gr. ἀναστροφή [anastrophe] >> “lối sống” “5 Vậy hãy làm chết các chi thể của anh em ở nơi hạ giới, tức là tà dâm, ô uế, tình dục, ham muốn xấu xa, tham lam, tham lam chẳng khác gì thờ hình tượng: 6 bởi những sự ấy cơn giận của Đức Chúa Trời giáng trên các con không vâng phục.” (Côl. 3:5-6) 2. Để Có Thể Sống Biến Đổi Cơ Đốc Nhân Chúng Ta Phải Đổi Mới Tấm Lòng (C. 23) “Mà phải làm nên mới trong tâm chí mình.” (Êph. 4:23) (1) “làm nên mới”: Gr. ἀνανεόω [ananeoo] >> “đổi mới” (2) “tâm chí”: Gr. νοῦς [nous] >> “tấm lòng” (nơi hội tụ của lý trí, ý chí, và tình cảm) “7 Lúc trước anh em sống trong những nết xấu đó, và ăn ở như vậy. 8 Nhưng bây giờ anh em nên trừ bỏ hết mọi sự đó, tức là sự thạnh nộ, buồn giận và hung ác. Đừng nói hành ai, chớ có một lời tục tỉu nào ra từ miệng anh em. 9 Chớ nói dối nhau, vì đã lột bỏ người cũ cùng công việc nó.” (Côl. 3:7-9) 3. Để Có Thể Sống Biến Đổi Cơ Đốc Nhân Chúng Ta Phải Mặc Lấy Người Mới (C. 24) “Và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật.” (Êph. 4:24) (1) “mặc lấy”: Gr. ἐνδύω [enduo] >> “khoác lên”, “mặc vào” (2) “giống như”: Gr. κατά [kata] >> “phù hợp với” (Sv. Rô. 12:2) “Mà mặc lấy người mới là người đang đổi ra mới theo hình tượng Đấng dựng nên người ấy, đặng đạt đến sự hiểu biết đầy trọn.” (Côl. 3:10) II. ÁP DỤNG “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào.” (Rô. 12:2) 1. Phải giữ kỷ luật trong việc từ bỏ ý nghĩ, lời nói, và việc làm theo con người cũ (C. 22) “Anh em phải bỏ cách ăn nết ở ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành.” (Êph. 4:22) 2. Phải canh giữ tấm lòng cách thận trọng (C. 23) “Mà phải làm nên mới trong tâm chí mình.” (Êph. 4:23) 3. Phải có kế hoạch hành động để hình thành con người mới (C. 24) “Và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật.” (Êph. 4:24) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI SỐNG TẬN HIẾN” (Rô. 6:18-19; Sv. 6:15-23) “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu.” (1Cô. 15:58) Cơ Đốc Nhân chúng ta đã được thoát ách nô lệ cho tội lỗi, được định cho cuộc tận hiến cho sự công bình của Đức Chúa Trời cho nên phận sự của chúng ta là phải tận hiến cả đời sống mình cho sự công bình và sự nên thánh. Kinh Thánh: “18 Vậy, anh em đã được buông tha khỏi tội lỗi, trở nên tôi mọi của sự công bình rồi. 19 Tôi nói theo cách loài người, vì xác thịt của anh em là yếu đuối. Vậy, anh em từng đặt chi thể mình làm tôi sự ô uế gian ác đặng phạm tội ác thể nào, thì bây giờ, hãy đặt chi thể mình làm tôi sự công bình đặng làm nên thánh cũng thể ấy.” (Rô. 6:18-19; Sv. 6:15-23) Cuộc tận hiến của Cơ Đốc Nhân chúng ta là vô hạn. Câu Gốc: “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu.” (1Cô. 15:58) I. GIẢI NGHĨA “Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới Luật Pháp, mà thuộc dưới Ân Điển.” (Rô. 6:14) 1. Cơ Đốc Nhân chúng ta đã được thoát ách nô lệ cho tội lỗi, được định cho cuộc tận hiến cho sự công bình của Đức Chúa Trời (C. 18) “Vậy, anh em đã được buông tha khỏi tội lỗi, trở nên tôi mọi của sự công bình rồi.” (Rô. 6:18) (1) “đã được buông tha”: Gr. ἐλευθερόω [eleutheroo] >> “được giải phóng” (2) “tội lỗi”: Gr. ἁμαρτία [hamartia] >> “sự vi phạm đối với thánh ý của Đức Chúa Trời” (3) “trở nên tôi mọi”: Gr. δουλόω [douloo] >> “việc mang lấy thân phận của một người nô lệ” (4)“sự công bình”: Gr. δικαιοσύνη [dikaiosune] >> “tình trạng được Đức Chúa Trời chuẩn thuận” “Nhưng bây giờ đã được buông tha khỏi tội lỗi và trở nên tôi mọi của Đức Chúa Trời rồi, thì anh em được lấy sự nên thánh làm kết quả, và sự sống đời đời làm cuối cùng.” (Rô. 6:22) 2. Cơ Đốc Nhân chúng ta phải tận hiến cả đời sống mình cho sự công bình và sự nên thánh (C. 19) “Tôi nói theo cách loài người, vì xác thịt của anh em là yếu đuối. Vậy, anh em từng đặt chi thể mình làm tôi sự ô uế gian ác đặng phạm tội ác thể nào, thì bây giờ, hãy đặt chi thể mình làm tôi sự công bình đặng làm nên thánh cũng thể ấy.” (Rô. 6:19) (1) “đặt”: Gr. παρίστημι [paristemi] >> “chầu chực một bên” (2) “chi thể”: Gr. μέλος [melos] >> “các cơ quan của thân” (3) “làm tôi”: Gr. δοῦλος [doulos] >> “người nô lệ” (4) “làm nên thánh”: Gr. ἁγιασμός [hagiasmos] >> “hiến tế” “Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình.” (Rô. 6:13) II. ÁP DỤNG “Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa.” (Gal. 5:1) 1. Cơ Đốc Nhân chúng ta phải thường xuyên tra xét xem có còn ở trong sự ràng buộc nào của tội lỗi hay không. “Vậy, anh em đã được buông tha khỏi tội lỗi, trở nên tôi mọi của sự công bình rồi.” (Rô. 6:18) 2. Cơ Đốc Nhân chúng ta phải thường xuyên đánh giá về đời sống tận hiến của mình. “Tôi nói theo cách loài người, vì xác thịt của anh em là yếu đuối. Vậy, anh em từng đặt chi thể mình làm tôi sự ô uế gian ác đặng phạm tội ác thể nào, thì bây giờ, hãy đặt chi thể mình làm tôi sự công bình đặng làm nên thánh cũng thể ấy.” (Rô. 6:19) “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu.” (1Cô. 15:58) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“PHẢI TRÁNH SỰ GIẢNG DẠY SAI TRÁI” (2Phi. 2:1-3) “Hãy giữ mình trong sự yêu mến Đức Chúa Trời, và trông đợi sự thương xót của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta cho được sự sống đời đời.” (Giu. 1:21) Mọi sự giảng dạy sai trái đều không hiệp với lẽ thật Kinh Thánh và luôn lôi cuốn người ta xa rời Chúa, chúng có đặc điểm là sự cứng lòng và liều lĩnh đối với lẽ thật của Đức Chúa Trời nhằm thỏa mãn ý riêng và lợi dụng người nghe cho lợi ích riêng… Kinh Thánh: “1 Dầu vậy, trong dân chúng cũng đã có tiên tri giả, và cũng sẽ có giáo sư giả trong anh em; họ sẽ truyền những đạo dối làm hại, chối Chúa đã chuộc mình, tự mình chuốc lấy sự hủy phá thình lình. 2 Có nhiều kẻ sẽ theo họ trong những sự buông tuồng, và đạo thật vì cớ họ sẽ bị gièm pha. 3 Họ sẽ bởi lòng tham mình, lấy lời dối trá khoét anh em; nhưng sự kêu án nghịch cùng họ đã nghị định từ lâu nay, và sự hư mất của họ chẳng ngủ.” (2Phi. 2:1-3) Cơ Đốc Nhân chúng ta có phận sự giữ mình trong sự kính yêu Đức Chúa Trời mà chống trả lại mọi sự giảng dạy sai trái… Câu Gốc: “Hãy giữ mình trong sự yêu mến Đức Chúa Trời, và trông đợi sự thương xót của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta cho được sự sống đời đời.” (Giu. 1:21) I. GIẢI NGHĨA “Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì tôi đã ân cần viết cho anh em về sự cứu rỗi chung của chúng ta, tôi tưởng phải làm điều đó, để khuyên anh em vì đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi.” (Giu. 1:3) 1. Các sự giảng dạy sai trái đều không hiệp với lẽ thật Kinh Thánh và luôn lôi cuốn người ta xa rời Chúa (C. 1) “Dầu vậy, trong dân chúng cũng đã có tiên tri giả, và cũng sẽ có giáo sư giả trong anh em; họ sẽ truyền những đạo dối làm hại, chối Chúa đã chuộc mình, tự mình chuốc lấy sự hủy phá thình lình.” (2Phi. 2:1) (1) “tiên tri giả”: Gr. ψευδοπροφήτης [pseudoprophetes] E “mạo tiên tri”, kẻ mạo danh Đức Chúa Trời để đưa ra những lời tiên tri không đến từ Ngài. (2) “giáo sư giả”: Gr. ψευδοδιδάσκαλος [pseudodidaskalos] E “mạo giáo sư”, kẻ mạo danh Đức Chúa Trời để đưa ra những sự giảng dạy không theo ý Ngài. (3) “đạo dối”: Gr. αἵρεσις [hairesis] E “tà giáo”, giáo lý phi, phản Kinh Thánh. (4) “làm hại”: Gr. ἀπώλεια [apoleia] E “có hại”, có tác dụng hủy hoại. (5) “chối”: Gr. ἀρνέομαι [arneomai] E “loại trừ” “Vì những kẻ đó chẳng hầu việc Đấng Christ, Chúa chúng ta, song hầu việc cái bụng họ, và lấy những lời ngọt ngào dua nịnh dỗ dành lòng kẻ thật thà.” (Rô. 16:18) 2. Các sự giảng dạy sai trái đều có đặc điểm cứng lòng và liều lĩnh đối với lẽ thật của Đức Chúa Trời (C. 2) “Có nhiều kẻ sẽ theo họ trong những sự buông tuồng, và đạo thật vì cớ họ sẽ bị gièm pha.” (2Phi. 2:2) (1) “những sự buông tuồng”: Gr. ἀπώλεια [apoleia] E “con đường hư mất” (2) “đạo thật”: Gr. ὁδός ὁ hoἀλήθεια [hodos aletheia] E “con đường chân lý” (3) “gièm pha”: Gr. βλασφημέω [blasphemeo] E “báng bổ” “Chúng nó đã từ giữa chúng ta mà ra, nhưng vốn chẳng phải thuộc về chúng ta; vì nếu chúng nó thuộc về chúng ta, thì đã ở cùng chúng ta; song điều đó đã xảy đến, hầu cho tỏ ra rằng mọi kẻ ấy chẳng thuộc về chúng ta vậy.” (1Gi. 2:19) 3. Các sự giảng dạy sai trái đều nhằm thỏa mãn ý riêng và lợi dụng người nghe cho lợi ích riêng (C. 3) “Họ sẽ bởi lòng tham mình, lấy lời dối trá khoét anh em; nhưng sự kêu án nghịch cùng họ đã nghị định từ lâu nay, và sự hư mất của họ chẳng ngủ.” (2Phi. 2:3) (1) “lòng tham”: Gr. πλεονεξία [pleonexia] E “lòng ham muốn được có nhiều hơn” (2) “dối trá”: Gr. πλαστός [plastos] E “giả tạo” (3) “khoét”: Gr. ἐμπορεύομαι [emporeuomai] E “gã bán để trục lợi” (4) “nghị định”: Gr. κρίμα [krima] E “phán quyết” (5) “sự hư mất”: Gr. ἀπώλεια [apoleia] E “sự định tội” (tức là sự hư mất) (6) “chẳng ngủ”: Gr. νυστάζω [nustazo] E “chẳng bị quên lãng” “Chúng nó đã bỏ đường thẳng mà đi sai lạc theo đường của Balaam, con trai Bôsô, là kẻ tham tiền công của tội ác; nhưng người bị trách về sự phạm tội của mình.” (2Phi. 2:15) II. ÁP DỤNG “Hãy giữ mình trong sự yêu mến Đức Chúa Trời, và trông đợi sự thương xót của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta cho được sự sống đời đời.” (Giu. 1:21) 1. Phải thường tỉnh thức thường xuyên để có thể nhận thức được ai là ai. (2Phi. 2:1; Sv. 1Gi. 4:1; Công. 17:11) “Dầu vậy, trong dân chúng cũng đã có tiên tri giả, và cũng sẽ có giáo sư giả trong anh em; họ sẽ truyền những đạo dối làm hại, chối Chúa đã chuộc mình, tự mình chuốc lấy sự hủy phá thình lình.” (2Phi. 2:1) 2. Phải dựa trên sự giảng dạy và đời sống của người giảng dạy để biết họ có thuộc về Đức Chúa Trời hay không. (2Phi. 2:2-3) “2 Có nhiều kẻ sẽ theo họ trong những sự buông tuồng, và đạo thật vì cớ họ sẽ bị gièm pha. 3 Họ sẽ bởi lòng tham mình, lấy lời dối trá khoét anh em; nhưng sự kêu án nghịch cùng họ đã nghị định từ lâu nay, và sự hư mất của họ chẳng ngủ.” (2Phi. 2:2-3) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |