“TRÔNG CẬY ÂN ĐIỂN VÔ LƯỢNG” (Gi. 3:13-17) “13Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, ấy là Con Người vốn ở trên trời. 14Xưa Môise treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, 15hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời. 16Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. 17Vả, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu” (Gi. 3:13-17) I. KINH THÁNH “13Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, ấy là Con Người vốn ở trên trời. 14Xưa Môise treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, 15hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời. 16Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. 17Vả, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu” (Gi. 3:13-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Cuộc nhập thể của Đức Chúa Jêsus Christ thể hiện Ân Điển vô lượng của Đức Chúa Trời (C. 13; Sv. Gi. 1:1, 14). (1) “chưa hề”: Gr. οὐδείς [oudeis], “chẳng một người nào” [đem sự dạy dỗ Thiên Thượng xuống thế hạ] (Sv. Phục. 30:12; Rô. 10:6) (2) “trừ ra”: Gr. εἰ μή [ei me], “ngoại trừ” [Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng Thiên Thượng] (Sv. Gi. 3:36; Php. 2:5-8) 2. Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus Christ thể hiện Ân Điển vô lượng của Đức Chúa Trời (Cc. 14-15). (1) “bị treo”: Gr. ὑψόω [hupsoo], “nâng lên cao” (Sv. Gi. 8:28; 12:32, 34) (2)“tin”: Gr. πιστεύω [pisteuo], “hiểu biết, đồng ý, và kỳ vọng” (3) “sự sống đời đời”: Gr. Ζωή αἰώνιος [zoe aionios], “sự sống vĩnh cữu trong Đức Chúa Trời” (Sv. Gi. 17:3) 3. Công nghiệp cứu chuộc của Đức Chúa Jêsus Christ thể hiện Ân Điển vô lượng của Đức Chúa Trời (Cc. 16-17). (1) “đoán xét”: Gr. κρίνω [krino], “kết tội” (Sv. Gi. 3:18) (2) “nhờ Con ấy”: Gr. διά αὐτός [dia autos], “bởi sự đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ” (Sv. Dân. 21:7-9) (3) “được cứu”: Gr. σώζω [sozo], “được tha khỏi án phạt đời đời” (Sv. Gi. 5:24; Rô. 8:1) III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Jêsus Christ là Đức Chúa Trời nhập thể ban Ân Điển cứu chuộc vô lượng cho nhân loại! “Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, ấy là Con Người vốn ở trên trời” (Gi. 3:13) 2. Chỉ duy nhất công trình đền tội thay vô lượng trên Thập Tự Giá của Đức Chúa Trời Christ mới đem được con người trở lại với sự sống đời đời của Đức Chúa Trời! “14Xưa Môise treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, 15hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời” (Gi. 3:14-15) 3. Cuộc nhập thể của Đức Chúa Jêsus Christ là nhằm ban Ân Điển cứu chuộc vô lượng cho nhân loại! “16Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. 17Vả, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu” (Gi. 3:16-17) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“TRÔNG CẬY ÂN ĐIỂN VÔ BIÊN” (Hê. 10:19-22) “19Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, 20bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài, 21lại vì chúng ta có một Thầy Tế Lễ lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời, 22nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa” (Hê. 10:19-22) I. KINH THÁNH “19Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, 20bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài, 21lại vì chúng ta có một Thầy Tế Lễ lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời, 22nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa” (Hê. 10:19-22) II. GIẢI NGHĨA 1. Ân Điển đền tội thay của Đức Chúa Jêsus mở ra cho chúng ta một con đường không giới hạn để đến với sự hiện diện của Đức Chúa Trời (Cc. 19-20; Sv. Hê. 8:1-2; 9:1-10:18). (1) “huyết Đức Chúa Jêsus”: Gr. αἷμα ʼΙησοῦς [haima Iesous], “huyết đền tội thay của Đức Chúa Jêsus” (Sv. Hê. 9:22) (2) “nơi rất thánh”: Gr. ἅγιον [hagion], “nơi chí thánh, chỉ về sự hiện diện của Đức Chúa Trời” (Sv. Xuất. 26:31-35; Thi. 28:2) (3) “xác Ngài”: Gr. σάρξ [sarx], “sự chịu chết đền tội thay của Đức Chúa Jêsus” (Sv. Ma. 27:51; Hê. 9:24-26) 2. Ân Điển đền tội thay của Đức Chúa Jêsus đòi hỏi chúng ta phải đến với Đức Chúa Trời và chúng ta có thể đến với Ngài mà không còn có sự ngăn cách ngoại lai nữa (C. 21-22; Sv. Hê. 4:14-16). (1) “Thầy Tế Lễ lớn”: Gr. ἱερεύς μέγας [hiereus megas], “tối cao” (2) “cai trị”: Gr. ἐπί [epi], “ở trên hết” (Sv. Hê. 3:6) (3) “đến gần”: Gr. προσέρχομαι [proserchomai], (Sv. Hê. 4:16) a. “[lòng] thật thà”: Gr. ἀληθινός [alethinos], “chân thành” (Sv. Ma. 5:8) b. “[đức tin] đầy dẫy trọn vẹn”: Gr. πληροφορία [plerophoria], “tin quyết về sự tha tội” c. “[lòng] được tưới sạch [khỏi lương tâm xấu]”: Gr. ʽραντίζω [rhantizo]; “không còn vướng với công việc chết” d. “[thân thể] rửa [bằng nước trong]”: Gr. λούω [louo], “để cho Ân Điển làm cho sạch con người mình” (Sv. 1Phi. 3:21) III. ÁP DỤNG 1. Ân Điển vô biên của Đức Chúa Jêsus đòi hỏi chúng ta phải sống thờ phượng Đức Chúa Trời! “19Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, 20bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài” (Hê. 10:19-20) 2. Ân Điển vô biên của Đức Chúa Jêsus đòi hỏi chúng ta phải sống mật thiết với Đức Chúa Trời! “21lại vì chúng ta có một Thầy Tế Lễ lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời, 22nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa” (Hê. 10:21-22) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“TRÔNG CẬY ÂN ĐIỂN VÔ LƯỢNG” (Gi. 3:13-17) “13Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, ấy là Con Người vốn ở trên trời. 14Xưa Môise treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, 15hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời. 16Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. 17Vả, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu” (Gi. 3:13-17) I. KINH THÁNH “13Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, ấy là Con Người vốn ở trên trời. 14Xưa Môise treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, 15hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời. 16Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. 17Vả, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu” (Gi. 3:13-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Cuộc nhập thể của Đức Chúa Jêsus Christ thể hiện Ân Điển vô lượng của Đức Chúa Trời (C. 13; Sv. Gi. 1:1, 14). (1) “chưa hề”: Gr. οὐδείς [oudeis], “chẳng một người nào” [đem sự dạy dỗ Thiên Thượng xuống thế hạ] (Sv. Phục. 30:12; Rô. 10:6) (2) “trừ ra”: Gr. εἰ μή [ei me], “ngoại trừ” [Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng Thiên Thượng] (Sv. Gi. 3:36; Php. 2:5-8) 2. Thập Tự Giá của Đức Chúa Jêsus Christ thể hiện Ân Điển vô lượng của Đức Chúa Trời (Cc. 14-15). (1) “bị treo”: Gr. ὑψόω [hupsoo], “nâng lên cao” (Sv. Gi. 8:28; 12:32, 34) (2) “tin”: Gr. πιστεύω [pisteuo], “hiểu biết, đồng ý, và kỳ vọng” (3) “sự sống đời đời”: Gr. Ζωή αἰώνιος [zoe aionios], “sự sống vĩnh cữu trong Đức Chúa Trời” (Sv. Gi. 17:3) 3. Công nghiệp cứu chuộc của Đức Chúa Jêsus Christ thể hiện Ân Điển vô lượng của Đức Chúa Trời (Cc. 16-17). (1) “đoán xét”: Gr. κρίνω [krino], “kết tội” (Sv. Gi. 3:18) (2) “nhờ Con ấy”: Gr. διά αὐτός [dia autos], “bởi sự đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ” (Sv. Dân. 21:7-9) (3) “được cứu”: Gr. σώζω [sozo], “được tha khỏi án phạt đời đời” (Sv. Gi. 5:24; Rô. 8:1) III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Jêsus Christ là Đức Chúa Trời nhập thể ban Ân Điển cứu chuộc vô lượng cho nhân loại! “Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, ấy là Con Người vốn ở trên trời” (Gi. 3:13) 2. Chỉ duy nhất công trình đền tội thay vô lượng trên Thập Tự Giá của Đức Chúa Trời Christ mới đem được con người trở lại với sự sống đời đời của Đức Chúa Trời! “14Xưa Môise treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, 15hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời” (Gi. 3:14-15) 3. Cuộc nhập thể của Đức Chúa Jêsus Christ là nhằm ban Ân Điển cứu chuộc vô lượng cho nhân loại! “16Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. 17Vả, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu” (Gi. 3:16-17) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“TRÔNG CẬY ÂN ĐIỂN DIỆU KỲ” (Êph. 2:1-10) “1Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, 2đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung, tức là thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch. 3Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác. 4Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, 5nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ - ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu - 6và Ngài làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Đức Chúa Jêsus Christ, 7hầu cho về đời sau tỏ ra sự giàu có vô hạn của ân điển Ngài, mà Ngài bởi lòng nhân từ đã dùng ra cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ. 8Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. 9Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình; 10vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo” (Êph. 2:1-10) I. KINH THÁNH “1Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, 2đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung, tức là thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch. 3Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác. 4Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, 5nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ - ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu - 6và Ngài làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Đức Chúa Jêsus Christ, 7hầu cho về đời sau tỏ ra sự giàu có vô hạn của ân điển Ngài, mà Ngài bởi lòng nhân từ đã dùng ra cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ. 8Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. 9Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình; 10vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo” (Êph. 2:1-10) II. GIẢI NGHĨA 1. Trước kia chúng ta là kẻ chết bời sự sa ngã, bại hoại của chúng ta (Cc. 1-3). (1) “chết”: Gr. νεκρός [nekros], “xa cách” (Sv. Êph. 4:18; Gi. 17:3) (2) “lầm lỗi”: Gr. παράπτωμα [paraptoma], “sự sa ngã” (Sv. Rô. 3:23) (3) “tội ác”: Gr. ἁμαρτία [hamartia], “sự bại hoại” (Sv. Rô. 6:23a) 2. Hiện nay chúng ta đã trở nên người sống (Cc. 4-7). (1) “sống với”: Gr. συζωοποιέω [suzoopoieo] a. “với”: Gr. σύν [sun], “ở bên cạnh” b. “sống”: Gr. ζωοποιέω [zoopoieo], “sinh động” (2) “sống với Đấng Christ”: Gr. συζωοποιέω ὁ Χριστός [suzoopoieo ho Christos] (3) “đồng sống”: Gr. συνεγείρω [sunegeiro], “cùng trỗi dậy với” (4) “đồng ngồi”: Gr. συγκαθίζω [sugkathizo], “cùng ngồi với” (Sv. Rô. 6:23b; Côl. 3:1-4) 3. Ấy là nhờ Ân Điển bởi Đức Tin là sự ban cho của Đức Chúa Trời (Cc. 8-10) (1) “Ân Điển”: Gr. χάρις [charis], “sự chiếu cố” (Sv. Êph. 2:5) (2) “Đức Tin”: Gr. πίστις [pistis], “sự đồng ý và kỳ vọng” (Sv. Gal. 2:16) (3) “cứu”: Gr. σώζω [sozo], “đem ra khỏi sự nguy hiểm” (2Ti. 1:9) III. ÁP DỤNG 1. Ân Điển cứu rỗi là diệu kỳ vì tình trạng chết của chúng ta ngày xưa là vô cùng bất hạnh! “1Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình, 2đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung, tức là thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch. 3Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác” (Êph. 2:1-3) 2. Ân Điển cứu rỗi là diệu kỳ vì tình trạng đồng sống với Đấng Christ của chúng ta ngày nay là vô cùng phước hạnh! “4Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, 5nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ - ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu - 6và Ngài làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong Đức Chúa Jêsus Christ, 7hầu cho về đời sau tỏ ra sự giàu có vô hạn của ân điển Ngài, mà Ngài bởi lòng nhân từ đã dùng ra cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Êph. 2:4-7) 3. Ân Điển cứu rỗi là diệu kỳ vì sự cứu rỗi cho chúng ta là bởi và chỉ bởi duy nhất Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ! “8Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. 9Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình; 10vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo” (Êph. 2:8-10) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỌ TẠO ĐỂ VÂNG LỜI” (Sáng. 2:8-17) “8Đoạn, Giêhôva Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Êđen, ở về hướng Đông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó. 9Giêhôva Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác. 10Một con sông từ Êđen chảy ra đặng tưới vườn; rồi từ đó chia ra làm bốn ngả. 11Tên ngả thứ nhứt là Bisôn; ngả đó chảy quanh xứ Havila, là nơi có vàng. 12Vàng xứ nầy rất cao; đó lại có nhũ hương và bích ngọc. 13Tên sông thứ nhì là Ghihôn, chảy quanh xứ Cusơ. 14Tên sông thứ ba là Hiđêke, chảy về phía đông bờ cõi Asiri. Còn sông thứ tư là sông Ơphơrát. 15Giêhôva Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Êđen để trồng và giữ vườn. 16Rồi, Giêhôva Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; 17nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sáng. 2:8-17) I. KINH THÁNH “8Đoạn, Giêhôva Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Êđen, ở về hướng Đông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó. 9Giêhôva Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác. 10Một con sông từ Êđen chảy ra đặng tưới vườn; rồi từ đó chia ra làm bốn ngả. 11Tên ngả thứ nhứt là Bisôn; ngả đó chảy quanh xứ Havila, là nơi có vàng. 12Vàng xứ nầy rất cao; đó lại có nhũ hương và bích ngọc. 13Tên sông thứ nhì là Ghihôn, chảy quanh xứ Cusơ. 14Tên sông thứ ba là Hiđêke, chảy về phía đông bờ cõi Asiri. Còn sông thứ tư là sông Ơphơrát. 15Giêhôva Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Êđen để trồng và giữ vườn. 16Rồi, Giêhôva Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; 17nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sáng. 2:8-17) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời ban cho con người mà Ngài đã tạo dựng một cuộc an định thuận lợi cho mối tương giao mật thiết với Ngài! (C. 8-14) (1) Một sự sắp đặt hoàn hảo cho mối tương giao với Ngài (C. 8-9). a. “cảnh vườn”: Hb. ןג [gan], “khuôn viên” b. “đặt”: Hb. םושׂ [suwm], “để vào chỗ” c. “sự sống”: Hb. יח [chay], “sống động” d. “điều thiện”: Hb. בוט [towb], “điều ưng ý” e. “điều ác”: Hb. ער [ra‘], “điều trái ý” (2) Một sinh cảnh lý tưởng cho việc vâng lời Ngài (C. 10-14; Sv. Êx. 28:13). a. “sông”: Hb. רהנ [nahar], “dòng chảy” b. “tưới”: Hb. הקשׁ [shaqah], “cho uống nước” 2. Đức Chúa Trời thiết lập một cơ chế đặc biệt cùng với một sự hạn định an toàn để giữ cho cuộc an định ấy được trường tồn! (C. 15-17) (1) Một cơ chế phước hạnh (C. 15). a. “đem”: Hb. חני [yanach], “an cư” (Sáng. 19:16; Phục. 12:10) b. “trồng”: Hb. דבע [‘abad]; “hầu việc” c. “giữ”: Hb. רמשׁ [shamar], “tuân giữ” (2) Một sự hạn định an toàn (C. 16-17). a. “tự do ăn”: Hb. לכא [‘akal], “tận hưởng” b. “chết”: Hb. תומ [muwth], “phân li” III. ÁP DỤNG 1. Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên con người và muốn con người ở trong mối tương giao mật thiết với Ngài! “8Đoạn, Giêhôva Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Êđen, ở về hướng Đông, và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó. 9Giêhôva Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác” (Sáng. 2:8-9) 2. Sự dự ứng quan phòng của Đức Chúa Trời dành cho con người là tối hảo! “10Một con sông từ Êđen chảy ra đặng tưới vườn; rồi từ đó chia ra làm bốn ngả. 11Tên ngả thứ nhứt là Bisôn; ngả đó chảy quanh xứ Havila, là nơi có vàng. 12Vàng xứ nầy rất cao; đó lại có nhũ hương và bích ngọc. 13Tên sông thứ nhì là Ghihôn, chảy quanh xứ Cusơ. 14Tên sông thứ ba là Hiđêke, chảy về phía đông bờ cõi Asiri. Còn sông thứ tư là sông Ơphơrát. 15Giêhôva Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Êđen để trồng và giữ vườn” (Sáng. 2:10-15) 3. Con người có phận sự phải vâng lời Đức Chúa Trời! “ 16Rồi, Giêhôva Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; 17nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sáng. 2:16-17) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỌ TẠO ĐỂ TIN CẬY” (Sáng. 15:1-6) “1Sau các việc đó, trong sự hiện thấy có lời Đức Giêhôva phán cùng Ápram rằng: Hỡi Ápram! Ngươi chớ sợ chi; Ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn. 2Ápram thưa rằng: Lạy Chúa Giêhôva, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Êliêse, người Đamách. 3Ápram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi. 4Đức Giêhôva bèn phán cùng Ápram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. 5Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy. 6Ápram tin Đức Giêhôva, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sáng. 15:1-6) I. KINH THÁNH “1Sau các việc đó, trong sự hiện thấy có lời Đức Giêhôva phán cùng Ápram rằng: Hỡi Ápram! Ngươi chớ sợ chi; Ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn. 2Ápram thưa rằng: Lạy Chúa Giêhôva, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Êliêse, người Đamách. 3Ápram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi. 4Đức Giêhôva bèn phán cùng Ápram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. 5Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy. 6Ápram tin Đức Giêhôva, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sáng. 15:1-6) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời hằng tể trị trên cuộc đời của Ápram và Ngài đã định mạng cho Ápram có tương lai vẻ vang (C. 1; Sv. Ma. 10:30). (1) “cái thuẫn đỡ”: Hb. ןגמ [magen], “sự che chắn” (2) “phần thưởng”: Hb. רכשׂ [sakar], “tiền công” 2. Ápram thiếu tầm nhìn Thiên Thượng và đã có sự nhận thức sai, cho rằng tương lai của mình sẽ hẩm hiu (C. 2-3; Sv. Ês. 55:8-9). (1) “cho chi?”: Hb. ןתנ [nathan], “ban cấp” (2) “chết không con”: Hb. ערז [zera‘],“chẳng có con cho đến chết” (3) “tuyệt tự”: Hb. ירירע [‘ariyriy], “kết thúc dòng họ” 3. Đức Chúa Trời ban giao ước đời đời của Ngài về dòng dõi thuộc thể và thuộc linh của Ápram (C. 4-5; Sv. Ês. 55:10-11). (1) “trong gan ruột”: Hb. העמ [me‘ah], “ruột thịt” (2) “người kế nghiệp”: Hb. שׁרי [arash], “người kế tục dòng họ” (3) “đếm”: Hb. רפס [caphar], “xác định số lượng” 4. Được sự khải thị của Đức Chúa Trời, đức tin của Ápram gia tăng và Đức Chúa Trời đẹp ý kể Ápram là người công nghĩa (C. 6; Sv. Rô. 4:18; Hê. 11:1, 8-11). (1) “tin”: Hb. ןמא [‘aman], “hiểu biết, đồng ý, và kỳ vọng” (2) “công bình”: Hb. הקדצ [tsᵉdaqah], “phải lẽ” III. ÁP DỤNG 1. Chúng ta phải thận trọng trong việc nhận thức về đường lối của Đức Chúa Trời trên đời sống mình! “1Sau các việc đó, trong sự hiện thấy có lời Đức Giêhôva phán cùng Ápram rằng: Hỡi Ápram! Ngươi chớ sợ chi; Ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn. 2Ápram thưa rằng: Lạy Chúa Giêhôva, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Êliêse, người Đamách. 3Ápram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi” (Sáng. 15:1-3) 2. Sự phán hứa của Đức Chúa Trời là bất di, bất dịch vì Ngài là Đấng thành tín! “4Đức Giêhôva bèn phán cùng Ápram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi. 5Đoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy” (Sáng. 15:4-5) 3. Chúng ta phải sống đức tin, luôn trông cậy Đức Chúa Trời! “Ápram tin Đức Giêhôva, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sáng. 15:6) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỌ TẠO ĐỂ HIỂU BIẾT” (Xuất. 3:13-14) “13Môise thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Nầy, tôi sẽ đi đến dân Ysơraên, nói cùng họ rằng: Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi; nhưng nếu họ hỏi: Tên Ngài là chi? Thì tôi nói với họ làm sao? 14Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu; rồi Ngài lại rằng: Hãy nói cho dân Ysơraên như vầy: Đấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi” (Xuất. 3:13-14) I. KINH THÁNH “13Môise thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Nầy, tôi sẽ đi đến dân Ysơraên, nói cùng họ rằng: Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi; nhưng nếu họ hỏi: Tên Ngài là chi? Thì tôi nói với họ làm sao? 14Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu; rồi Ngài lại rằng: Hãy nói cho dân Ysơraên như vầy: Đấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi” (Xuất. 3:13-14) II. GIẢI NGHĨA 1. Người theo Chúa phải có phận sự học biết Chúa (C. 13; Sv. Xuất. 6:3; 1Phi. 3:15; 2Phi. 3:18a). (1) “đến cùng các ngươi”: Hb. אוב [bow’]; “lãnh đạo” (2) “của tổ phụ các ngươi”: Hb. בא [‘ab], “cha” (3) “Tên Ngài là chi?”: Hb. םשׁ [shem], “danh xưng” (Sv. 1Sa. 25:25) (4) “Nói với họ làm sao?”: Hb. רמא [‘amar], “trả lời” 2. Sự hiểu biết Chúa phải căn cứ chính trên sự khải thị của Chúa (C. 14a; Sv. Gióp 11:7; Phục. 29:29) (1) “Đức Chúa Trời phán”: Hb. רמא [‘amar], “bày tỏ” (2) “Tự Hữu Hằng Hữu”: Hb. היה היה [hayah hayah], “Ta là Ta” (Sv. Thi. 90:2; Ês. 44:6) 3. Thể theo sự hiểu biết Chúa, phải có sự xác tín về chức phận theo Chúa của mình (C. 14b; Sv. 1Phi. 4:10-11; Ma. 25:14-30; 1Cô. 15:58) (1) “Hãy nói cho Ysơraên”: Hb. רמא [‘amar], “phải giảng ra” (2) “sai ta đến”: Hb. חלשׁ [shalach], “công cử” III. ÁP DỤNG 1. Tất cả chúng ta đều có phận sự phải học biết Chúa! “Môise thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Nầy, tôi sẽ đi đến dân Ysơraên, nói cùng họ rằng: Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi sai ta đến cùng các ngươi; nhưng nếu họ hỏi: Tên Ngài là chi? Thì tôi nói với họ làm sao?” (Xuất. 3:13) “Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ” (2Phi. 3:18a) 2. Chúng ta chỉ có thể biết được Chúa nhờ sự tự khải thị của Chúa! “Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu…” (Xuất. 3:14a) “Những sự bí mật thuộc về Giêhôva Đức Chúa Trời chúng ta; song những sự bày tỏ thuộc về chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời, để chúng ta làm theo mọi lời của luật pháp nầy” (Phục. 29:29) 3. Phải trung tín trong chức phận theo Chúa của chúng ta! “… rồi Ngài lại rằng: Hãy nói cho dân Ysơraên như vầy: Đấng Tự Hữu đã sai ta đến cùng các ngươi” (Xuất. 3:14b) “10Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời. 11Ví bằng có người giảng luận, thì hãy giảng như rao lời sấm truyền của Đức Chúa Trời; nếu có kẻ làm chức gì, thì hãy làm như nhờ sức Đức Chúa Trời ban, hầu cho Đức Chúa Trời được sáng danh trong mọi sự bởi Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng được sự vinh hiển quyền phép đời đời vô cùng. Amen” (1Phi. 4:10-11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỌ TẠO CÁCH ĐẶC BIỆT” (Sáng. 2:7, 22; Sv. 18-25) “7Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh… 22Giêhôva Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Ađam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Ađam” (Sáng. 2:7, 22; Sv. 18-25) I. KINH THÁNH “7Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh… 22Giêhôva Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Ađam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Ađam” (Sáng. 2:7, 22; Sv. 18-25) II. GIẢI NGHĨA 1. Đức Chúa Trời trực tiếp tạo dựng phần vật chất (hữu hình) cho con người (C. 7a). (1) “bụi đất”: Hb. רפע ןמ המדא [‘aphar min ‘adamah], “đất bột” (2) “nắn”: Hb. רצי [yatsar], “tạo hình” (3) “hình người”: Hb. םדא [‘adam], “người” 2. Đức Chúa Trời cũng trực tiếp chia sẻ sinh khí của Ngài để tạo dựng phần phi vật chất (vô hình) cho con người (C. 7b). (1) “hà”: Hb. חפנ [naphach], “thổi qua” (2) “sinh khí”: Hb. המשׁנ יח [nᵉshamah chay], “thần khí” (3) “loài sanh linh”: Hb. יח שׁפנ [chay nephesh], “sinh vật có linh hồn” 3. Con người chỉ có hai giống đực và cái và mối quan hệ giữa hai giống là mối quan hệ thân thiết (C. 22). (1) “xương sườn”: Hb. עלצ [tsela‘], “bên cạnh” (2) “làm nên”: Hb. הנב [banah], “tạo ra” (3) “người nữ”: Hb. השׁא [‘ishshah], “đàn bà” III. ÁP DỤNG 1.Phương tiện trung gian để tạo ra con người là do Đức Chúa Trời qui định! “Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người…” (Sáng. 2:7a) “Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm” (Thi. 139:14) “Hỡi Đức Giêhôva, dầu vậy, bây giờ Ngài là Cha chúng tôi! Chúng tôi là đất sét, Ngài là thợ gốm chúng tôi; chúng tôi thảy là việc của tay Ngài” (Ês. 64:8) 2. Con người là sinh vật duy nhất được chia sẻ thần khí của Đức Chúa Trời và thuộc về Đức Chúa Trời cách đặc biệt! “… hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh” (Sáng. 2:7b) “Phải biết rằng Giêhôva là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài” (Thi. 100:3) 3. Con người chỉ có hai giống và quan hệ giữa hai giống là mối quan hệ có trật tự và thân thiết! “Giêhôva Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Ađam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Ađam” (Sáng. 2:22) “8Bởi chưng không phải đàn ông ra từ đàn bà, bèn là đàn bà ra từ đàn ông; 9không phải đàn ông vì cớ đàn bà mà được dựng nên, bèn là đàn bà vì cớ đàn ông vậy” (1Cô. 11:8-9) “Vì Ađam được dựng nên trước nhứt, rồi mới tới Êva” (1Ti. 2:13) “Song trong Chúa thì chẳng phải đàn bà ngoại đàn ông, cũng chẳng phải đàn ông ngoại đàn bà” (1Cô. 11:11) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỌ TẠO CÓ MỤC ĐÍCH” (Sáng. 1:26-28) “26Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng Ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. 27Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. 28Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất” (Sáng. 1:26-28) I. KINH THÁNH “26Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng Ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. 27Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. 28Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất” (Sáng. 1:26-28) II. GIẢI NGHĨA 1. Theo sự định mạng Thiên Thượng, loài người được chỉ định làm đại biểu của Đức Chúa Trời trong việc quan hệ với giới thọ tạo của Ngài (C. 26). (1) “hình Ta”: Hb. םלצ [tselem], “hình ảnh Thiên Thượng” (2) “tượng Ta”: Hb. תומד [dᵉmuwth], “sự tương đồng với Thiên Thượng” (3) “quản trị”: Hb. הדר [radah], “nắm quyền điều khiển” 2. Loài người gồm hai giống đực và cái, họ đều được mang hình ảnh Thiên Thượng, được hưởng sự vinh quang của Đức Chúa Trời (C. 27) (1) “người nam”: Hb. רכז [zakar], “giống đưc” (2) “người nữ”: Hb. הבקנ [nᵉqebah], “giống cái” (3) “dựng nên”: Hb. ארב [bara’], “tạo ra” a. “như hình Ngài”: Theo hình ảnh của Ngài. b. “giống như hình Đức Chúa Trời”: Có sự vinh quang của Đức Chúa Trời (Sv. 1Cô. 11:7). 3. Loài người được ban phước để phát triển dòng dõi, gia tăng ảnh hưởng, chiếm ưu thế đối với mọi sự, làm chủ trên mọi sự vì đã được định mạng nắm quyền điều khiển cả thế gian trong cương vị là đại biểu của Đức Chúa Trời (C. 28). (1) “ban phước”: Hb. ךרב [barak] a. “sanh sản”: Hb. הרפ [parah], “phát triển dòng dõi” b. “thêm nhiều”: Hb. הבר [rabah], “gia tăng ảnh hưởng” c. “đầy dẫy”: Hb. אלמ [male’], “chiếm ưu thế” d. “phục tùng”: Hb. שׁבכ [kabash], “làm chủ” (2) “quản trị”: Hb. הדר [radah], “nắm quyền điều khiển” (Sv. Hê. 2:7-8) III. ÁP DỤNG 1. Chúng ta phải hoàn thành chức năng đại biểu của Đức Chúa Trời! “Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng Ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất” (Sáng. 1:26) 2. Chúng ta phải sống phản ánh vinh quang của Đức Chúa Trời! “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sáng. 1:27) 3. Chúng ta phải gìn giữ các phước hạnh được Đức Chúa Trời ban! “Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất” (Sáng. 1:28) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THỜ PHƯỢNG CÓ NGUYÊN TẮC” (1Cô. 14:36-37; Sv. C. 33; 1Cô. 11:16) “36Có phải là Đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng? 37Nếu ai tưởng mình là Tiên Tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa” (1Cô. 14:36-37; Sv. C. 33; 1Cô. 11:16) I. KINH THÁNH “36Có phải là Đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng? 37Nếu ai tưởng mình là Tiên Tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa” (1Cô. 14:36-37; Sv. C. 33; 1Cô. 11:16) II. GIẢI NGHĨA 1. Đạo của Đức Chúa Trời luôn có chuẩn mực phổ quát và bất biến! (C. 36). (1) “chỉ”: Gr. μόνος [monos]; “duy nhất” (2) “ra từ”: Gr. ἐξέρχομαι [exerchomai]; nói về “xuất phát điểm” (3) “đến cùng”: Gr. εἰς [eis]; nói về “đích điểm” 2. Không phải chỉ tự nhận nhân thân hầu việc của mình là đủ mà phải tra xét và chịu sự tra xét về nhân thân của mình cách thấu đáo! (C. 37a). (1) “Tiên Tri”: Gr. προφήτης [prophetes]; “người tiên báo về ý chỉ của Đức Chúa Trời theo ý chỉ của Ngài” (2) “được Đức Thánh Linh soi sáng”: Gr. πνευματικός [pneumatikos]; “được Đức Thánh Linh dắt dẫn hoàn toàn” 3. Người hầu việc Chúa phải luôn luôn tuân thủ Lời của Chúa! (C. 37b). (1) “điều tôi viết”: Gr. γράφω [grapho]; “trước thuật” (Sv. 2Ti. 3:16-17; 2Phi. 1:20-21) (2) “mạng lịnh”: Gr. ἐντολή [entole]; “điều đã được định rằng phải thi hành” III. ÁP DỤNG 1. Khuôn phép của Đạo của Đức Chúa Trời là phổ quát và bất biến! “Có phải là Đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng?” (1Cô. 14:36) 2. Không được mạo nhận và lạm quyền để đưa ra khuôn phép thờ phượng! “Nếu ai tưởng mình là Tiên Tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng…” (1Cô. 14:37a) 3. Khuôn phép cho đời sống thờ phượng phải bám sát Lời của Đức Chúa Trời! “…thì người ấy hãy biết rằng điều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa” (1Cô. 14:37b) Chẳng hạn… (1) Nguyên Tắc "Giữ Phận Thọ Tạo" (Rô. 9:20) (2) Nguyên Tắc "Trông Cậy Ân Điển" (Êph. 2:8) (3) Nguyên Tắc "Tìm Kiếm Yêu Thương" (1Gi. 4:16) (4) Nguyên Tắc "Đáp Ứng Tích Cực" (Rô. 12:1) (5) Nguyên Tắc "Bày Tỏ Trung Thực" (1Sa. 16:7) (6) Nguyên Tắc "Dâng Mình Hết Sức" (Thi. 139:23) (7) Nguyên Tắc "Sống Thờ Phượng Thật" (Rô. 12:2) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |