“SỰ CHIẾU CỐ CỦA THẬP TỰ GIÁ” (Lu. 23:26-49) “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu. 23:34) Theo như những điều đã được Đức Chúa Trời định đoạt (Sv. Công. 4:27-28), việc xử đóng đinh Đức Chúa Jêsus là một sự hoàn thành lời tiên tri (Sv. Xa. 12:10; 13:6; Thi. 22:16-17; Ma. 20:19; 26:2). Tránh không để cho chúng ta biết về các chi tiết đau thương, sự trước thuật trong Kinh Thánh chỉ viết rằng “Họ đóng đinh Ngài…” (Lu. 23:33). Những gì Đức Chúa Jêsus đã nếm trải do bàn tay kẻ ác trong việc cáo kiện và đóng đinh Ngài không hề có chút đóng góp nào vào công trình đền tội thay của Ngài cả mà chỉ tỏ rõ trạng thái thuộc linh và sự kết án công bình đối với những kẻ có liên quan đến tội ác tàn khốc này (Sv. Công. 4:27; Lu. 2:35). Khi Đức Chúa Trời thực hiện công trình vĩ đại nhất của Ngài qua việc để cho Con Ngài làm sinh tế trên thập tự giá tại đồi Gôgôtha, Ngài có một mối quan tâm tối hậu cần phải hoàn thành, vừa thỏa mãn được đức công nghĩa, vừa thực hiện được tình yêu thương đối với nhân loại của Ngài. I. THẬP TỰ GIÁ “Cây thập tự”, hay “thập tự giá”, trong Tiếng Hylạp là σταυρός [stauros] và hình thức xử tử hình bằng cách đóng đinh trên cây thập tự được gọi là σταυρόω [stauroo]; tức là người bị xử sẽ bị đóng đinh ở tay và chân vào các phần tương ứng của hai thanh gỗ ghép lại với nhau thành hình chữ thập, sau đó được dựng lên tại nơi hành hình cho đến chết. Từ liệu “thập tự giá” được sử dụng trong Kinh Thánh theo ba nghĩa: (1) Nói về một công cụ bằng gỗ hình chữ thập dùng trong việc hành hình: “Khi chúng điệu Đức Chúa Jêsus đi, bắt một người xứ Syren, tên là Simôn, từ ngoài đồng về, buộc phải vác cây thập tự theo sau Ngài” (Lu. 23:26); (2) Nói hình bóng về sự cứu chuộc nhờ công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ trên cây thập tự theo nghĩa (1) nói trên: “Bởi vì lời giảng về thập tự giá, thì những người hư mất cho là điên dại; song về phần chúng ta, là kẻ được cứu chuộc, thì cho là quyền phép của Đức Chúa Trời” (1Cô. 1:18); (3) Nói về sự chết trên cây thập tự theo nghĩa (1) nói trên: “Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy” (Gal. 6:12). Trong câu Kinh Thánh này, từ liệu “thập tự giá” đi trước mang nghĩa (2), trong khi từ liệu “thập tự giá” sau đó mang nghĩa (3). “Ai không vác cây thập tự mình mà theo Ta, thì cũng chẳng đáng cho Ta.” (Ma. 10:38); “Nếu ai muốn theo Ta, phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta.” (Mác 8:34)… Từ liệu “cây thập tự”, “thập tự giá” trong các câu Kinh Thánh này trông có vẻ như mang một ý nghĩa khác; thật ra chỉ là ý nghĩa (2) mà thôi: Đã tin theo Chúa, phải biết sống đời sống xứng hiệp với sự cứu chuộc mà Đức Chúa Jêsus Christ đã thực hiện cho mình; phải luôn luôn biết làm trọn sự kêu gọi của Đức Chúa Trời trên đời sống mình. “Cây thập tự”, hay “thập tự giá”, trong Tiếng La Tinh là crux. Có bốn kiểu dáng cơ bản của “thập tự giá” bằng gỗ: (1) “Thập tự giá immissa”: Hai thanh gỗ ghép lại với nhau theo góc vuông, phần trên đầu ngắn nhất, phần thân đứng dài nhất. (2) “Thập tự giá commissa”: Có hình chữ “T”, tức không có đầu nhô lên trên thanh ngang, còn được gọi là “Thập tự giá của thánh Anthony”. (3) “Thập tự giá Hy Lạp”: Hai thanh gỗ ghép chéo góc vuông với nhau và có các phần dài bằng nhau. (4) “Thập tự giá decussata”: Có hình chữ “X”, còn được gọi là “Thập tự giá của thánh Andrew”. II. NỖI THỐNG KHỔ TRÊN THẬP TỰ GIÁ VÀ SỰ CHIẾU CỐ TỪ THẬP TỰ GIÁ Xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá là một hình thức hành hình dã man nhất từ xưa đến nay. Hình thức hành hình này đã từng được thi hành, nhất là trong các giai đoạn chiến tranh, bởi người Phoenix, Carthage, Ai Cập, và sau đó là người La Mã. Hình thức xử tử hình bằng cách đóng đinh đáng kinh sợ đến nỗi, ngay cả trước kỷ nguyên Cơ Đốc, người ta đã thường dùng nó để nói về hiểm họa lớn nhất đối với sự sống. Việc xử tử hình bằng cách đóng đinh khủng khiếp đến nỗi luật La Mã cấm không được áp dụng hình án này cho các công dân La Mã mà chỉ áp dụng cho dân của các xứ bị trị mà thôi. Nỗi thống khổ của người bị xử tử hình bằng cách đóng đinh thường kéo dài trong các trạng thái đau đớn, dày vò: (1) Sự nhức nhối không tả hết của những vết thương trên các phần thân thể đã bị xuyên thủng; (2) Vị trí bị treo một cách không bình thường trong một tình trạng hết sức nghiệt ngã, mỗi cử động nhỏ đều khiến nạn nhân phải bị đau đớn cao độ; (3) Trạng thái sốt cao khắp toàn thân do bị treo trong một thời gian lâu. Trong 1Cô. 1:18, “Lời giảng về thập tự giá” (Gk. euaggelizo) bị những người còn đang hư mất cho là “điên dại”, trái với sự khôn ngoan của người đời. Trong Êph. 2:16, “thập tự giá” được kể là phương tiện của sự phục hòa giữa Đức Chúa Trời với nhân loại: “Bởi thập tự giá Ngài đã làm cho sự thù nghịch tiêu diệt, nên nhờ thập tự giá đó Ngài khiến cả hai hiệp thành một thể, mà làm hòa thuận với Đức Chúa Trời.”. Sở dĩ có được như vậy là vì “thập tự giá” đã cất bỏ đi án phạt mà tội nhân phải trả theo Luật Pháp: “Ngài đã xóa tờ khế lập nghịch cùng chúng ta, các điều khoản trái với chúng ta nữa, cùng hủy phá tờ khế đó mà đóng đinh trên cây thập tự.” (Côl. 2:14). Làm thế nào mà một người La Mã như Phaolô, vốn xem kẻ bị xử tử hình bằng cách đóng đinh là một người đáng bị miệt thị (Sv. 1Cô. 1:18); và Phaolô trên góc độ một chức sắc Do Thái Giáo, vốn xem người bị xử tử hình bằng cách đóng đinh là đáng bị rủa (Sv. Gal. 3:13) lại có thể “Khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.” (Gal. 6:14)? Đây chính là một sự thay đổi bi hùng mang tính lịch sử vốn đã diễn ra trong đời sống của các vị Sứ Đồ vì họ nhận biết Đấng bị xử tử hình trên thập tự giá là Chúa Cứu Thế đến từ Đức Chúa Trời: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.” (Gal. 2:20). Khi Đức Chúa Jêsus bị xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, cơ chế vật lý nào diễn ra trong sự chết của Ngài? Người ta đã từng có các cuộc nghiên cứu y khoa nhằm giải đáp cho câu hỏi ấy. Khi một người bị treo lơ lửng bằng cách đóng đinh như thế, máu sẽ tuôn ra qua các vết thương và lượng máu của cơ thể sẽ cứ thế mà giảm đi. Chỉ trong vòng từ sáu đến mười hai phút đầu tiên, áp huyết của nạn nhân sẽ hạ chỉ còn một nửa, trong khi đó thì nhịp tim lại tăng lên gấp đôi. Tim sẽ dần dần cạn máu, và người bị hành hình sẽ rơi vào trạng thái bị kích ngất. Cái chết sẽ đến với nạn nhân nhanh hay chậm tùy theo trạng thái suy tim của từng người. Thông thường, việc ấy xảy ra không lâu hơn hai hoặc ba ngày. Theo thông lệ, cái chết của nạn nhân bị xử tử hình bằng cách đóng đinh sẽ được gia tốc bằng việc đánh gãy xương ống chân nạn nhân vào thời điểm kết thúc cuộc hành hình; nhưng điều ấy đã không xảy ra đối với Đức Chúa Jêsus: “Khi quân lính đến nơi Đức Chúa Jêsus, thấy Ngài đã chết rồi, thì không đánh gãy ống chân Ngà.i” (Gi. 19:13). Nỗi đau đớn thân xác mà Đức Chúa Jêsus đã phải chịu trên thập tự giá là rất lớn lao, chúng ta không cần phải nhấn mạnh mà cũng không thể nào cường điệu được, vì đó là sự thật. Sự chết thuộc thể mà Đức Chúa Jêsus đã phải chịu trên thập tự giá trong nhân trạng của Ngài cũng là một sự thật hiển nhiên không thể bác bỏ được, nhưng chúng ta không nên nhấn mạnh nhiều đến cơ chế vật lý của sự chết Ngài vì Kinh Thánh cho chúng ta biết được rằng sự chết của Đức Chúa Jêsus độc đáo ở chỗ Ngài chủ tâm đổ sự sống của mình ra để vâng lời Đức Chúa Trời: “Chẳng có ai cất sự sống Ta đi, nhưng tự ta phó cho; Ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại; Ta đã lãnh mạng lịnh nầy nơi Cha Ta.” (Gi. 10:18). Khi Đức Chúa Jêsus chịu xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, nỗi đau nào lớn nhất đối với Ngài? Theo sự trước thuật của Mathiơ và Mác, linh hồn thống khổ Ngài chính là thống khổ linh hồn Ngài vì trong giờ phút đền tội thay cho cả nhân loại, mối tương liên đời đời trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời đã tạm thời phân cách và đó chính là kinh nghiệm đau thương nhất mà Đức Chúa Jêsus phải chịu trong nhân thể: “45Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. 46Ước chừng giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Êli, Êli, lamasabáchtani? Nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?... 50Đức Chúa Jêsus lại kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn.” (Ma. 27:45-46, 50; Sv. Mác 15:33-34, 37). Khi Đức Chúa Jêsus chịu xử tử hình bằng cách đóng đinh trên thập tự giá, mối quan tâm hàng đầu của Ngài là gì? Theo sự trước thuật của Luca: “Đức Chúa Jêsus cầu rằng: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì…” (Lu. 23:34). Cần nên chú ý rằng cho đến thời điểm này, Đức Chúa Jêsus chưa bao giờ phải cậy đến Đức Chúa Cha để tha tội. Ngài đã luôn luôn tự chứng rằng chính Ngài có quyền tha tội: “Ngài bèn phán cùng người đàn bà rằng: Tội lỗi ngươi đã được tha rồi.” (Lu. 7:48). “5Đức Chúa Jêsus thấy đức tin họ, bèn phán cùng kẻ bại rằng: Hỡi con Ta, tội lỗi ngươi đã được tha…6Vả, có mấy thầy thông giáo ngồi đó, nghĩ thầm rằng: 7Sao người nầy nói như vậy? Người nói phạm thượng đó! Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng?” (Mác 2:5-7). Bằng việc kêu lên rằng “Lạy Cha, xin tha cho họ…”, Đức Chúa Jêsus khải thị cho chúng ta biết được một trong các phương diện chính của sự đền tội thay trên thập tự giá của Ngài: Ngài tự đồng hóa mình với nhân loại để kêu cầu sự tha tội thay cho họ! Luận điểm này hoàn toàn hợp Kinh Thánh khi chúng ta chú ý đến lời phán “Mọi việc đã được trọn” của Đức Chúa Jêsus trước khi Ngài trút linh hồn: “Khi Đức Chúa Jêsus chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng: Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn.” (Gi. 19:30). Với việc kêu lên rằng “Lạy Cha, xin tha cho họ…”, chúng ta cần chú ý rằng Đức Chúa Jêsus đã không cầu xin bất cứ điều gì khác ở đây. Ngài đã không cầu xin sự giàu có cho các cá nhân ấy. Ngài đã không cầu xin sự thịnh vượng cho họ. Ngài đã không cầu xin cho họ có sự khát khao nên thánh trong lòng… Ngài quan tâm trước tiên đến nhu cần được tha tội của nhân loại vì đó mới chính là nhu cần lớn nhất và trước hết: Chỉ khi nào nợ tội được trả, án tội được tha, ách tội được thoát, nhiên hậu mới cần đến những điều khác, và những điều khác ấy mới được bền vững, thực sự hữu ích. Được tha tội, được phục hồi địa vị công nghĩa trước mặt Đức Chúa Trời là nhu cần lớn nhất của của nhân loại: “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma. 6:33). Chúng ta sẽ làm gì vào những khi người khác đối xử cay nghiệt với chúng ta? Liệu chúng ta có thể lập tức cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ cho họ hay là chúng ta sẽ lập tức rủa thầm họ? Trong bản chất người, rủa sả dễ thực hiện hơn là cầu nguyện xin sự tha thứ. Thực tế này giúp chúng ta nhận ra được sự thể hiện thần tính của Đức Chúa Jêsus ngay giữa khi Ngài chịu hành hạ hết sức quá quắc: “6Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội. 7Vả, họa mới có kẻ chịu chết vì người nghĩa; dễ thường cũng có kẻ bằng lòng chết vì người lành. 8Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô. 5:6-8); “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình.” (Gi. 15:13). Trong giờ phút cuối cùng của Samsôn, Samsôn đã cầu nguyện cho mình trước, và sau đó đã thẳng tay hủy phá kẻ thù mình: “28Bấy giờ, Samsôn kêu cầu Đức Giêhôva mà rằng: Chúa Giêhôva ôi! Xin Ngài nhớ lại tôi. Hỡi Đức Chúa Trời! Xin ban sức lực cho tôi chỉ lần này thôi, hầu cho tôi báo thù dân Philitin về sự mất hai con mắt tôi. 29Samsôn vớ lấy hai cây cột ở chính giữa đỡ chịu cái đền, một cây ở bên hữu và một cây ở bên tả, nhận vào, mà rằng: Nguyện tôi chết chung với dân Philitin! Đoạn người rán hết sức, xô hai cây cột, đền đổ xuống trên các quan trưởng và cả dân sự ở đó. 30Ấy vậy, trong lúc chết, Samsôn giết nhiều người hơn là giết trong khi còn sống” (Quan. 16:28-30). Ngay cả đến vị thánh đồ tử đạo đầu tiên cho niềm tin Cơ Đốc cũng chưa hoàn toàn noi theo gương Đức Chúa Jêsus trên phương diện này được. Êtiên đã cầu nguyện cho chính mình trước khi cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ cho những kẻ bách hại mình: “59Chúng đang ném đá, thì Êtiên cầu nguyện rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, xin tiếp lấy linh hồn tôi. 60Đoạn, người quì xuống, kêu lớn tiếng rằng: Lạy Chúa, xin đừng đổ tội này cho họ! Người vừa nói lời đó rồi, thì ngủ.” (Công. 7:59-60). Tự cổ chí kim, chỉ duy nhất Đức Chúa Jêsus là dành ưu tiên hàng đầu cho việc cầu xin sự tha thứ cho tha nhân (Sv. Lu. 23:34), sau đó mới đến việc cầu nguyện cho chính mình (Sv. Lu. 23:46), vì đó là sự quan tâm của thập tự giá, sự quan tâm tối hậu của công trình đền tội thay của Ngài: “Bởi Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu. 19:10). “Nầy là huyết Ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội.” (Ma. 26:28). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Comments are closed.
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |