“PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ CÓ LÒNG ĐÓI KHÁT” (Ma. 5:1-3) “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus về “Các Phước Lành” vĩnh viễn là một núi kim cương hùng vĩ, lấp lánh các nguyên lý Thiên Đàng. Mỗi khi tiếp cận phân đoạn Kinh Thánh này (Ma. 5:1-12), với sự hiểu biết thô thiển và kinh nghiệm ít oi của bản thân, tôi luôn thấy mình chỉ như một đứa bé, choáng ngợp trước vô vàn tia sáng phản chiếu vinh quang Thiên Thượng. Tôi muốn lĩnh hội sao cho được trọn vẹn nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn diễn đạt cho sao cho thật khúc chiết để làm ích nhiều nhất cho đàn chiên nhỏ bé mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi chăm nuôi nhưng, đáng thương thay, cũng chỉ là những lời thô thiển, tầm thường… Ước ao rằng chính Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ cho người đọc có được những sự nội kiến đẹp ý Đức Chúa Trời; còn những gì được viết ra đây chỉ là chỗ dựa cho sự tri giác, giúp cho sự suy gẫm được thuận lợi hơn… “Tolle lege, tolle lege” (“Cứ đọc đi! Cứ đọc đi!”) [St. Augustine, 354-430] (Mục Sư Đoàn Nhật Tân, Tháng Mười 2006) Đối với một con người thiên nhiên, “Bài Giảng Trên Núi” của Đức Chúa Jêsus dễ khiến họ cảm thấy bối rối. Hễ khi nào chúng ta còn cậy mình, Đức Chúa Trời vẫn còn để cho sự yếu đuối của chúng ta phô bày ra. Chỉ khi nào chúng ta, bởi ơn của Đức Chúa Trời, biết đến với Ngài y theo thân phận cùng khốn của mình và xin tiếp nhận Ân Điển của Ngài, chúng ta mới được Ngài ban phước cho: “1Đức Chúa Jêsus xem thấy đoàn dân đông, bèn lên núi kia; khi Ngài đã ngồi, thì các môn đồ đến gần. 2Ngài bèn mở miệng mà truyền dạy rằng: 3Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy! (Ma. 5:1-3). A. “NƯỚC THIÊN ĐÀNG” “Nước” hay “Vương Quốc” thường có ba ý nghĩa chính: (1) Sự trị vì của một vị Quốc Vương; (2) Dân Sự và lãnh địa thuộc về một vị Quốc Vương; (3) Sự thụ hưởng cá nhân dưới sự trị vì của một Quốc Vương. “Nước Thiên Đàng” hay “Vương Quốc Đức Chúa Trời” được đề cập trong Kinh Thánh là một khái niệm diễn đạt bằng Tiếng Hêbơrơ hay Hylạp có đầy đủ cả ba ý nghĩa kể trên, nhất là trong Kinh Thánh Tân Ước. I. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Sự Trị Vì Của Đức Chúa Trời. Sự đề cập sớm nhất trong Kinh Thánh về “Nước Thiên Đàng” được tìm thấy trong Sách Đaniên: “Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một Nước không bao giờ bị hủy diệt, quyền Nước ấy không bao giờ để cho một dân tộc khác; song nó sẽ đánh tan và hủy diệt hết các nước trước kia, mà mình thì đứng đời đời” (Đa. 2:44). Tuy nhiên, “Nước Thiên Đàng” không phải chỉ thuần túy là sự điều hành trừu tượng. “Nước Thiên Đàng” là sự trị vì của Đức Chúa Trời một cách đầy quyền năng để phá diệt mọi điều ác và cứu chuộc tội nhân. Đức Chúa Jêsus nhất định sẽ trị vì như là Quốc Vương của “Nước Thiên Đàng” sau khi Ngài đã diệt trừ xong các kẻ thù của mình, trong đó kẻ thù cuối cùng là sự chết, sau đó Ngài sẽ dâng “Nước Thiên Đàng” lên cho Đức Chúa Cha (1Cô. 15:24-26). Theo nghĩa này, “Nước Thiên Đàng” sẽ đến trong quyền năng và sự vinh hiển của sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus để kết thúc tiến trình diệt trừ các kẻ thù của Ngài. Nhờ các kết quả đã có được cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta là những người tin theo Đức Chúa Jêsus đã có thể hưởng được một phần các phước hạnh của “Nước Thiên Đàng” trong khi mong đợi được hưởng các phước hạnh lớn lao hơn khi Đức Chúa Jêsus tái lâm. II.“Nước Thiên Đàng” Nói Về Dân Sự Và Lãnh Thổ Thuộc Về Đức Chúa Trời. Kinh Thánh Tân Ước cũng dùng phạm trù “Nước Thiên Đàng” để chỉ về Dân Sự của Đức Chúa Trời, tức những người đã được Đức Chúa Trời cứu chuộc bằng công trình đền tội thay của Đức Chúa Jêsus: “Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên Nước Ngài, nên Thầy Tế Lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài…” (Khải. 1:6). “Ngài đã làm cho những người ấy nên Nước, và Thầy Tế Lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta; những người ấy sẽ trị vì trên mặt đất” (Khải. 5:10). Hiện nay chương trình cứu cuộc của Đức Chúa Trời chưa kết thúc, Dân Sự Ngài còn chịu sự phối thuộc tư cách công dân với các nước của thế gian. Trong tương lai, khi chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời hoàn tất, “Nước Thiên Đàng” sẽ là một thực thể có lãnh thổ (Khải. 21:1-27). III. “Nước Thiên Đàng” Nói Về Sự Thụ Hưởng Cá Nhân Dưới Sự Trị Vì Của Đức Chúa Trời. Sự thụ hưởng cá nhân trong “Nước Thiên Đàng” vừa vốn có trong quá khứ, đang có trong hiện tại, và sẽ còn đến trong tương lai. Lời rao báo sớm nhất trong Kinh Thánh Tân Ước về “Nước Thiên Đàng” là lời của Giăng Báptít: “Các ngươi phải ăn năn, vì Nước Thiên Đàng đã đến gần” (Ma. 3:2). Mệnh lệnh về một tấm lòng “ăn năn” là sứ điệp xuyên suốt để được hưởng “Nước Thiên Đàng”: “Từ lúc đó, Đức Chúa Jêsus khởi giảng dạy rằng: Các ngươi hãy ăn năn, vì Nước Thiên Đàng đã đến gần” (Ma. 4:17). “Nước Thiên Đàng” được giới thiệu cho thế gian qua mục vụ của Giăng Báptít, và phải được nhận thức, theo đuổi bằng sự quyết tâm. Sự hai lòng, giả hình của người Pharisi, dầu rằng theo dòng giống thì họ là người được thừa kế, không cho phép “Nước Thiên Đàng” hiện hữu trong lòng họ một cách tự động được: “Luật Pháp và các Lời Tiên Tri có đến đời Giăng mà thôi; từ đó, Tin Lành của Nước Đức Chúa Trời được truyền ra, và ai nấy dùng sức mạnh mà vào đó” (Lu. 16:16; Gk. βιάζω [biazo] = dốc lòng, dốc sức). Trên một phương diện, “Nước Thiên Đàng” chính là kinh nghiệm bản thân về sự điều khiển, dắt dẫn của Đức Chúa Trời trên đời sống cá nhân. Dầu rằng “Nước Thiên Đàng” đã được mở ra trên đất, nhưng để hưởng được “Nước Thiên Đàng” người ta phải mở cửa lòng mình ra để đón nhận: “Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời” (Gi. 3:3). Trên phương diện là sự thụ hưởng cá nhân dưới sự trị vì của Đức Chúa Trời, “Nước Thiên Đàng” là năng lực cảm thụ và đáp ứng với quyền năng Thiên Thượng chứ không phải chỉ là chữ nghĩa, văn tự: “Vì nước Đức Chúa Trời chẳng phải ở tại lời nói, mà ở tại năng lực” (1Cô. 4:20). Đó chính là sự dạy dỗ trong lời phán của Đức Chúa Jêsus trong “Bài Giảng Trên Núi”: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì Nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy” (Ma. 5:3). B. “KẺ CÓ LÒNG KHÓ KHĂN” Trong Định Kỳ Hội Thánh, “Nước Thiên Đàng” chỉ về trạng thái một cá nhân đầu phục hoàn toàn theo sự dắt dẫn của Thánh Linh Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Đức Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức Chúa Trời” (Gi. 3:5). Khi vua Salômôn làm vua dân Ysơraên, Đức Chúa Trời hứa ban bất cứ điều gì ông xin. Thay vì xin sự giàu sang, quyền lực; Salômôn đã xin Đức Chúa Trời sự khôn ngoan. Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu xin ấy và ban cho vua Salômôn sự khôn ngoan. Với sự khôn ngoan từ nơi Đức Chúa Trời, mọi sự khác đều đã đến với vua Salômôn. Đó là một hình ảnh cho thấy tác dụng phi thường của một tấm lòng “khó khăn”. “Có lòng khó khăn” là nhận thức được sự thiếu kém của mình và biết nương cậy Đức Chúa Trời trong tất cả mọi sự. Nhờ vậy, kẻ “có lòng khó khăn” sẽ được ban cho “Nước Thiên Đàng”. Ai biết lấy Đức Chúa Trời làm lẽ sống của mình sẽ được Ngài ban cho tất cả để sống. Các nhân vật Kinh Thánh đã biểu lộ “lòng khó khăn” của họ như thế nào, và làm thế nào để chúng ta thực sự có “lòng khó khăn” để có thể thừa hưởng được “Nước Thiên Đàng”? I. “Lòng Khó Khăn” Phải Thường Trực. Khi dân Ysơraên rời khỏi xứ Aicập, họ đã mang theo một phần sự giàu có của Aicập mà Đức Chúa Trời cho phép họ đòi hỏi như tiền công cho những năm dài phục dịch (Xuất. 11:2; Thi. 105:37). Tuy nhiên, tình trạng sung túc tài chính ấy đã không giải quyết nổi vấn đề thiếu nước uống của họ trong sa mạc. Tiền bạc là một việc, nhưng thức ăn, nước uống trong sa mạc lại hoàn toàn là một việc khác. Lúc ấy, dân Ysơraên thừa tiền của nhưng lại thiếu nước để sống. Nếu không có sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời, sự sống của họ đã phải giã từ sự giàu có để ra đi. Vào mỗi buổi sớm mai, Đức Chúa Trời đã ban cho họ Mana, một loại thức ăn từ trời rơi xuống sáu ngày mỗi tuần. Dân Sự chỉ được phép nhặt một số lượng đủ dùng cho mỗi ngày. Số Mana dùng còn thừa sẽ trở nên hư thối, hóa sâu bọ trong ngày tiếp theo (Xuất. 16:16-21). Tuy nhiên, vào ngày (Thứ Sáu) trước ngày Sabát, họ được phép thu nhặt nhiều gấp đôi ngày thường (Xuất. 16:22-24). Bằng việc qui định như thế, Đức Chúa Trời dạy cho Dân Sự Ngài biết nương cậy nơi Ngài mỗi ngày. Sự cung ứng Mana của Đức Chúa Trời cho dân Ysơraên dạy cho chúng ta biết thế nào là “có lòng khó khăn”. Đức Chúa Trời muốn chúng ta: (1) Trực tiếp nhận từ nơi Ngài sự đáp ứng thuộc linh; (2) Biết rằng sự đáp ứng thuộc linh là nhu cần hàng ngày và phải được nhận mỗi ngày; (3) Phải có sự chuẩn bị thuộc linh cho sự yên nghỉ trong Ngài. Thử tưởng tượng, bầu không khí thuộc linh trong Hội Thánh mỗi Chúa Nhật sẽ tốt đẹp biết bao nếu mọi người trong Hội Thánh đều chuẩn bị lòng mình cho Lời Chúa, cho sự cầu nguyện, cho sự thờ phượng,… ngay từ ngày (Thứ Bảy) hôm trước? Có được như thế, buổi thờ phượng Chúa Nhật của chúng ta sẽ được sự hiện diện đầy quyền năng của Đức Thánh Linh. Ngược lại, nếu Dân Sự chỉ biết dành duy nhất ngày Chúa Nhật để gặp gỡ với Đức Chúa Trời cho cả tuần lễ, sự kinh nghiệm Chúa của họ sẽ lập tức bị thui chột ngay vào ngày hôm sau theo cùng một cách mà ngày xưa Mana đã bị phân hủy! Chúng ta được dạy phải biết chuẩn bị thích đáng cho sự giao ngộ với Đức Chúa Trời của mình. II. “Lòng Khó Khăn” Phải Tích Cực. Sự nương cậy nơi Đức Chúa Trời là một nổ lực tích cực của ý chí, không phải chỉ là phản ứng có điều kiện theo cảm xúc. Đaniên là một con người thực sự “có lòng khó khăn”. Nhu cần tương giao với Đức Chúa Trời của Đaniên lớn không có gì ngăn cản nổi. Chính những người chống đối Đaniên biết rõ điều đó và họ đã tâu xin vua ban một sắc lệnh cấm không được cầu nguyện với bất cứ thần nào khác trong thời hạn ba mươi ngày. Đúng như mưu tính của những kẻ gian ác, Đaniên đã không bỏ sự cầu nguyện với Đức Chúa Trời của mình và đã bị ném vào hang sư tử để trừng phạt. “Có lòng khó khăn” là có cả Thiên Đàng với muôn thiên binh, thiên sứ và Đức Chúa Trời mình! Đaniên đã được bình an vô sự trước lũ sư tử đói mồi, khát máu. Đã bao giờ chúng ta bị đặt vào hoàn cảnh khó khăn như Đaniên chưa? Liệu chúng ta “có lòng khó khăn” như Đaniên không? Sự nương cậy đúng nghĩa nơi Đức Chúa Trời phải là một sự nương cậy chân thực. Sách Mác Chương10 trước thuật về một người trai trẻ, giàu có được kể là đã giữ mọi điều Luật Pháp đòi hỏi “từ khi còn nhỏ” (Mác 10:20), được chính Đức Chúa Jêsus xem như chỉ “còn thiếu một điều” (Mác 10:21) nhưng đã thất bại trong việc nắm bắt “sự sống đời đời” (Mác 10:17) vì người này “có nhiều của lắm” (Mác 10:22). Chính các môn đồ của Đức Chúa Jêsus cũng không tự tách vạch nổi bản chất của vấn đề (Mác 10:28), và đã phải cần đến sự minh giải của Đức Chúa Jêsus: “29Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, chẳng một người nào vì Ta và Tin Lành từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, 30mà chẳng lãnh được đương bây giờ, trong đời nầy, trăm lần hơn về những nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con, đất ruộng, với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong đời sau” (Mác 10:29-30). Sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus về việc “có lòng khó khăn” không nói về sự khó khăn vật chất. Tuy nhiên, có một mối tương quan giữa sự nghèo khó thuộc linh và sự nghèo khó trong đời này. Con người thiên nhiên luôn có xu hướng ỷ lại nơi những gì mình có. Khi không thể tìm được sự nương cậy nơi của cải vật chất, người ta sẽ dễ dàng hơn trong việc đến với Kinh Thánh để tìm kiếm lẽ thật và sự khôn ngoan. Khi không thể ỷ lại vào của cải vật chất, người ta sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc hạ mình, quì gối trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm sự thương xót của Ngài. “Có lòng khó khăn” cũng không nói về sự thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Có người tưởng lầm rằng có sự hiểu biết về Kinh Thánh đồng nghĩa với sự trưởng thành thuộc linh, nhưng điều ấy không đúng. Có một kiến thức Kinh Thánh phong phú có thể giúp ích cho người ta tăng trưởng trong đời sống Cơ Đốc. Tuy nhiên, đời sống Cơ Đốc là một vấn đề hoàn toàn khác: Đời sống Cơ Đốc là đời sống làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Kinh Thánh chứ không phải chỉ là sự hiểu biết về Kinh Thánh. Đời sống Cơ Đốc có liên quan đến việc vâng theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh, áp dụng sự dạy dỗ Kinh Thánh trong đời sống mình. “Có lòng khó khăn” cũng không có nghĩa là tự đánh giá thấp về mình. Đức Chúa Trời muốn chúng ta có nhận thức về mình đúng y theo như vốn có, không hơn, không kém. Đức Chúa Trời không hề muốn chúng ta tự gớm ghét mình, Ngài chỉ đòi hỏi chúng ta phải nương cậy Ngài mà thôi. “Có lòng khó khăn” có nghĩa là tự nhận thức được trạng thái băng hoại thuộc linh của bản thân; biết rằng không thể tự mình hoàn thiện mình, không thể tự mình cứu mình được mà phải hoàn toàn nương cậy nơi Ân Điển của Đức Chúa Trời (Lu. 18:9-14). Phước hạnh Thiên Thượng sẵn dành cho những ai sống đẹp ý Đức Chúa Trời. Ngài dò thấu tận trong lòng mỗi người, và Ngài làm ơn dồi dào cho ai biết tận hiến để hoàn thành ý chỉ của Ngài trên đời sống mình. Là Cơ Đốc Nhân chân thực, người ta phải tìm thấy được mọi sự có cần cho đời sống theo Chúa từ nơi Đức Thánh Linh đang ở cùng trong đời sống mình. Sự hiện diện của Đức Thánh Linh đem Vương Quốc của Đức Chúa Trời đến trong đời sống của bất cứ ai thành tâm, trung tín trong sự nương cậy Ngài, chịu để cho Ngài dắt dẫn. “Có lòng khó khăn” là có một sự nhận thức thường trực, tích cực, và chân thực về thân phận bất lực của mình; biết trông cậy ở sự đáp ứng toàn diện và tuyệt đối của duy nhất Đức Chúa Trời cho mọi nhu cần cá nhân. (Rev. Doan Nhat Tan, PhD.)
Comments are closed.
|
Author“Side-By-Side Support Archives
March 2023
Categories |