REV. ĐOÀN NHẬT TÂN, PHD
  • Tư Phong
  • Tư Niệm
  • Tư Biện
  • Tư Cách
Picture

“TƯ NIỆM”

22/5/2022

 
Picture
“SỨ MỆNH CỦA NỮ GIỚI”
(Sáng. 2:18)
“Giêhôva Đức Chúa Trời phán rằng:
Loài người ở một mình thì không tốt;
ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó.”
(Sáng. 2:18)
​Nữ giới, hiểu cho đúng, có một sứ mệnh. Sứ mệnh ấy là gì? Hiểu một cách chặc chẽ thì nữ giới giữ một giai trật như thế nào trong đời sống? Cứu cánh mà nữ giới phải nhắm đến là gì? Ở chừng mực nào thì nữ giới được tôn trọng cách hợp lẽ, và ở chừng mực nào thì nữ giới sẽ bị kể là đáng xem thường? Đây phải là một đề tài đáng được nữ giới hiểu cách thấu đáo để biết điều gì là nên có và điều gì là chẳng nên có; từ đó nữ giới sẽ biết họ phải làm điều gì và họ có quyền mong đợi những điều gì.
 
Tôi sẽ cố gắng tách vạch vấn đề để nêu lên bản chất của sứ mệnh của nữ giới. Để có thể làm được điều ấy tôi sẽ cần phải dựa vào các sự khải thị Thiên Thượng có liên quan trong Kinh Thánh chứ không phải theo chủ trương của các nhà đạo đức học, kinh tế học, hay triết học. Đây là nguyên tắc của tôi cho vấn đề này: Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo đã tạo dựng nên cả hai giới tính, nam giới và nữ giới; Ngài là Kiến Trúc Sư của xã hội loài người; Ngài là Đấng Tài Phán cho mọi phận sự, quyền lợi, và miễn trừ xã hội. Những điều ấy là giá trị chung của những người tin theo thẩm quyền Kinh Thánh. Thưa các bạn nữ giới, các bạn phải biết hài lòng theo chỉ định Thiên Thượng đối với nữ giới của mình. Các bạn phải như thế. Đấng đã tạo dựng nên các bạn phải là Đấng xứng đáng nhất trong việc ban bố ý chỉ của Ngài để các bạn sẽ được an toàn nhất nếu như các bạn biết thuận phục Ngài, chịu nương cậy Ngài để Ngài hoàn thiện vai trò của các bạn và giúp các bạn hiểu rõ ý chỉ của Ngài đối với mình là thế nào. Nữ giới, cũng như nam giới, có một sự kêu gọi Thiên Thượng là phải tôn vinh hiển Đức Chúa Trời như là cứu cánh của đời mình và phải hoàn thành mọi phận sự cũng như vui hưởng mọi phước hạnh của một đời sống tin kính. Nữ giới, cũng giống như nam giới, đều là tạo vật bất tử, có năng lực lý trí, và đã vướng tội đối với Đức Chúa Trời; đều được ở dưới sự chế định của ân điển, đều được đòi hỏi phải ăn năn tội của mình trước mặt Đức Chúa Trời và phải có đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ cho được sự sống đời đời. Nữ giới cũng có thiên hướng tôn giáo như bất kỳ ai khác. Trong Đức Chúa Jêsus, “không còn đàn ông hoặc đàn bà” (Sv. Gal. 3:28) mà tất cả đều cùng ở trên một mặt bằng về nghĩa vụ, trách nhiệm, và đặc quyền…
 
Để có thể biết sứ mệnh của nữ giới là gì trước nhất chúng ta phải tham chiếu các bản văn Kinh Thánh có liên quan để biết chắc được ý chỉ của Đức Chúa Trời về mục đích tạo dựng nữ giới mà Ngài đã định mạng từ ban đầu. “Giêhôva Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó” (Sáng. 2:18). Lời phán này đã được làm cho rõ nghĩa hơn khi Đức Chúa Trời phán rằng “Ađam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng; nhưng về phần Ađam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết” (Sáng. 2:20). Những lời phán này xác định một lẽ thật hiển nhiên là nữ giới đã được tạo dựng cho nam giới. Ađam đã được tạo dựng theo những thiên hướng xã hội chưa phát triển nhất định mang tính bản chất đối với tất cả mọi người. Chỉ duy nhất Đấng có thần tính mới có được sự uy nghi cá biệt độc lập hẳn với thế giới khách quan trên vấn đề hạnh phúc. Đức Chúa Trời, và chỉ duy nhất Ngài, là căn nguyên của sự vinh hiển Ngài, là nguồn của hạnh phúc Ngài, là khách thể của chính tư duy Ngài; Ngài không hề cần bất cứ gì cho hạnh phúc Ngài mà tất cả đều là sự tự tri, tự giác của Ngài. Ngay cả Thiên Sứ Trưởng trên Thiên Đàng cũng có thể trở nên héo hon nếu thiếu tất cả mọi mối thông công, chỉ duy nhất Đức Chúa Trời là Đấng có năng lực tự thông công.
 
Ađam đã được ở giữa mọi vinh quang của Vườn Êđen, được ở giữa muôn loài sinh vật vẫn cảm thấy cần phải có tình bạn. Thiếu tình bạn, đời sống của Ađam sẽ chỉ còn là một nỗi cô đơn, và Vườn Êđen cũng sẽ chỉ là hoang mạc mà thôi. Được phú cho một bản chất giàu truyền thông đến độ không thể nào thỏa mãn được với việc tự truyền thông người nam khát khao về một cộng đoàn, khát khao về sự hỗ trợ, khát khao về một sự bổ sung cho  sự hiện hữu của mình và chừng nào chưa tìm được những sự ấy thì người nam vẫn còn phải sống trong một trạng thái nửa vời. Người nam đã được tạo dựng để tư duy, để nói, để yêu và tư tưởng của người nam cần có được các hoạt động và tư tưởng tương tự để giao lưu và thăng hoa. Trong trạng thái cô độc, lời nói của người nam trở thành những vang vọng không có hồi âm trong không gian như một sự giễu cợt tai quái. Trong trạng thái cô độc, tình yêu của người nam không thể nào tìm ra được nơi đáp đậu để rồi trở thành như là một sự đè nén trong lồng ngực mình, rồi tự suy thoái đi, và lắng đọng thành hiểm họa tàn phá chính bản thân mình. Cả con người của người nam cứ hoài vọng về một con người khác nhưng con người khác ấy là một thực thể chưa hiện hữu… Chẳng có bất cứ một sự hỗ trợ nào cho người nam cả. Trong trạng thái cô độc, nhìn vào các tạo vật, người nam thấy sao chúng thấp hơn mình quá nhiều. Nhìn vào Đấng Sáng Tạo là Đấng đã tạo dựng nên mình người nam thấy sao Ngài cao hơn mình quá nhiều. Người nam đã ở vào một trạng thái chơi vơi khi chưa có người đồng đẳng với mình. Thế nhưng, một khi Đức Chúa Trời đã tạo dựng xong người nữ cho Ađam thì tất cả mọi vấn đề đều đã được giải quyết ngay lập tức!
 
Như vậy là trong trạng thái còn uyên nguyên, chưa bị sa bại, người nam mong có được người đồng đẳng cùng mình để san sẻ niềm vui, cũng giống như sau khi bị sa bại người nam có thêm nhu cần được san sẻ nỗi buồn. Liệu Ađam có thiết tha đến mức dám bày tỏ nguyện vọng của mình với Đức Chúa Trời hay không thì chúng ta không biết được. Thế nhưng, theo như sự trước thuật trong Kinh Thánh cho biết thì có vẻ như Đức Chúa Trời đã cung ứng cho Ađam nguồn phúc lợi này theo ý chỉ tốt đẹp của Ngài cũng giống như vô số các nguồn phúc lợi khác. Nếu việc Đức Chúa Trời ban Êva cho Ađam xuất phát từ chính ý chỉ của Ngài thì thật đáng để cho Ađam đáng ca ngợi Đức Chúa Trời theo như lời của hậu tự của mình nhiều đời về sau đã ca ngợi là “Vì Chúa lấy phước lành mà đón rước người;_Đội trên đầu người mão triều bằng vàng ròng” (Thi. 21:3).
 
Như vậy, đây là sự chế định của Đức Chúa Trời trong việc tạo dựng nữ giới: Đức Chúa Trời đã tạo dựng nữ giới để làm bạn đời cho nam giới. Người nam cần bạn đồng hành và Đức Chúa Trời đã ban người nữ cho người nam. Và, vì lúc bấy giờ chẳng còn có người nam nào khác hơn là Ađam cho nên chúng ta phải hiểu rằng Êva đã được tạo dựng làm nguồn an ủi cho duy nhất Ađam. Điều này dạy cho chúng ta một nguyên tắc căn bản là cho dầu sứ mệnh người nữ là gì đi nữa thì, ít nhất là trong đời sống hôn nhân, thì người nữ cứ là người bạn đời của người nam mà người nữ đã được phối hiệp.  Điều đã được chính Đức Chúa Trời tuyên bố ngay từ khởi thủy là quan hệ hôn nhân là một quan hệ bất khả phân ly: “Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt” (Sáng. 2:24).
 
Nếu như sứ mệnh của nữ giới trong Vườn Êđen đã là bạn đồng hành và niềm vui của nam giới thì sứ mệnh của người nữ ngày nay cũng phải giống như thế. Thiên chức của nữ giới không hề bị thay đổi bởi Cuộc Sa Bại của nguyên tổ của loài người. Sau Cuộc Sa Bại, nam giới càng cần sứ mệnh này của nữ giới nhiều hơn. Chính Đức Chúa Trời đã cho thấy rằng nữ giới phải gắn bó chặt chẽ hơn với sứ mệnh của họ. Ngài phán: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sáng. 3:16). Điều rõ ràng là nếu bị gỡ bỏ khỏi sự ràng buộc với nam giới thì nữ giới hoàn toàn tương đẳng với nam giới về bản chất. Thế nhưng nhìn vào cấu trúc thể lý của nữ giới thì lại thấy một điều hiển nhiên khác là toàn bộ cấu trúc thể lý của nữ giới là để thuận lợi cho việc thực hiện sứ mệnh của họ đối với nam giới theo sự thiết định của chính Đức Chúa Trời. Người nữ đã không được chiết ra từ đầu của người nam để hàm ý rằng nữ giới được cầm quyền trên nam giới; người nữ cũng đã không được chiết xuất ra từ chân của người nam để dạy rằng nam giới có quyền chà đạp nữ giới. Người nữ đã được chiết xuất từ hông của người nam để dạy về nguyên tắc là nữ giới là người đồng hành cùng nam giới. Rất có thể nói như thế là có phần tưởng tượng nhưng thật ra khi nhìn nhận vấn đề này trên một góc độ chân chính thì tất là phải có điều để học.
 
Sự thể rằng nữ giới đã được tạo dựng để nắm giữ vai trò phối thuộc nam giới là rất hiển nhiên qua các sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Điều này đã được tuyên bố trong Lời Kinh Thánh đã được trích rằng “sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sv. Sáng. 3:16). Lời này chẳng phải chỉ dành riêng cho duy nhất Êva mà còn là dành cho tất cả những người nữ mà Êva đại diện, tức toàn thể nữ giới. Đấy chính là luật Thiên Thượng cho mối quan hệ giữa hai giới tính, và rồi được triển khai cho toàn nhân loại muôn đời. Những lời đầu trong Sáng. 3:16, “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con”, đã đặt người nữ trong tình trạng chịu phạt phải đau buồn; còn những lời này, “sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi”, nói về tình trạng phải phục tùng. Từ Cuộc Sa Bại, người chồng đã trở thành tâm điểm của mọi ưa muốn trên trần gian của người vợ và, trên một chừng mực nhất định, đã trở thành người qui định các sự ưa muốn ấy. Nam giới đã được tạo dựng để bày tỏ ra sự vinh hiển và chúc tụng cho Đức Chúa Trời, để làm người phục tùng Ngài và chỉ duy nhất Ngài mà thôi. Thên vào đó, nữ giới đã được  tạo dựng cho sự vinh quang của nam giới qua việc phối thuộc nam giới như là trợ thủ và niềm vinh dự cho nam giới. Người nữ đã chẳng những được tạo dựng từ người nam mà cũng lại còn cho người nam nữa. Tất cả vẻ yêu kiều, duyên dáng, và trong sáng của nữ giới không chỉ là những biểu hiện cho sự tuyệt mỹ của họ mà cũng lại còn là cho sự tôn trọng và chân giá trị của nam giới vì tất cả những sự ấy chẳng những đã xuất xứ từ nam giới mà cũng còn là cho nam giới.
 
Đó chính là vị trí của nữ giới theo trật tự của Đức Chúa Trời. Nếu như cần phải trích dẫn thêm các sự dạy dỗ Kinh Thánh khác thì lời của các Sứ Đồ cũng sẽ góp phần củng cố vị trí ấy của họ. “Ấy vậy, như Hội thánh phục dưới Đấng Christ, thì đàn bà cũng phải phục dưới quyền chồng mình trong mọi sự” (Êph. 5:24). Không phải chỉ có một mình Sứ Đồ PhaoLô truyền như thế mà chính Sứ Đồ Phierơ cũng dạy cùng một cách (Sv. 1Phi. 3:1-5). Nữ giới đừng nên cho rằng sự thuận phục này làm mất giá nữ giới. Người ta bảo rằng trong đời sống gia đình, nam giới tỏa sáng như mặt trời nhưng nữ giới cũng như mặt trăng phản chiếu cách êm dịu sự tỏa sáng của mặt trời. Chúng ta có thể diễn đạt theo một cách khác và chính xác hơn thế: Nam giới như một hành tinh chính phản ánh sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là Đấng làm trung tâm của cả vũ trụ còn nữ giới như một vệ tinh được hình thành từ sự tráng lệ của Đấng tể trị cả vũ trụ và ở dưới quyền điều khiển của Ngài để bay quanh nam giới và bay cùng nam giới mà chăm nom cho nam giới.
 
Như vậy thì vai trò của nữ giới có thể được tóm tắt bằng sự yêu thương và thuận phục vai trò làm chồng của nam giới. Tuy nhiên, kể từ Cuộc Sa Bại, tất cả những gì có liên quan đến mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới đều mang tính gay gắt cao. Tình yêu của người nữ đã trở nên mãnh liệt hơn, địa vị khiêm tốn của người nữ đã trở nên sâu rộng hơn. Bị các sự kém sút làm cho trở nên rụt rè trong xã hội người nữ chỉ còn có cách đi tìm con người mình trong tấm lòng của chồng mình, họ nhờ vào người nam của mình để lấy lại những thiệt thòi mà họ phải chịu đồng thời tuôn đổ tối đa trên người nam của mình sự khích lệ nhằm làm giảm nhẹ hoặc ngăn chặn các nỗi đắng cay vốn là hậu quả của tội lỗi trong đời sống xã hội.
 
Như vậy, bất chấp là nữ giới có chức phận gì trong xã hội thể theo vai trò chính này của họ trong gia đình, và bất chấp phúc lợi xã hội nào hay quyền lực nào mà nữ giới có thể tạo ra cho đời sống xã hội từ các chức phận ấy, họ đều phải biết tự xem vai trò chính yếu của họ là làm nguồn an ủi cho chồng họ trong quan hệ hôn nhân. Nữ giới phải biết thăng tiến sự an sinh của mình qua việc thăng tiến sự an sinh của chồng họ và họ phải nhận được từ chồng của họ cách thường xuyên mọi điều thuộc về sự tôn trọng, sự che chở, sự ưu ái mà tính đồng đẳng về bản chất của họ, sự đồng hành của họ, sự hiến dâng của họ đáng phải được. Nữ giới, trong đời sống hôn nhân, luôn luôn là bạn đồng hành của chồng là người đồng điệu với họ trên mọi phương diện; là người có thể thố lộ với họ tất cả mọi niềm vui, nỗi buồn, mọi đau khổ, quằn quại sâu kín; là người xem sự hiện diện của họ trong đời sống mình là giàu ý nghĩa hơn cả thế giới còn lại; là người biết nghe lời họ nói như thể lắng nghe loại âm nhạc mình thích nhất; là người xem nụ cười của họ là niềm hân hoan của chính mình; là người biết hối tiếc, biết chuyện trò, biết đồng điệu mỗi dịp được gần gũi nhau; là người biết đồng hành với họ từ tấm lòng cho đến đôi chân; là người đồng cảm với họ ngay cả đối với những cử chỉ nhẹ nhàng của họ. Nữ giới, trong đời sống hôn nhân, luôn luôn là bạn đồng hành của chồng là người trong những giờ phút riêng tư có thể thố lộ với họ mọi uẩn khúc trong lòng; là người tìm thấy ở họ mọi khả năng an ủi, khích lệ dịu dàng của tình bạn thân mật; là người thưởng thức được những lời nói, nụ cười cởi mở đáng phải có từ một người bạn và cũng là trợ thủ mà chính Đức Chúa Trời đã trao ban cho họ.
 
Trong tình bạn mà nữ giới đã được thiết định để ban cho nam giới tất nhiên là phải có các chức năng giao cảm của nữ giới trong vai trò của người an ủi. Trong những lúc riêng tư với nhau phận sự của người nữ là phải an ủi, khích lệ người nam của họ khi người ấy bị thương tổn hay bị xúc phạm; phận sự của người nữ là phải chia sẻ khi người người nam của mình bị oằn xuống vì gánh nặng công việc; phận sự của người nữ là phải biết nói những lời lành giúp làm êm dịu những nỗi buồn khổ của người nam của mình và phận sự của người nữ là phải biết làm tất cả những gì mà một thiên sứ chăm sóc có thể làm được cho người nam của mình.
 
Người nữ phải biết cho và người nam phải biết nhận những khuyên can khôn ngoan có thể có được cho dầu rất có thể người nữ không thể nào am thạo hết những sự phức tạp, tinh tế trong thế giới công việc của người nam. Trên thực tế cũng như về nguyên tắc, sự khuyên can, an ủi phải phép của người nữ đã cứu vớt hàng ngàn người nam khỏi bị rơi vào sự sa bại. Ít có người chồng nào phải cảm thấy hối tiếc vì đã nghe theo những lời khuyên can khôn ngoan của vợ mình; ngược lại, có vô số người phải ân hận vì đã không tham vấn và không làm theo sự tư vấn khôn ngoan của người bạn đời của mình.
 
Vậy thì, thể theo sự định mạng của Đấng Sáng Tạo và Tể Trị, nữ giới được định để làm bạn đời cho nam giới trong cuộc hành trình đi qua đời này. Tất nhiên là điều này chỉ được hoàn thành thông qua định chế hôn nhân, gia đình theo đúng công lệ tự nhiên và luật pháp của xã hội ràng buộc trên cả nam giới và nữ giới. Và, chỉ như thế mới là hợp Kinh Thánh. Đức Chúa Trời đã định mạng và bản chất người trong cả hai giới tính, nam giới và nữ giới, đều có một xu hướng như thế. Dẫu vậy, trên thực tế có vô số trường hợp không chịu sự ràng buộc trong định chế hôn nhân và phải chăng vì thế mà những người nữ ấy khỏi phải thi hành sứ mệnh Thiên Thượng này? Phải chăng chỉ có những người nữ nào ở trong hôn nhân mới phải thi hành sứ mệnh Thiên Thượng ấy? Chắc chắn là không. Trong các trường hợp ngoại lệ này thì phận sự cho những người nữ ấy là phận sự chung mà Đức Chúa Trời đã định cho nữ giới. Và, điều này có quan trọng không? Phải chăng là trải qua các đời và ở mọi quốc gia đã chẳng từng có sự ghi nhận về tính chất quan trọng và tầm ảnh hưởng lớn lao của các đặc trưng của nữ giới trên các phẩm hạnh xã hội, trên phúc lợi và sự cường thịnh của quốc gia, dân tộc? Mỗi người nữ, trong hôn nhân hoặc ngoài hôn nhân, đều có một tầm ảnh hưởng nhất định, hoặc tốt hoặc xấu, đối với thế giới quanh mình thể theo các nét đặc trưng của mình. Mỗi một người nữ, tùy theo thiện đức hay ác đức của họ, tùy theo sự thông tuệ hay u ám của họ, tùy theo sự cẩn trọng hay khinh suất của họ đều đóng góp một phần nhất định vào cuộc thăng trầm của đất nước họ. Chừng nào mà đức hạnh của nữ giới vẫn còn có ưu thế, vẫn còn được chính nữ giới duy trì và nam giới tôn trọng thì đất nước của họ vẫn còn chưa bị chìm vào hố sâu của sự ác được.
 
Trên một chừng mực nhất định thì nữ giới là người duy trì phúc lợi cho đất nước của họ. Đức hạnh của nữ giới, nếu chưa bị hư hoại mà vẫn còn bền vững, sẽ là người lính canh hữu hiệu cho vương quốc của những điều thiện hảo. Nữ giới hoàn toàn có thể đóng góp những sự cống hiến của mình vào luật pháp, công bằng, tự do, và văn hóa, nghệ thuật cho sự hưng thịnh của đất nước họ. Nhưng, theo Kinh Thánh, phải giữ không được để sự răn dạy của nữ giới áp đảo vai trò của nam giới. Ngoại trừ điều ấy, sự thắng thế của trí tuệ và đức hạnh của nữ giới sẽ giúp gia tốc cho tiến trình văn minh nhân loại dễ đạt đến đỉnh cao, sản sinh ra vô số điều tốt đẹp trong đời sống xã hội. Một xã hội mà trong đó nữ giới có đủ điều kiện để hoàn thành các sứ mệnh Thiên Thượng của mình sẽ không dễ dàng bị sụp đổ nhờ sự tác động của sức mạnh của tấm lòng cao quí của họ trên những tấm lòng khác mà, còn hơn thế, nữ giới sẽ giúp vực xã hội mình đang sống lên một tầm cao mới của sự thịnh vượng và hạnh phúc. Và, trong trường hợp này, nữ giới đã hành sử phận sự của họ bên ngoài đời sống hôn nhân, gia đình và đó cũng là phận sự chính đáng của họ. Sứ mệnh của nữ giới bên ngoài đời sống hôn nhân, gia đình có phạm vi là đời sống xã hội, có đối tượng là sự hạnh phúc xã hội, và có phần thưởng là sự tri ân và trân trọng của xã hội.
 
Nếu chúng ta nhận thức đúng về bản chất của sứ mệnh của người nữ thì chúng ta không thể sai về phạm vi của sứ mệnh của người nữ được. Nếu một người nữ đã được tạo dựng cho chỉ một người nam (chứ không phải cho cả xã hội người nam) thì hệ quả rất dễ nhận ra rằng gia đình là môi trường để người nữ thi thố bản lãnh và ảnh hưởng của mình vậy. Trong ngôn ngữ của loài người chỉ có một số rất ít các từ liệu có khả năng nói lên được niềm hạnh phúc tuyệt vời cho tất cả mọi tấm lòng như hai tiếng “gia đình”. “Gia Đình” là thiên đường của tình yêu, là môi trường an toàn nhất cho các mối quan hệ dịu dàng, là thánh địa của sự hòa thuận, là nơi dẫu giàu nhưng không phí và dẫu nghèo nhưng không cực. “Gia Đình” là nơi bệnh mà không đau. “Gia Đình” là nơi phát ra câu thần chú quyến rũ nhất xuyên qua mọi đại lục và đại dương khiến cho những ai dẫu đang say sưa phiêu bạt giang hồ cũng phải dừng chân ngẫm nghĩ. “Gia Đình”. Vâng, chính trong gia đình mà sứ mệnh của những người nữ trong hôn nhân xuất phát và hoàn thành.
 
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
sứ_mệnh_của_nữ_giới.pdf
File Size: 421 kb
File Type: pdf
Download File



Comments are closed.

    Author

    “Side-By-Side Support
    To Help God's Leaders Become As He Desires”
    ("The Coach")

    Archives

    March 2023
    February 2023
    January 2023
    December 2022
    November 2022
    October 2022
    September 2022
    August 2022
    July 2022
    June 2022
    May 2022
    April 2022

    Categories

    All

    RSS Feed

Picture
  • Tư Phong
  • Tư Niệm
  • Tư Biện
  • Tư Cách