“MỘT TRONG NHIỀU NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ THIẾU CẦU NGUYỆN” “Sự cầu nguyện là một dạng thức thăng hoa của tấm lòng cho nên trở ngại lớn nhất đối với đời sống cầu nguyện của Cơ Đốc Nhân chính là sức ỳ của tính xác thịt trong chính con người của họ!” Một trong những câu hỏi cần phải được đặt ra có thể là như thế này: “Vậy, điều gì là nguyên nhân của tình trạng thiếu cầu nguyện khá phổ biến? Phải chăng đó là do việc thiếu đức tin?” Câu trả lời như sau: “Tất nhiên!”. Thế nhưng lại có một câu hỏi khác được nêu lên: “Thế thì điều gì là nguyên nhân của tình trạng thiếu đức tin ấy?”. Khi các môn đồ hỏi Đức Chúa Jêsus rằng “Sao chúng tôi đuổi quỉ ấy không được?”, câu trả lời của Chúa ngầm ý là “Vì cớ các ngươi chẳng tin” và Ngài phán tỏ tường hơn rằng “Nếu không cầu nguyện và kiêng ăn, thì chẳng ai đuổi thứ quỉ ấy ra được” (Sv. Mác 9: 23, 28-29). Nếu một đời sống không có sự kiêng ăn – tức tách ly với thế gian, và không có sự cầu nguyện – tức gắn chặt với Thiên Thượng, thì đức tin không có chỗ thực hành. Một đời sống như thế chính là một đời sống theo xác thịt chứ không phải là theo Thánh Linh; chính từ một đời sống như thế mà chúng ta tìm thấy được căn nguyên của sự thiếu cầu nguyện là diều đem lại sự bất hạnh cho chúng ta. Khi chúng tôi họp xong, có một người đã nói với tôi như thế này: “Tất cả sự khó khăn là ở chỗ này: Chúng ta muốn cầu nguyện trong Thánh Linh, thế nhưng đồng thời chúng ta lại sống theo xác thịt, bởi vậy cho nên điều chúng ta muốn trở thành điều bất khả thi”. Nếu có một người bị ốm và mong được chữa lành thì điều cốt yếu là phải tìm biết cho được căn nguyên đích thực của bịnh chứng. Đó luôn luôn là bước thứ nhất của sự hồi phục. Nếu nguyên nhân chính yếu không được tìm ra và nếu sự chú tâm chỉ được hướng đến các nguyên nhân phụ nào đó, hoặc cứ giả định theo những nguyên nhân không thực nào đó, nhất định sự chữa lành không thể nào có được. Theo một cách thế tương tự, điều quan trọng hàng đầu đối với chúng ta là phải nắm bắt cho được một sự nội kiến chân thực về căn nguyên của thảm trạng èo uột và thất bại trong đời sống cầu nguyện của nội tâm, nhiên hậu chúng ta mới mong hồi phục được nội tâm mình thành một miền phước hạnh. Chúng ta hãy cùng nhau cố gắng nhận thực cho được một cách đầy đủ về căn nguyên của điều tai hại ấy. Kinh Thánh cho chúng ta biết được rằng chỉ có hai khả năng đối với một đời sống Cơ Đốc Nhân: Một là bước đi theo Thánh Linh, hai là sống theo xác thịt (Sv. Gal. 5:16). Hai thế lực này không thể nào tương nhượng nhau được. Chính vì thế cho nên điều đã diễn ra là, đối với hầu hết các Cơ Đốc Nhân, dầu họ đã được tái sinh nhờ Đức Thánh Linh và đã tiếp nhận được sự sống của Đức Chúa Trời, nhưng trong cuộc sống thường nhật họ không luôn luôn bước đi theo Thánh Linh mà vẫn cứ còn sống theo xác thịt. Sứ Đồ PhaoLô viết cho các tín hữu ở Galati rằng “Sao anh em ngu muội dường ấy? Sau khi đã khởi sự nhờ Đức Thánh Linh, nay sao lại cậy xác thịt mà làm cho trọn?” (Gal. 3:3). Sự hầu việc của họ dựa trên những sự thực hiện bên ngoài của xác thịt. Họ đã không nhận thức được rằng ở đâu có sự ảnh hưởng của xác thịt trên sự hầu việc, ở đó sẽ sớm có sự xuất hiện của tội lỗi. Sứ Đồ PhaoLô không những chỉ đề cập đến những tội trọng như tà dâm, giết người, say xưa,... mà còn đề cập đến cả những tội thường mắc phải trong cuộc sống đời thường như tức giận, xung đột, mâu thuẫn. Sứ Đồ PhaoLô khuyên giục: “Vậy tôi nói rằng: Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt... Nếu chúng ta nhờ Thánh Linh mà sống, thì cũng hãy bước theo Thánh Linh vậy” (Gal. 5:16, 25). Đức Thánh Linh phải được tôn quí chẳng những như là Tác Giả của một đời sống mới mà Ngài cũng còn phải được giữ vai trò của Đấng Lãnh Đạo và Điều Khiển toàn bộ đời sống chúng ta. Bằng chẳng được như thế, chúng ta chẳng qua chỉ là điều mà Sứ Đồ PhaoLô gọi là “xác thịt” mà thôi. Phần lớn các Cơ Đốc Nhân chỉ có một sự hiểu biết hạn chế về vấn đề này mà thôi. Họ không có được một sự hiểu biết thỏa đáng đối với tính chất tội lỗi và sự bất kính trầm trọng của bản chất xác thịt ấy là điều họ còn chịu lệ thuộc và còn vô tình nộp mình cho nó. “Vì điều chi Luật Pháp không làm nổi, tại xác thịt làm cho Luật Pháp ra yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã làm rồi: Ngài đã vì cớ tội lỗi sai chính Con mình lấy xác thịt giống như xác thịt tội lỗi chúng ta, và đã đoán phạt tội lỗi trong xác thịt” (Rô. 8:3) – trên thập tự giá. “Vả, những kẻ thuộc về Đức Chúa Jêsus Christ đã đóng đinh xác thịt với tình dục và dâm dục mình trên thập tự giá rồi” (Gal. 5:24). Những sự thuộc về “xác thịt” không thể nào cải thiện hay làm cho nên thánh được. “Vì sự chăm về xác thịt nghịch với Đức Chúa Trời, bởi nó không phục dưới Luật Pháp Đức Chúa Trời, lại cũng không thể phục được” (Rô. 8:7). Chẳng còn có một cách nào khác để xử lý với những điều thuộc về “xác thịt” ngoại trừ việc Chúa Cứu Thế Jêsus xử lý với nó trên thập tự giá, treo nó trên thập tự giá. Ấy chính nhờ thế mà chúng ta “biết rõ rằng người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh trên thập tự giá với Ngài, hầu cho thân thể của tội lỗi bị tiêu diệt đi, và chúng ta không phục dưới tội lỗi nữa” (Rô. 6:6); tức là chúng ta, nhờ đức tin, cũng cùng đóng đinh tính xác thịt của con người cũ trên thập tự giá, và ứng xứ với nó mỗi ngày như với một thứ đáng nguyền rủa chỉ đáng để treo lên thập tự giá cho chết đi mà thôi. Thật là một điều đáng buồn khi nhận xét thấy không có nhiều Cơ Đốc Nhân suy nghĩ hay nói một cách nghiêm túc về tính chất tội lỗi trầm trọng không dò lường hết được của tính “xác thịt” – “Tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu [tức trong thân xác tôi]” (Rô. 7:18). Những ai toàn tín về điều ấy tất phải kêu lên rằng “Tôi cảm biết trong chi thể mình có một luật khác giao chiến với luật trong trí mình, bắt mình phải làm phu tù cho luật của tội lỗi, tức là luật ở trong chi thể tôi vậy. Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy?” (Rô. 7: 23, 24). Sung sướng thay cho những ai có thể đi tiếp một cách đúng đắn bước đi quyết dịnh để rồi có thể nói lên rằng “Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!... Vì luật pháp của Thánh Linh sự sống đã nhờ Đức Chúa Jêsus Christ buông tha tôi khỏi Luật Pháp của sự tội và sự chết” (Rô. 7: 25; 8: 2). Cầu mong rằng qua những điều ấy chúng ta sẽ hiểu biết được Sự Định Mạng của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta! Tính “xác thịt” của chúng ta phải bị treo trên thập tự giá, còn Đức Thánh Linh thì ngự vào tấm lòng và điều khiển cuộc đời chúng ta. Sự sống thuộc linh này ít khi được nhận thức hay theo đuổi; tuy nhiên quả đúng là Đức Chúa Trời đã từng hứa và sẽ hoàn thành lời hứa Ngài với những ai, theo mục đích ấy, chịu dâng mình vô điều kiện cho Ngài. Vậy là chúng ta thấy được cội rễ sâu chắc, tệ hại nhất làm thành căn nguyên của một đời sống thiếu cầu nguyện. Tính “xác thịt” trong chúng ta có thể bảo với chúng ta rằng “cầu nguyện như thế là đủ rồi”, cứ xem như thế là đủ “tôn giáo lắm rồi, “lương tâm ơi thôi cứ ngủ yên đi!”. Tính “xác thịt” không bao giờ muốn mà cũng không sao có đủ sức mạnh cho một sự cầu nguyện nhằm tím kiếm một sự hiểu biết thân mật với Đức Chúa Trời để rồi thỏa vui trong mối tương giao với Ngài, để rồi cứ tiếp tục đòi cho có được sức mạnh của Ngài. Do đó, chúng ta phải đi đến một kết luận là tính “xác thịt” phải bị khước từ, phải bị đóng đinh trên thập tự giá. Những Cơ Đốc Nhân vẫn cứ còn trong tính “xác thịt” vừa không có được khuynh hướng vừa không có được sức mạnh để theo Chúa. Họ tự thỏa mãn dừng lại ở sự cầu nguyện theo thói quen, theo tập quán. Thế nhưng sự vinh quang và điều phước hạnh của một đời sống cầu nguyện riêng tư vẫn cứ là điều chưa được bày tỏ đối với họ cho đến một ngày kia mắt họ được mở ra và họ nhận thức được rằng tính “xác thịt” vốn có khuynh hướng tách ly khỏi Đức Chúa Trời, rằng chính nó là kẻ thù hàng đầu khiến cho sự cầu nguyện đầy quyền năng trở thành điều bất khả thi đối với họ. “Hãy vui mừng trong sự trông cậy, nhịn nhục trong sự hoạn nạn, bền lòng mà cầu nguyện.” (Rô. 12:12) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“KINH THÁNH DẠY GÌ VỀ SỰ TỰ DO CƠ ĐỐC?” “Hỡi anh em, anh em đã được gọi đến sự tự do, song chớ lấy sự tự do đó làm dịp cho anh em ăn ở theo tánh xác thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau” (Gal. 5:13) Khái niệm “Sự Tự Do Cơ Đốc” được tìm thấy trong một số phạm trù Kinh Thánh khác nhau. Chẳng hạn, đó là sự tự do mà Cơ Đốc Nhân có được khi họ được tha khỏi án phạt dành cho tội lỗi khi họ đặt đức tin của mình nơi Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. Gi. 8:31-36; Rô. 6:23). Sự tự do Cơ Đốc cũng có thể đực hiểu là sự tự do của Cơ Đốc Nhân khi họ được giải thoát khỏi ách của tội lỗi nhờ hàng ngày họ chịu sống trong đức tin đặt nơi Chúa và Cứu Chúa của mình (Sv. Rô. 6:5-6,14). Trên một phương diện khác, sự tự do Cơ Đốc cũng có thể được hiểu là sự tự do của Cơ Đốc Nhân trong việc họ không còn chịu sự ràng buộc của Luật Pháp Môise là Luật Pháp chỉ khiến cho người ta biết là mình phạm tội chứ không tha tội cho họ được (Sv. Rô. 3:20-22). Rộng hơn, sự tự do Cơ Đốc có thể hàm ý là Cơ Đốc Nhân được tự do đối với những gì không bị cấm đoán tỏ tường trong Kinh Thánh. Trong cách hiểu này, Cơ Đốc Nhân được tự do cho đến khi nào họ chưa tự làm tổn hại bản thân (Sv. 1Cô. 6:12), chưa gây vấp phạm cho tha nhân (Sv. 1Cô. 10:23), và chưa khiến cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời bị xem nhẹ (Sv. 1Cô. 10:31). Người ta thường có khuynh hướng muốn xác định một việc cụ thể nào đó là “nên làm” hay “nên tránh”, đó là một khuynh hướng tốt nhưng việc nắm vững các nguyên tắc vừa kể sẽ tạo nên một qui chuẩn tổng quát cho hành vi. Cần chú ý thêm rằng Rô. 14:12-16 có dạy cho chúng ta biết rằng có những điều dầu Kinh Thánh không cấm chỉ nghiêm ngặt nhưng chúng có thể khiến cho đời sống thuộc linh của chúng ta trở nên trục trặc, và trở thành cớ vấp phạm đối với tha nhân. Quyền tự do của Cơ Đốc Nhân lắm khi lại là quyền từ chối tự do cho bản thân vì lợi ích của tha nhân. Có một điều khác cần nên chú ý là, một mặt, lắm khi các Cơ Đốc Nhân có khuynh hướng đấu tranh mạnh mẽ cho tự do của bản thân chính là những Cơ Đốc Nhân tự đánh mất bản thân trong những lối sống thiếu kỷ cương. Nhưng mặt khác, các Cơ Đốc Nhân có khuynh hướng khắc kỷ cứng rắn thường dễ trở nên những Cơ Đốc Nhân của “chủ nghĩa luật pháp” với đặc trưng là một lối sống chỉ toàn những điều “chống và tránh” một cách máy móc. Cơ Đốc Nhân khôn ngoan là những người biết tìm cầu ý chỉ của Đức Chúa Trời qua các nguyên tắc hợp Kinh Thánh trong một đời sống cầu nguyện mật thiết với Ngài. Đây là một đời sống giữ được sự cân bằng giữa ba nguyên tắc then chốt của sự tự do Cơ Đốc hợp Kinh Thánh: Nguyên tắc có ích (Sv. 1Cô. 6:12), nguyên tắc gây dựng (Sv. 1Cô. 10:23), và nguyên tắc tôn vinh hiển (Sv. 1Cô. 10:31). Ba nguyên tắc kể trên là mục tiêu tối hậu của đời sống Cơ Đốc. Khi nào các nguyên tắc ấy được giữ vững, Cơ Đốc Nhân có sự tự do Cơ Đốc (Sv. 2Phi. 2:19b). Chỉ trong một chừng mực như vậy Cơ Đốc Nhân mới có thể sống một đời sống làm chứng tốt cho Đức Chúa Trời đối với thế giới hư mất này (Sv. Thi. 19:14; Rô. 15:1-2; 2Cô. 2:15-16; 1Phi. 2:11-12). Bằng chứng hùng hồn nhất của sự tự do Cơ Đốc là đời sống dấn thân phục vụ chứ không phải là đời sống tìm kiếm sự phục vụ cho bản thân: “Hỡi anh em, anh em đã được gọi đến sự tự do, song chớ lấy sự tự do đó làm dịp cho anh em ăn ở theo tánh xác thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau” (Gal. 5:13) (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)
“Tự thân nhà lãnh đạo Cơ Đốc không có năng lực dẫn dắt dân sự của Đức Chúa Trời đi theo tiếng phán của Ngài; họ chỉ có thể dẫn dắt dân sự của Đức Chúa Trời đi theo tiếng phán của Ngài khi họ đã nghe được tiếng phán của Ngài qua Lời Ngài và qua đời sống cấu nguyện của mình!” Phận sự của người chăn bầy là đào tạo cho anh chị em tín hữu có được một đời sống cầu nguyện; nhưng làm thế nào có thể có được điều ấy khi mà chính bản thân người chăn bầy còn non yếu trong nghệ thuật nói chuyện với Đức Chúa Trời và nhận lãnh ân điển thiên đàng dư dật hàng ngày từ Đức Thánh Linh cho chức vụ của mình? Một người chăn bầy không thể nào tự nâng đỡ cho hội chúng lên đến một tầm cao hơn mình được. Người chăn bầy không thể nào chỉ với lòng nhiệt tình cứ bày đường vẽ lối cho mọi người còn chính bản thân lại không sống theo những gì mình thuyết giảng. Có biết bao nhiêu ngàn tín hữu hầu như chẳng biết gì mấy về phước hạnh của sự tương giao qua cầu nguyện với Đức Chúa Trời! Biết bao người còn biết rất ít và có sự khát khao được biết nhiều hơn về điều ấy nhưng qua sự giảng dạy trong Hội Thánh họ không được khuyên giục thường xuyên để tiếp tục cho đến khi nắm bắt được phước hạnh này! Căn nguyên thật đơn giản: Những người chăn bầy vẫn còn biết quá ít về bí quyết của sự cầu nguyện có quyền năng và vẫn còn chưa dành cho sự cầu nguyện một vị trí thỏa đáng trong sự hầu việc của mình mà theo bản chất của nó cũng như theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì đó là một sự cần thiết tất yếu. Hội Thánh của chúng ta sẽ đổi khác biết chừng nào nếu như những người chăn bầy đều nhận biết một cách đầy đủ và thỏa đáng đối với tội thiếu cầu nguyện và được đem ra khỏi tội ấy! “15Vậy nên, sau khi tôi có nghe đức tin anh em hướng về Đức Chúa Jêsus và tình yêu thương đối với các thánh đồ, 16thì tôi vì anh em cảm tạ không thôi, thường nhắc đến anh em trong khi cầu nguyện. 17Tôi cầu Đức Chúa Trời của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha vinh hiển, ban thần trí của sự khôn sáng và của sự tỏ ra cho anh em, để nhận biết Ngài, 18lại soi sáng con mắt của lòng anh em, hầu cho biết điều trông cậy về sự kêu gọi của Ngài là thể nào, sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển Ngài cho các thánh đồ là làm sao, 19và biết quyền vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin, là lớn dường nào, y theo phép tối thượng của năng lực mình.” (Êph. 1:15-19) “8Vả, khi đó, dân Amaléc đến khiêu chiến cùng Ysơraên tại Rêphiđim. 9Môise bèn nói cùng Giôsuê rằng: Hãy chọn lấy tráng sĩ cho chúng ta, ra chiến đấu cùng dân Amaléc; ngày mai ta sẽ đứng nơi đầu nổng, cầm gậy của Đức Chúa Trời trong tay. 10Giôsuê bèn làm y như lời Môise nói, để cự chiến dân Amaléc; còn Môise, Arôn và Hurơ lên trên đầu nổng. 11Vả, hễ đương khi Môise giơ tay lên, thì dân Ysơraên thắng hơn; nhưng khi người xụi tay xuống, dân Amaléc lại thắng hơn. 12Tay Môise mỏi, Arôn và Hurơ bèn lấy đá kê cho người ngồi, rồi ở hai bên đỡ tay người lên; tay người chẳng lay động cho đến khi mặt trời lặn. 13Giôsuê lấy lưỡi gươm đánh bại Amaléc và dân sự người.” (Xuất. 17:8-13) “2Mười hai sứ đồ bèn gọi hết thảy môn đồ nhóm lại, mà nói rằng: Bỏ sự dạy đạo Đức Chúa Trời mà giúp việc bàn tiệc thật chẳng xứng hợp. 3Vậy anh em hãy chọn trong bọn mình bảy người có danh tốt, đầy dẫy Đức Thánh Linh và trí khôn, rồi chúng ta sẽ giao việc nầy cho. 4Còn chúng ta sẽ cứ chuyên lo về sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo.” (Công. 6:2-4) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THIẾU SỰ CẦU NGUYỆN LÀ CĂN NGUYÊN CỦA MỘT ĐỜI SỐNG THUỘC LINH CÒM CÕI” Thiếu sự cầu nguyện với Đức Chúa Trời luôn luôn đồng nghĩa với việc thất dưỡng thuộc linh Tình trạng thiếu cầu nguyện là chứng cứ cho thấy rằng đời sống của chúng ta vẫn còn ở trong vòng kiềm tỏa của xác thịt. Sự cầu nguyện là nhịp đập của đời sống qua đó người ta có thể biết được thực trạng của con tim. Tội lỗi về sự thiếu cầu nguyện chính là chứng tích cho thấy một Cơ Đốc Nhân hoặc một người chăn bầy hạng xoàng, nó nói lên rằng sự sống của Đức Chúa Trời trong tâm linh người ấy đang ở trong một cơn bịnh trầm kha, trong một sự èo uột kiệt quệ. Người ta nói nhiều và than phiền nhiều về tình trạng yếu đuối của Hội Thánh khiến không hoàn thành nổi sự kêu gọi của mình, không ảnh hưởng nổi trên dân sự của mình để giải thoát họ ra khỏi sự cầm buộc của thế gian, và không giúp cho họ có được một đời sống thánh khiết để tận hiến cho Đức Chúa Trời. Người ta cũng nói nhiều đến sự hờ hững của Hội Thánh đối với hàng triệu người ngoại giáo là những người mà Chúa Cứu Thế đã ủy thác cho Hội Thánh nhiệm vụ giúp cho họ biết được về tình yêu và về sự cứu rỗi của Ngài. Nguyên nhân nào khiến hàng ngàn nhân sự của Đức Chúa Trời không thể có được một ảnh hưởng lớn hơn? Chẳng có nguyên nhân nào khác hơn là sự thiếu cầu nguyện cho sự hầu việc của họ. Ẩn kín bên trong tất cả những sự sốt sắng học hỏi và làm việc cho Hội Thánh, bên trong tất cả sự trung tín giảng dạy và khuyên bảo dành cho mọi người, họ thiếu một sự cầu nguyện không ngừng nghỉ là điều vốn gắn liền với lời hứa về Đức Thánh Linh và về quyền năng Thiên Thượng. Không còn gì khác hơn là tình trạng thiếu cầu nguyện, chính đó là căn nguyên khiến cho không thể có được một dời sống thuộc linh đầy quyền năng. “1Những điều chiến đấu tranh cạnh trong anh em bởi đâu mà đến? Há chẳng phải từ tình dục anh em vẫn hay tranh chiến trong quan thể mình sao? 2Anh em tham muốn mà chẳng được chi; anh em giết người và ghen ghét mà chẳng được việc gì hết; anh em có sự tranh cạnh và chiến đấu; anh em chẳng được chi, vì không cầu xin. 3Anh em cầu xin mà không nhận lãnh được, vì cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục mình.” (Gia. 4:1-3) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ORDO SALUTIS LÀ GÌ?” “Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển.” (Rô. 8:29-30) “Tiến Trình Cứu Rỗi” xuất phát từ một phạm trù thần trong Tiếng LaTinh là “Ordo Salutis” nói về các “bước” (hay “giai đoạn”) của việc một người “đi vào” (hay “nhận được”, “có được”) sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua và trong công nghiệp đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ trên Thập Tự Giá mà Ngài đã hoàn tất cho nhân loại. Các “bước” của phạm trù này này, xuất phát từ sự dạy dỗ của Rô. 8:29-30, có tên gọi như sau: “Sự Tuyển Định”[1] (Election), “Sự Tiên Kiến” (Foreknowledge), “Sự Tiền Định” (Predestination), “Sự Cứu Chuộc” (Redemption), “Sự Tái Sanh” (Regeneration), “Sự Xưng Công Nghĩa” (Justification), “Sự Thánh Hóa” (Sanctification), “Sự Tôn Vinh” (Glorification). Việc các khái niệm này được đề cập trong Rô. 8:29-30 là điều ai cũng thấy, nhưng có sự khác nhau trong cách hiểu về thứ tự (điều gì đến trước, điều gì đến sau) của các “bước” này, tức quan hệ thứ tự của các khái niệm này. Trước hết, cần nên nắm vững định nghĩa của một số khái niệm quan trọng liên quan. 1. “Sự Tiên Kiến” (Foreknowledge) Sự biết trước của Đức Chúa Trời về việc ai sẽ có được sự cứu rỗi. 2. “Sự Tiền Định” (Predestination) Việc Đức Chúa Trời định sẵn những ai sẽ được chọn cho sự cứu rỗi. 3. “Sự Tuyển Định”, “Sự Lựa Chọn”, “Sự Chọn Lựa” (Election) Việc Đức Chúa Trời chọn sẵn những người sẽ có được sự cứu rỗi. 4. “Sự Tái Sanh” (Regeneration) Việc Đức Chúa Trời làm cho một người được sống lại trên phương diện thuộc linh (là phương diện vốn ở trạng thái chết ngay từ khi một người được sinh ra - Sv. Tít 3:5) 5. “Sự Truyền Giáo” (Evangelism) Việc rao Tin Lành để giúp cho người nghe đáp ứng thuận đối với Tin Lành. “Sự Truyền Giáo” chính là một (trong những) phương thức kêu gọi của Đức Chúa Trời để giúp nhân loại có được sự cứu rỗi của Ngài (Sv. Ma. 28:19). 6. “Đức Tin” (Faith) Việc một người tin và làm theo sứ điệp của Tin Lành (Sv. Êph. 2:8-9) 7. “Biến Cải” (Conversion) Việc một người quay về với Đức Chúa Trời dựa theo nội dung của Tin Lành (Sv. Công. 26:18) 8. “Sự Bảo Tồn”, “Sự Bền Đỗ”, “Sự Kiên Tín” (Perseverance) Trạng thái một người có có niềm tin chân thật ở trong sự duy trì đối với sự cứu rỗi mà bản thân đã có (Sv. Giu. 1:24) 9. “Sự Ăn Năn” (Repentance) Việc một người nhận thức được nhu cần cứu rỗi cho bản thân và thay đổi từ chỗ không có đến chỗ có đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. Công. 26:20) 10. “Sự Xưng Công Nghĩa”, “Sự Xưng Công Bình” (Justification) Việc Đức Chúa Trời tha một người khỏi án phạt dành cho tội lỗi và nhìn nhận người ấy là đã được sạch tội (Sv. Rô. 5:9) 11. “Sự Thánh Hóa”, “Sự Nên Thánh” (Sanctification) Sự để riêng của Đức Chúa Trời để một người được đứng vững trước các sự réo gọi của tội lỗi (2Ti. 2:21) 12. “Sự Tôn Vinh”, “Sự Tôn Vinh Hiển” (Glorification) Sự trừ bỏ chung cuộc của Đức Chúa Trời để một người thôi không thể còn phạm tội được nữa và thôi không còn phải đối diện với tội lỗi nữa (Sv. Rô. 8:18; 2Cô. 4:17) Theo cách hiểu của người Tin Lành theo Phong Trào Cải Chánh, các “bước” của sự cứu rỗi diễn ra từ trước khi có dòng thời gian cho đến một người hiện diện trong dòng thời gian theo sơ đồ sau đây: (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)
“CHÂN GIÁ TRỊ VÀ Ý CHỈ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” Cơ Đốc Nhân chúng ta lắm khi còn mơ hồ về những vấn đề như nhờ đâu con người được kể là tạo vật cao trọng hơn hết trong thế giới thọ tạo của Đức Chúa Trời, vì sao chúng ta phải tôn trọng tha nhân bất kể hiện trạng của họ là như thế nào, có hay không trường hợp mà một người nào đó có thể không được kính trọng, phải như thế nào để chúng ta biết tôn trọng và được tôn trọng nhiều hơn, phải như thế nào để chúng ta biết kính trọng và được kính trọng nhiều hơn,... Tất cả những vấn đề này sẽ không được hiểu biết đầy đủ và thỏa đáng mà có thể thiếu một sự hiểu biết về chân giá trị (dignity) và giá trị (value) của con người theo Kinh Thánh. Phạm trù “chân giá trị” (dignity) được Kinh Thánh đề cập dưới nhiều hình thái khác nhau, định danh hoặc bất định danh, nhưng không hề được nhấn mạnh như một chủ đề thần học Kinh Thánh... “Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười.” (Châm. 31:25) “Còn điều răn thứ hai đây, cũng như vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình.” (Ma. 22:39; Sv. 37-40) Trong Châm. 31:25 chân giá trị của “Người Nữ Tài Đức” được định danh: “Oai phong” (Hb. Hb. רדה [hadar]) là một từ liệu nói về cái chân giá trị vốn có của người nữ này. Trái lại, trong Ma. 22:39 thì “chân giá trị” không được định danh dầu vẫn được xác định cách kín đáo: Hãy yêu “như mình”. Tương tự với “chân giá trị”, phạm trù “giá trị” (value) cũng là một phạm trù Kinh Thánh được đề cập dưới nhiều hình thái khác nhau, định danh hoặc bất định danh, nhưng không hề được nhấn mạnh như một chủ đề thần học Kinh Thánh... “Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười.” (Châm. 31:25) “Hãy kính mọi người; yêu anh em; kính sợ Đức Chúa Trời; tôn trọng vua.” (1Phi. 2:17) Ở “Người Nữ Tài Đức” không những chỉ có “chân giá trị” mà cả “giá trị” của nàng cũng được định danh: “Sức lực” (Hb. זע [‘oz]) là một từ liệu nói về sự uy dũng của nhân cách của người nữ này nhờ ở “chân giá trị” của nàng. Trái lại trong 1Phi. 2:17 thì “giá trị” không được định danh dầu vẫn được xác định cách kín đáo: Hãy “kính”, “yêu”, kính sợ”, “tôn trọng”. Dưới ánh sáng của Kinh Thánh, chỉ con người mới có chân giá trị, và chân giá trị của con người đến từ một sự cài đặt ngoại lai của Đức Chúa Trời vào bản chất người khi Ngài trực tiếp tạo dựng họ: “26 Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. 27 Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:26-27) Theo góc nhìn của con người đối với Đức Chúa Trời thì “chân giá trị” của con người là một sự thừa thọ căn bản đối với Đức Chúa Trời khiến họ hoàn toàn thuộc về Đức Chúa Trời. Ngược lại, từ góc nhìn của Đức Chúa Trời đối với con người thì “chân giá trị” của con người là một sự chia sẻ cốt lõi về chính chân giá trị của Ngài khiến cho con người có thể được ở trong mối hạnh ngộ vô cùng với chính Ngài. Theo góc nhìn của người đối với người thì người nam và người nữ đều có chân giá trị như nhau và vì vậy mà, về nguyên tắc, tất cả mọi người đều có chân giá trị như nhau. Khác với “chân giá trị”, phạm trù “giá trị” có thể được dùng để đề cập đến sức mạnh của nhân cách hay qui mô của sự hoàn thành của một người: “6 Cũng phải khuyên những người tuổi trẻ ở cho có tiết độ. 7 Hãy lấy mình con làm gương về việc lành cho họ, trong sự dạy dỗ phải cho thanh sạch, nghiêm trang, 8 nói năng phải lời, không chỗ trách được, đặng kẻ nghịch hổ thẹn, không được nói xấu chúng ta điều chi.” (Tít 2:6-8) Từ liệu “nghiêm trang” (Tít 2:7) trong Tiếng Hy Lạp là Gr. σεμνότης [semnotes] là một từ liệu nói về sự đáng kính có được nhờ việc chịu tuân theo những mẫu mực phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời. Chính “sự đáng kính” này cùng với những sự tương tự như thế làm nên “giá trị” cho một người. Như vậy “giá trị” là sự thể hiện ra qua nhân cách hay qui mô của sự hoàn thành của một người sống theo chân giá trị. Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, khi người ta không còn ở dưới sự ảnh hưởng của chân giá trị thì giá trị của họ cũng không còn: “Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi.” (Ês. 64:6) “22 Họ tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại; 23 họ đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng.” (Rô. 1:22-23) “Người Nữ Tài Đức” trong Châm. 31 được mô tả như một người mặc đầy “chân giá trị” và “giá trị” là hai phạm trù tương quan nhau cách hữu cơ: Chân giá trị càng được nguyên vẹn, càng có hiệu lực tác động cao trên đời sống một người thì giá trị thể hiện ra trên đời sống người ấy càng cao: “25 Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười. 26 Nàng mở miệng ra cách khôn ngoan, Phép tắc nhân từ ở nơi lưỡi nàng. 27 Nàng coi sóc đường lối của nhà mình, Không hề ăn bánh của sự biếng nhác. 28 Con cái nàng chỗi dậy, chúc nàng được phước; Chồng nàng cũng chỗi dậy, và khen ngợi nàng rằng: 29 Có nhiều người con gái làm lụng cách tài đức, Nhưng nàng trổi hơn hết thảy.” (Châm. 31:25-29). Đức Chúa Trời muốn chúng ta tôn trọng (honor) chân giá trị của tha nhân và kính trọng (respect) tha nhân. Tôn trọng và kính trọng là hai phạm trù khác nhau, chúng có thể đi đôi với nhau chứ không nhất thiết sẽ cứ đi đôi với nhau. Nếu một vị quan chức mà có nhân cách quá tồi tàn thì rất khó cho người ta kính trọng vị quan chức ấy (respect); nhưng chức trách của vị quan chức ấy là điều vốn được Đức Chúa Trời ban cho (Sv. Rô. 13:1; 1Ti. 2:2; Tít 3:1) và trở thành một bộ phận trong chân giá trị của vị quan chức ấy thì phải được tôn trọng (honor). Đây là một nguyên tắc Kinh Thánh đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng dầu rằng không thể kính trọng được (Sv. 1Phi. 2:17). Như vậy, tôn trọng mọi người là phận sự của chúng ta còn việc có được sự kính trọng của chúng ta hay không thì đó là việc của họ. Khi đời sống của một người, bất kể người đó là ai, tỏ ra cho thấy là không còn chịu tuân theo những mẫu mực phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời thì ấy là lúc họ tự đánh mất giá trị của mình. Kinh Thánh xem những người như vậy là người đang trong trạng thái ngủ về thuộc linh mà chỉ duy nhất Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ mới có thể thay đổi được họ khi họ chịu để cho Ngài thay đổi họ! “8 Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; 9 vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. 10 Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, 11 và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn; 12 vì dầu nói đến điều mà những người đó làm cách kín giấu, cũng đã là hổ thẹn rồi. 13 Nhưng hết thảy mọi sự đã bị quở trách đều được tỏ ra bởi sự sáng; phàm điều chi đã tỏ ra thì trở nên sự sáng vậy. 14 Cho nên có chép rằng: Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi.” (Êph. 5:8-14) Chân giá trị của chúng ta đến từ Đức Chúa Trời và giá trị của chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta chịu tuân theo những mẫu mực về giá trị phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời như thế nào. Nhưng, dầu có như thế nào thì Đức Chúa Trời vẫn muốn Cơ Đốc Nhân chúng ta là người dễ dạy! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“HỘI THÁNH LÀ GÌ?” (Ma. 16:13-19) “Anh em cũng như đá sống, được xâynên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:5) Sứ Đồ Phaolô cho biết rằng sự huyền nhiệm về Hội Thánh là “lẽ mầu nhiệm trong các đời khác chưa từng được phát lộ cho con cái loài người, mà bây giờ đã được Đức Thánh Linh tỏ ra cho các Sứ Đồ thánh và Tiên Tri của Ngài” (Êph. 3:5). Lẽ Thật về Hội Thánh đã được kín giấu cho đến lúc Đức Chúa Jêsus tuyên bố công khai về việc thiết lập Hội Thánh của Ngài trong tương lai (Ma. 16:18). Sau đó, Hội Thánh đã được đề cập đến như một thực thể hiện tại khi Sách Công Vụ Các Sứ Đồ cho biết rằng “Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh” (Công. 2:47). Để có thể làm tròn phận sự thành viên trong Hội Thánh Địa Phương, chúng ta phải học biết giáo lý về Hội Thánh… Câu hỏi được nêu lên ở đây là “Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, Hội Thánh là gì?” A. HỘI THÁNH THEO SỰ NHÌN NHẬN CỦA CHÚNG TA Chúng ta đã chịu ảnh hưởng của nhiều quan điểm và lề lối phi Kinh Thánh, thiếu lành mạnh đối với đời sống của Hội Thánh khiến cho nhiều khi Hội Thánh không còn trong sáng và hiệu quả theo sự kỳ vọng của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần tìm hiểu lại Đức Chúa Jêsus kỳ vọng gì ở Hội Thánh của Ngài. Ngày nay có quá nhiều sự vỡ mộng trong lòng các tín hữu về Hội Thánh. Nhìn chung, chúng ta dễ nhận ra một tâm trạng “mệt mỏi về Hội Thánh, nhưng đồng thời vẫn biết khát khao về Đức Chúa Trời”. Sự thật là có cả những người không còn chút hy vọng nào về Hội Thánh và quả quyết rằng họ “sẽ không bao giờ trở lại với Hội Thánh”. Khi nói về nguyên nhân làm cho “chán” Hội Thánh, người ta có thể kể ra được rất nhiều nguyên nhân, và nguyên nhân nào trông cũng “có vẻ” xác đáng cả! Điều hiển nhiên không thể chối cãi là có nhiều sự bất mãn đối với Hội Thánh vì nhận thấy Hội Thánh thiếu xứng hiệp, thiếu hữu ích, và có vẻ lãng phí thời gian… Sự nhìn nhận về Hội Thánh khác nhau tùy nhận thức cá nhân. Có người nhìn nhận Hội Thánh theo quan điểm “cơ quan” với tính cấu trúc và hành chính cao; cho rằng Hội Thánh phải đủ tính bề thế để họ có thể đứng dưới tên của nó. Có người nhìn Hội Thánh theo quan điểm “cấp dưỡng”; xem Hội Thánh là nơi phải cung cấp cho được âm nhạc họ yêu và bài giảng họ thích. Có người nhìn nhận Hội Thánh theo quan điểm “học tập”; muốn Hội Thánh phải là một loại viện giáo dục_đào tạo với một loại hình giảng dạy không chỗ trách được… Nhìn chung có nhiều tín hữu trông có vẻ đã quên mất (hay chưa biết?) ý nghĩa và giá trị chân chính của Hội Thánh; do đó, họ không có được niềm vui và sự thỏa lòng khi đến với Hội Thánh khiến cho Hội Thánh, đối với họ, chỉ là một “nơi” mà họ có thể tùy tiện đến hoặc không đến chứ không phải là cộng đoàn mà họ phải kết ước gắn bó. B. HỘI THÁNH THEO SỰ NHÌN NHẬN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI Khi nghiên cứu từ liệu “Hội Thánh” trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ khám phá được nhiều điều thú vị. Từ liệu “Hội Thánh” (Gk. “ekklesia”) chỉ được Đức Chúa Jêsus sử dụng vỏn vẹn có 3 lần (Ma. 16:18; 18:17[2 lần]), nhưng tổng số lần được các Trước Giả Tân Ước sử dụng lại lên đến 111 lần: Sứ Đồ Phaolô nhắc đến “Hội Thánh” 62 lần, Sứ Đồ Luca sử dụng từ liệu này 23 lần, Sứ Đồ Giăng sử dụng từ liệu ấy 20 lần trong Sách Khải Huyền, và các Trước Giả khác đã sử dụng từ liệu “Hội Thánh” 6 lần. I. Hội Thánh Là Một Cộng Đoàn Thứ nhất, chúng ta cần để ý rằng “Hội Thánh” nói về “con người” chứ không phải về “nơi chốn”. Hội Thánh là tập thể những người được Đức Chúa Trời gọi riêng ra cho Ngài. Trong Tiếng Hylạp, “Hội Thánh” là “ekklesia” với nghĩa nguyên thủy là một nhóm người được gọi ra riêng khỏi các công dân khác. Họ được gọi riêng ra để được hướng dẫn, dạy dỗ, và để thống nhất về những quyết định nào đó. Sau khi người của một “ekklesia” gặp riêng nhau rồi, họ trở về lại gia đình của mình, truyền đạt cho những người còn lại những điều họ đã thống nhất với nhau. Người của một “ekklesia” hành sự như sứ giả nhưng cũng đồng thời là hành giả cho các quyết định của cộng đồng (“ekklesia”) của họ. Đức Chúa Trời kính yêu của chúng ta cũng đã hành sự trong một vai trò tương tự. Đức Chúa Trời đã đến để giảng về và khởi sự cho sự trị vì yêu thương của Ngài ngay trên thế gian này. Đức Chúa Trời đã đến thế gian để kêu gọi nhân loại nhờ Ngài mà vùng dậy khỏi tội lỗi của họ. Ngài đã kêu gọi những người được lựa chọn ra khỏi quỉ quốc của tội lỗi dưới ách cai trị của quỉ vương Satan. Ngài đã kêu gọi Dân Ngài ra khỏi thảm trạng của họ, làm cho họ trở nên một cộng đoàn mới ngay giữa một xã hội cũ: “17Ta sẽ bảo hộ ngươi giữa dân nầy và dân ngoại là nơi Ta sai ngươi đến, 18đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỉ Satan mà đến Đức Chúa Trời, và cho họ bởi đức tin nơi Ta được sự tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ” (Công. 26:17-18). Đức Chúa Trời đã tập hợp Dân Ngài lại trong một thực thể gọi là Hội Thánh với sự thể hiện hữu hình của các Hội Thánh Địa Phương. Hội Thánh với các Hội Thánh Địa Phương của Đức Chúa Trời là một sự biểu hiện cho Vương Quốc Đức Chúa Trời là một thực thể thuộc linh còn mang tính vô hình trong hiện tại và sẽ là một thực thể thuộc linh có tính hữu hình trong tương lai. Hội Thánh là thực thể nói lên rằng Đức Chúa Trời đang trị vì… “19Dường ấy, anh em chẳng phải là người ngoại, cũng chẳng phải là kẻ ở trọ nữa, nhưng là người đồng quốc với các thánh đồ, và là người nhà của Đức Chúa Trời. 20Anh em được dựng lên trên nền của các Sứ Đồ, cùng các Đấng Tiên Tri, chính Đức Chúa Jêsus là Đá Góc Nhà, 21cả Cái Nhà đã dựng lên trên Đá đó, sắp đặt cách hẳn hoi, để làm nên một Đền Thờ Thánh trong Chúa. 22Ấy, anh em cũng nhờ Ngài mà được dự phần vào Nhà đó, đặng trở nên Nhà Ở của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh” (Êph. 2:19-22). Hội Thánh là thực thể nói lên rằng Vương Quốc Đức Chúa Trời đang thực hữu… Tiếng nói của sự kêu gọi, của sự ăn năn, của sự tha thứ, của sự đầu phục Đức Chúa Trời phải được nghe từ Hội Thánh của Đức Chúa Trời: “Ta sẽ giao chìa khóa Nước Thiên Đàng cho ngươi; hễ điều gì mà ngươi buộc dưới đất, thì cũng sẽ phải buộc ở trên trời, và điều gì mà ngươi mở dưới đất, thì cũng sẽ được mở ở trên trời” (Ma. 16:19). II. Hội Thánh Thuộc Về Duy Nhất Đức Chúa Trời Thứ hai, Đức Chúa Jêsus phán cho biết rằng Hội Thánh là thuộc về Ngài và Ma. 16:18 là nơi đầu tiên mà lẽ thật ấy được khải thị: “Còn Ta, Ta bảo ngươi rằng: Ngươi là Phierơ, Ta sẽ lập Hội Thánh Ta trên đá nầy, các cửa Âm Phủ chẳng thắng được Hội đó” Đây là lời phán về một lẽ thật gây ngạc nhiên. Đức Chúa Jêsus tỏ cho biết Hội Thánh của Ngài là một thực thể bất bại trước mọi đối thủ bất kỳ! “Các cửa Âm Phủ” không thể thủ thắng được trước Hội Thánh của Đức Chúa Trời! Quyền lực hung hãn của mọi thế lực thù địch không chận đứng được bước tiến của Hội Thánh vì Hội Thánh là “Hội Thánh Ta” – Hội Thánh của chính Đức Chúa Trời hằng sống! Lẽ thật ấy đã được Sứ Đồ Phaolô nhắc lại: “Anh em hãy giữ lấy mình, và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập anh em làm kẻ coi sóc, để chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình” (Công. 20:28). Phận sự của chúng ta đối với Hội Thánh là trọng đại; và, theo sự định mạng của Đức Chúa Trời, nghĩa vụ của Ngài đối với Hội Thánh là một nghĩa vụ nghiêm túc. Vì Hội Thánh là của chính Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Jêsus chẳng những công bố chủ quyền Ngài trên Hội Thánh mà Ngài cũng còn bày tỏ cho thấy sự hy sinh tận tụy của Ngài đối với Hội Thánh nữa: “25… Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh, 26để khiến Hội nên thánh sau khi lấy nước rửa và dùng Đạo làm cho Hội tinh sạch, 27đặng tỏ ra Hội Thánh đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được ở trước mặt Ngài” (Êph. 5:25-27). III. Đức Chúa Trời Lãnh Đạo Hội Thánh Lẽ Thật thứ ba về Hội Thánh được bày tỏ qua sự dạy dỗ của Sứ Đồ Phaolô về quyền Nguyên Thủ của Đức Chúa Jêsus đối với Hội Thánh: “Ấy cũng chính Ngài là Đầu của Thân Thể, tức là Đầu Hội Thánh. Ngài là ban đầu, sanh trước nhứt từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Côl. 1:18). “22Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm Đầu Hội Thánh, 23Hội Thánh là Thân Thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài” (Êph. 1:22-23). Quyền Nguyên Thủ có nghĩa là quyền lãnh đạo. Đức Chúa Jêsus nắm quyền Nguyên Thủ có nghĩa là Ngài là Lãnh Đạo Tối Cao của Hội Thánh và Ngài lãnh đạo Hội Thánh toàn diện và tuyệt đối. Để Đức Chúa Jêsus thực sự lãnh đạo Hội Thánh, chúng ta phải nghe theo Ngài, tức thuận phục Ngài trong mọi sự. Có khi chúng ta nhìn sai hướng trên vấn đề lãnh đạo Hội Thánh. Thay vì nhận thức một cách rõ ràng và thường trực rằng chính Đức Chúa Jêsus mới là Lãnh Đạo chân thực của Hội Thánh, chúng ta lại lấy các nhà lãnh đạo của Hội Thánh và quyền lãnh đạo Hội Thánh được Chúa trao làm điểm dừng cho quan niệm lãnh đạo Hội Thánh của chúng ta! Loại nhận thức trục trặc này vốn có tuổi thọ từ thời Hội Thánh sơ kỳ: “ 12Tôi có ý nói rằng trong anh em mỗi người nói như vầy: Ta là môn đồ của Phaolô; - Ta là của Abôlô; - Ta là của Sêpha; - Ta là của Đấng Christ. 13Đấng Christ bị phân rẽ ra sao? Có phải Phaolô chịu đóng đinh trên Cây Thập Tự thế cho anh em, hay là anh em đã nhân danh Phaolô mà chịu Báptêm sao?” (1Cô. 1:12-13). Vì Đức Chúa Jêsus là Lãnh Đạo tối cao và thực sự của Hội Thánh, Hội Thánh được gọi là “Thân Thể Đấng Christ”: “Nay tôi lấy làm vui về sự tôi đã chịu khổ sở vì anh em, tôi lại vì Thân Thể Đấng Christ, là Hội Thánh, mà đem xác thịt mình chịu hết các điều còn lại trong sự thương khó của Ngài” (Côl. 1:24). Hội Thánh Cơ Đốc Phổ Thông thực sự bao gồm tất cả những người đã được cứu trong Định Kỳ Hội Thánh và là những người được kết hiệp bởi sự Báp Tem của Đức Thánh Linh vào trong Đức Chúa Jêsus và kết hiệp với nhau trong Ngài để hợp thành một Thân Thể Huyền Nhiệm mà Ngài là Đầu và là Sự Sống, và trở nên Cô Dâu đã hứa của Ngài. Hội Thánh Cơ Đốc Phổ Thông được biểu thị qua các Hội Thánh Địa Phương. Các kẻ thù thuộc linh của chúng ta luôn luôn muốn làm giảm lòng kính yêu của chúng ta đối với Đức Chúa Trời (1Gi. 2:15) và phải bận tâm với những ý nghĩ trái với ý muốn của Đức Chúa Trời (Êph. 5:17). Tuy nhiên, chúng ta đang giữ chức Thầy Tế Lễ trong Hội Thánh, chúng ta phải sống đẹp ý Chúa: “Anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ mà đẹp ý Đức Chúa Trời” (1Phi. 2:5). (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“THIẾU SỰ CẦU NGUYỆN LÀ MỘT ĐIỀU ĐÁNG CHÊ TRÁCH” Không thể có sự giao thông khi chưa có sự giao tiếp, sự cầu nguyện là việc phải thiết lập đầu tiên trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời! Nếu muốn lương tâm nói lên được đúng tiếng nói của nó, và nếu muốn một tấm lòng ăn năn cảm biết được nỗi khốn khổ như vốn có, thì điều không thể thiếu được là mỗi người phải xưng hết các tội lỗi của mình. Sự xưng nhận phải được thực hiện nghiêm túc nơi từng cá nhân. Đối với một người chăn bầy, có lẽ chẳng có tội lỗi nào đáng cho chúng ta thừa nhận là “tội lỗi, rất tội lỗi” hơn là tội thiếu cầu nguyện! Thế thì điều gì đã làm cho sự thiếu cầu nguyện trở nên một tội nặng đến như thế? Trước hết, nó được xem như một trạng thái yếu đuối. Người ta viện cớ nhiều về việc thiếu thời gian và về nhiều lý do khiến xao lãng việc cầu nguyện để cho sự đáng trách của tình trạng ấy không còn được công nhận. Ước mong sao chúng ta sẽ có được một sự khát khao thật lòng rằng trong tương lai chúng ta sẽ nhìn nhận tội thiếu cầu nguyện thực sự là một diều tội lỗi. Chính một Đức Chúa Trời thánh khiết và hiển vinh hơn hết đã mời gọi chúng ta đến với Ngài, đối thoại cùng Ngài, cầu xin nơi Ngài những gì chúng ta có cần, và nếm biết sự phước hạnh có sẵn trong mối tương giao với Ngài. Chính Ngài đã tạo dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài và đã cứu chuộc chúng ta nhờ Con Độc Sanh của Ngài nên khi tương giao cùng Ngài chúng ta sẽ tìm lại được sự vinh quang cao nhất cho chúng ta và củng cố được cho sự cứu rỗi cho chúng ta. Chúng ta đã vận dụng đặc ân Thiên Thượng này như thế nào? Có biết bao nhiêu người chỉ có thể có vỏn vẹn chừng năm phút mỗi ngày cho sự cầu nguyện! Họ nói rằng họ thiếu thời gian và rằng họ không cảm thấy ham thích cầu nguyện; họ không biết làm thế nào dùng cho hết chừng khoảng nửa giờ để nói chuyện với Đức Chúa Trời! Không phải là họ không cầu nguyện; họ cầu nguyện hàng ngày nhưng không hề thấy hứng thú gì đối với sự cầu nguyện như thể là một dấu hiệu của sự tương giao với Đức Chúa Trời để cho thấy được rằng Đức Chúa Trời là tất cả đối với họ. Nếu có một người bạn đến thăm, họ sẽ có thì giờ cho người bạn ấy; họ sẽ cố xoay sở cho có được thì giờ dành cho người bạn ấy, cho dầu phải chịu hy sinh ít nhiều như thế nào đó, chỉ nhằm để nói chuyện với nhau. Quả đúng là họ có đủ thì giờ cho những gì họ thích, nhưng họ lại thiếu thì giờ để thực hiện sự tương giao với Đức Chúa Trời và thỏa vui trong Ngài! Họ cố tạo ra cho có thì giờ dành cho một vật thọ tạo là cái có thể trở thành tiện ích cho họ; thế nhưng ngày này qua ngày nọ, tháng nọ sang tháng kia họ không tài nào có thể dành được lấy một giờ cho Đức Chúa Trời. Lòng chúng ta không thấy hổ thẹn, không thấy được rằng mình đã xem thường Đức Chúa Trời đến là thế nào, khi chúng ta dám nói rằng chúng ta không thể có đủ thì giờ để tương giao cùng Ngài sao? Nếu tội lỗi ấy trông như đã hiển nhiên trong chúng ta, sao chúng ta lại còn chần chờ không dám thành thật thưa với Đức Chúa Trời rằng “Khốn nạn cho con, vì con chẳng ra gì. Chúa ôi! Xin hãy thương xót con, xin hãy tha thứ cho con tội thiếu cầu nguyện cùng Ngài”. “16Hãy vui mừng mãi mãi, 17cầu nguyện không thôi, 18phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy.” (1Tê. 5:16-18) (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“ĐỂ NHẬN DIỆN CÁC TIÊN TRI GIẢ” Cơ Đốc Nhân chúng ta cần nhận thức rằng việc nghe theo các tiên tri giả, các giáo sư giả là một việc sai phạm đối với ý chỉ của Đức Chúa Trời mà chúng ta nhất thiết phải tránh nhưng cũng đồng thời phải biết rằng việc bưng tai, bịt mắt không chịu nhận diện, nhận định, và nhận thức các tiên tri giả, các giáo sư giả đang trà trộn giữa vòng các Hội Thánh và tự nhận là “hội thánh” là một việc nguy hiểm đừng làm! (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) “Sự Tiên Tri” hay “Lời Tiên Tri” chỉ có giá trị Kinh Thánh khi sự ấy, lời ấy có liên quan đến việc khải thị chương trình cứu rỗi trọn vẹn của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh mà thôi. Mọi sự tự nhận về “Sự Tiên Tri” hay “Lời Tiên Tri” không có tính chất này đều phi Kinh Thánh, phải tránh. Kinh Thánh cho biết rằng người đưa ra những “sự tiên tri”, “lời tiên tri” không có giá trị Kinh Thánh được gọi là “tiên tri giả”. Còn có một việc đáng cho chúng ta để ý hơn nữa là Kinh Thánh liên kết các khái niệm “Tiên Tri Giả”, “Christ Giả”, “Kẻ Đối Địch”, “Kẻ Địch Lại Đấng Christ” lại với nhau chung trong một phạm trù thần học Kinh Thánh rộng hơn được gọi là là “Sự Bội Đạo” (Gr. ἀφίστημι [aphistemi])! Như vậy chuyện về các tiên tri giả chẳng phải chỉ là chuyện nhảm nhí của những kẻ nhảm nhí mà là chuyện lớn, chuyện gạt bỏ Tin Lành của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ là hành vi bội đạo (Gr. ἀφίστημι [aphistemi])… “Đức Thánh Linh phán tỏ tường rằng, trong đời sau rốt, có mấy kẻ sẽ bội đạo mà theo các thần lừa dối, và đạo lý của quỉ dữ.” (1Ti. 4:1) Hiểu biết và nhận diện các tiên tri giả, các giáo sư giả là một việc làm vừa có ích vừa là một phận sự Kinh Thánh để các Cơ Đốc Nhân có thể biết cái gì là cái gì và ai là ai. Đức Chúa Trời truyền cho chúng ta… “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ.” (1Gi. 4:1) Cơ Đốc Nhân chúng ta cần nhận thức rằng việc nghe theo các tiên tri giả, các giáo sư giả là một việc sai phạm đối với ý chỉ của Đức Chúa Trời mà chúng ta nhất thiết phải tránh nhưng cũng đồng thời phải biết rằng việc bưng tai, bịt mắt không chịu nhận diện, nhận thực, nhận định, và nhận thức các tiên tri giả, các giáo sư giả đang trà trộn giữa vòng các Hội Thánh và tự nhận là “hội thánh” là một việc nguy hiểm đừng làm! “[3] Mặc ai dùng cách nào, cũng đừng để họ lừa dối mình. Vì phải có sự bỏ đạo đến trước, và có người tội ác, con của sự hư mất hiện ra, [4] tức là kẻ đối địch, tôn mình lên trên mọi sự mà người ta xưng là Đức Chúa Trời hoặc người ta thờ lạy, rất đỗi ngồi trong đền Đức Chúa Trời, chính mình tự xưng là Đức Chúa Trời.” (2Tê. 2:3-4; Sv. Ma. 24: 5, 24; Mác 13:22; Lu. 21:8; 1Gi. 2:18, 22; 4:3; 2Gi.1:7; Khải. 19:20) Về vấn đề các tiên tri giả thì vì một lý do nào đó mà T.B. Joshua được một số người tôn sùng ở Việt Nam tôn xưng “tiên tri” chứ thật ra thì các nhà biện giáo Cơ Đốc và Cơ Đốc giáo dục học thế giới không kể T.B. Joshua vào hàng “tiên tri” (tất nhiên là tiên tri giả, “false prophet”), trong "album" của "show biz" các tiên tri giả hiện nay không có T.B. Joshua. TB. Joshua được nhìn nhận như một một Mục Sư túy ân người Nigiêria (Nigerian Charismatic Pastor), một nhà truyền giáo truyền hình (Televangelist), và là một nhà hoạt động từ thiện (Philanthropist). T.B. Joshua là người thành lập và đứng đầu “The Synagogue, Church of All Nations”, gọi tắt là “SCOAN”, là một “siêu hội thánh” ở Nigeria với hơn vài vạn người nhóm lại mỗi tuần; họ cũng có kênh truyền hình Emmanuel riêng, lôi cuốn được rất đông người theo. “SCOAN” quảng bá và xiển dương T.B. Joshua như là “một nhà tiên tri” đã "rất thành công" trong việc “nói tiên tri”, “công bố” những việc trong đời sống cá nhân của những người nhóm lại với “SCOAN” cũng như đã “nói tiên tri” về một số các sự kiện mang tầm cỡ thế giới khác được “SCOAN” chế ra thành các video để quảng bá như… (1) Về sự kiện “MH370”: Sau khi việc “MH370” xảy ra thì “SCOAN” cho ra lò một video nhận rằng T.B.Joshua đã “nói tiên tri” về việc này từ trước rồi! (2) Về các cuộc tấn công khủng bố: “SCOAN” cũng nhận rằng T.B. Joshua đã “nói tiên tri” về một số các cuộc tấn công của “ISIS”, “Al-Qaeda”, “Al-Shabaab”,… Chỉ có điều rằng trước khi các sự việc này xảy ra người ta chẳng nghe nói gì cả! (3) Về cuộc tấn công ở Ghana: Năm 2016 T.B. Joshua “nói tiên tri” rằng Ghana sẽ bị tấn công và sẽ hoàn toàn bị sụp đổ khiến tạo ra một tâm lý hoảng sợ trong dân chúng ở Ghana và nhiều người hủy bỏ các chuyến đi đến Ghana. Rất nhiều ngày sau “sự tiên tri” này của T.B. Joshua có một tên khủng bố bị bắt ở Malian khai rằng nhóm của mình cũng “dự tính” sẽ tấn công khủng bố Ghana! Thử nghĩ xem, đối với các nhóm khủng bố, hễ cứ chỗ nào tấn công được thì họ đều lên kế hoạch tấn công, chỗ nào chẳng là mục tiêu của họ? (4) Về kết quả bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ 2016: T.B. Joshua “nói tiên tri” rằng Hillary Clinton sẽ thắng cử. Thế nhưng sau khi Donald Trump thắng cử chứ Hillary Clinton không thắng cử thì T.B. Joshua nói rằng “ấy chỉ là vì người ta giải sai nghĩa thuộc linh” của lời “tiên tri” của mình! (5) Về đại dịch gây ra bởi “Chinese Virus” hiện nay: T.B. Joshua nói tiên tri trong một video do “SCOAN” phát hành rằng đại dịch này sẽ tự tiêu vào ngày 27 Tháng Ba năm 2020! Nói tiên tri theo Kinh Thánh không phải chỉ là nói về những sự mình biết trước hay ước đoán! Cơ Đốc Nhân chúng ta không cần phải để ý đến các “sự tiên tri” này làm gì vì cho dầu những sự ấy có chính xác đến 100% thì cũng không phải là những sự tiên tri hay lời tiên tri có giá trị Kinh Thánh vì “sự tiên tri” hay “lời tiên tri” chỉ có giá trị Kinh Thánh khi sự ấy, lời ấy có liên quan đến việc khải thị chương trình cứu rỗi trọn vẹn của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh mà thôi. Mọi sự tự nhận về “sự tiên tri” hay “lời tiên tri” không có tính chất này đều phi Kinh Thánh, phải tránh. Trong làng “Show Biz” các tiên tri giả trên thế giới hiện nay thì T.B. Joshua chỉ ở vai “đàn em” mà thôi. Có khá nhiều các “tiên tri giả chuyên nghiệp” đã “nói tiên tri” về đại dịch hoặc có liên quan đến đại dịch mà mức độ báng bổ đối với quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời còn kinh khủng hơn nhiều chứ chẳng “hiền hòa” như lời của T.B. Joshua đâu. Trong “album” này là chừng vài mươi các “danh gia tiên tri giả” trong làng "Show Biz" các tiên tri giả hiện nay đã nói những điều có liên quan đến “Dịch Tàu” mà không có T.B. Joshua: Ana Werner, David Hernandez, David Herzog, Dr. Cindy Jacobs, Dr. Clarice Fluitt, Glenda Jackson, Hakeem Collins, Hank Kunneman, James Goll, Jemiah Johnson, Joan Hunter, Katherine Ruonala, Kevin Zadai, Kynan Bridges, Lana Vawser, Larry Sparks, Mario Murillo, Patricia King, Perry Stone, Sid Roth, Tracy Cooke (21 người). “Time will tell”! Vâng, thời gian sẽ trả lời nhưng hãy nhớ rằng cho dầu những sự ấy có chính xác đến 100% thì cũng không phải là những sự tiên tri hay lời tiên tri có giá trị Kinh Thánh vì “sự tiên tri” hay “lời tiên tri” chỉ có giá trị Kinh Thánh khi sự ấy, lời ấy có liên quan đến việc khải thị chương trình cứu rỗi trọn vẹn của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh mà thôi. Mọi sự tự nhận về “sự tiên tri” hay “lời tiên tri” không có tính chất này đều phi Kinh Thánh, phải tránh. Một người vợ chung thủy sẽ cứ chung thủy cho đến cùng nhưng điều ấy không có nghĩa là sẽ không có ong bướm đến ve vãn. “Cô Dâu” (Sv. Khải. 19:7-8) tức là Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus Christ cũng vậy. Cơ Đốc Nhân thật thì sẽ không thay lòng đổi dạ nhưng đến cả các Cơ Đốc Nhân Thật cũng không tránh khỏi sự cám dỗ cho thay lòng đổi dạ; và nếu là Cơ Đốc Nhân thật thì sẽ không bị lung lạc về niềm tin nhưng đến cả các Cơ Đốc Nhân thật cũng không tránh khỏi sự cám dỗ cho niềm tin bị lung lạc! Đức Chúa Trời nhân từ và thương xót của chúng ta sẽ gìn giữ những kẻ kính sợ Ngài để họ vừa muốn vừa làm theo ý tốt của Ngài cho đến cuối cùng! Anh em hãy nói “Amen”!
|
Author“Side-By-Side Support Archives
December 2022
Categories |