CHÚNG TA LUÔN Ở VÀO THẾ Phải Chịu Sự Đối Nghịch Với Đám Đông! “Nhưng khi người Giuđa ở thành Têsalônica hay Phaolô cũng truyền đạo Đức Chúa Trời tại thành Bêrê, bèn đến đó để rải sự xao xuyến rối loạn trong dân chúng.” (Công. 17:13) “Trên phương diện thực hành, sự bền lòng cần thiết cho mọi lĩnh vực của đời sống Cơ Đốc.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “Khi hai Sứ Dồ đã rao truyền Tin Lành trong thành đó, và làm cho khá nhiều người trở nên môn đồ, thì trở về thành Líttrơ, thành Ycôni, và thành Antiốt, giục các môn đồ vững lòng, khuyên phải bền đỗ trong đức tin, và bảo trước rằng phải trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được nước Đức Chúa Trời.” (Công. 14:21-22) HIẾN TỪ TUYÊN THÁNH THÁI HOÀNG THÁI HẬU “Hiến Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái Hậu nguyên là trưởng nữ của Đại Vương Trần Quốc Chẩn, được vua Trần Minh Tông sách phong làm Hoàng Hậu vào tháng Mười Hai năm Quý Hợi (1323). Đến năm Đinh Dậu ( 1357), Trần Minh Tông mất, bà được vua Trần Dụ Tông tôn phong làm Hoàng Thái Hậu. Ngày mười bốn tháng Mười Hai năm Kỉ Dậu (1369), bà bị kẻ tiếm ngôi là Dương Nhật Lễ giết chết. Nhân cách của bà ra sao, sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VII, Tờ 30a-b và Tờ 31a-b) vừa chép vừa bàn rất xác đáng như sau: ‘Thái Hậu vốn tính nhân hậu, có nhiều công lao giúp rập. Trước kia khi Minh Tông còn ngự ở Bắc cung, có tên gác cổng bắt được một con cá bống trong giếng Nghiêm Quang, mồm có ngậm vật lạ, moi ra thấy có chữ, toàn những lời trù yểm, ghi tên Dụ Tông, Cung Túc, Thiên Ninh (đều là con đẻ của Hiến Từ). Tên gác cổng cầm lá bùa tâu lên vua. Minh Tông sợ lắm, truyền bắt hết cung nhân, bà mụ, thị tì ra tra hỏi. Thái Hậu thưa: - Khoan đã, sợ trong đó có kẻ bị oan, thiếp xin tự mình bí mật xét hỏi trước. Minh Tông nghe theo. Thái hậu sai người hỏi tên gác cổng: - Gần đây, phòng nào trong cung có mua cá bống? Tên gác cổng trả lời là thứ phi Triều Môn. Thái hậu nói cho Minh Tông biết, Minh Tông lập tức ra lệnh tra xét cho ra. Thái Hậu tâu rằng: - Đây là việc trong cung, không nên hở ra ngoài. Thứ phi Triều Môn là con gái của Cung Tĩnh Vương, nếu để hở ra thì quan gia sẽ sinh hiềm khích với Thái Úy. Thiếp xin bỏ qua chuyện này, không xét hỏi nữa. Minh Tông khen bà là người hiền. Đến khi Minh Tông băng, vị tướng quân là Trần Tông Hoắc muốn tỏ ra trung thành với Dụ Tông, bèn thêu dệt việc này, làm Thái Úy xuýt nữa bị hại, nhờ Thái Hậu cố sức cứu đỡ mới thoát. Người bấy giờ ca ngợi bà là đã trọn đạo làm mẹ, tuy là phận con trưởng, con thứ không giống nhau, mà lòng nhân từ của bà thì đối với con nào cũng thế. Với bà, ân nghĩa vua tôi, cha con, anh em, không một chút thiếu sót, từ xưa đến nay chưa ai có được như vậy. Người xưa có nói ‘Nghiêu, Thuấn trong nữ giới’, Thái hậu được liệt vào hàng ấy. Bà từng hối tiếc về việc lập Nhật Lễ. Sau Nhật Lễ ngầm đánh thuốc độc giết bà’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) CHÚNG TA CÓ SỰ TRÔNG CẬY Trong Đức Chúa Jêsus Christ! “Phaolô, vâng mạng Đức Chúa Trời là Cứu Chúa chúng ta, và vâng mạng Đức Chúa Jêsus Christ là sự trông cậy chúng ta, làm sứ đồ của Đức Chúa Jêsus Christ.” (1Ti. 1:1) “Sự thờ phượng thật luôn đi đôi với hầu việc chân chính: Người thờ phượng thật sẽ tự động hầu việc, nhưng người hầu việc kiếm cơm chưa hẳn đã là người thờ phượng thật.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “Đức Chúa Trời đã dựng nên thế giới và mọi vật trong đó, là Chúa của trời đất, chẳng ngự tại đền thờ bởi tay người ta dựng nên đâu. Ngài cũng chẳng dùng tay người ta hầu việc Ngài dường như có cần đến sự gì, vì Ngài là Đấng ban sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài.” (Công. 17:24-25) “…Xưa nay, có thể có kẻ ‘đói ăn vụng, túng làm càn’ chứ còn như đường đường là đấng vương tước như Bảo Uy, có đâu nghèo đến nỗi phải ăn trộm áo vua. Tư thông với cung nhân đã là một lần ăn trộm, ấy là trộm tình. Mượn tay cung nữ để lấy áo vua là lại thêm một lần ăn trộm nữa, ấy là trộm của. Sinh ra trên nhung lụa mà vẫn ăn trộm thì con người ấy chẳng đáng sống giữa cõi đời…” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) BẢO UY VƯƠNG ĂN TRỘM “Tháng Sáu năm Đinh Hợi (1347), Bảo Uy Vương phạm tội, bị triều đình nhà Trần đuổi khỏi kinh sư, nói là cho làm chức Phiêu Kị Tướng Quân ở trấn Vọng Giang (đất Diễn Châu, Nghệ An ngày nay) nhưng Bảo Uy Vương đi chưa đến nơi thì đã bị võ sĩ của triều đình đuổi theo và giết chết. Vì sao một quý tộc cao cấp như Bảo Uy Vương lại bị giết chết một cách thê thảm như vậy. Đầu đuôi vụ án này được sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VII, Tờ 13b và Tờ 14a) chép lại như sau: ‘Buổi đầu dựng nước, thuyền buôn nước Tống sang dâng người nước Tiểu Nhân, thân dài bảy tấc, tiếng như ruồi nhặng, không thông ngôn ngữ, lại dâng một tấm vải hỏa hoãn, giá mỗi thước ba trăm quan tiền, cất giữ nhiều đời làm của quý. Sau, đem may áo cho Vua (đây chỉ Trần Dụ Tông - ND), vì cắt hơi ngắn nên Vua sai cất trong nội phủ. Bảo Uy Vương tư thông với cung nhân và lấy trộm áo ấy. Một hôm, Bảo Uy mặc áo ấy vào trong, mặc thêm áo khác che ở ngoài rồi vào chầu, tâu việc trước mặt Thượng Hoàng, ngờ đâu, tay áo trong lộ ra. Thượng hoàng trông thấy, có ý nghi bèn sai người kiểm xét lại, quả thấy áo quý cất giữ đã mất. Người cung nhân (tư thông với Bảo Uy Vương) sai thị tì già đến nhà Bảo Uy Vương lấy áo đem về, rồi ngầm đem vào cung dâng trình. Thượng Hoàng không nỡ giết, đuổi Bảo Uy ra làm quan ở trấn ngoài, nhưng lại sai võ sĩ đi thuyền nhẹ đuổi theo, trên sông Vạn Nữ (tức sông Trinh Nữ ở Yên Mô, Ninh Bình) thì kịp, giết chết Bảo Uy Vương, quăng xác vào bãi cát rồi về’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) CHÚNG TA ĐÃ ĐƯỢC CHUỘC Nhờ Đức Chúa Jêsus Phó Chính Mình Ngài Làm Giá Chuộc! “Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ.” (1Ti. 2:6) “Nếu đời sống của Cơ Đốc Nhân phải là đời sống cầu nguyện thì lúc khó cầu nguyện nhất chính là lúc cần cầu nguyện nhất.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi, phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy.” (1Tê. 5:16-18) “Theo điển lễ, thiên tử không nên tới Ngự Sử Đài, ấy là vì làm thế sẽ tạo ra sự thân mật quá mức bình thường, khiến các quan ngự sử khó bề can gián khi vua có lỗi. Thiên tử phải chăm chú đọc sử, nhưng chỉ là sử viết về cha ông đã khuất của mình, học chỗ hay, tránh chỗ dở và nghiêm xét lời bình phẩm của sử gia để sửa đức chính, chứ không được đọc thực lục là sử viết về chính mình, cốt giữ cho sử gia sự khách quan và trung thực, không bị mang vạ khi viết về chỗ dở của thiên tủ đang trị vì. Thượng hoàng Minh Tông ngự đến Ngự sử đài ngay sau khi mới trùng tu ấy là sự thường, không trái điển lễ. Doãn Định và Nguyễn Như Vi trách cứ cả Thượng Hoàng trong việc này là quá đáng. Làm phức tạp một việc vốn chỉ rất đơn giản là điều tối kị của những người chăn dân. Ôi, chính trực và gàn dở vốn dĩ hoàn toàn khác nhau, vậy mà sao người đời dễ lầm lẫn thế!” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) DOÃN ĐỊNH VÀ NGUYỄN NHƯ VI BỊ BÃI CHỨC “Năm Nhâm Ngọ (1342), triều Trần sai trùng tu Ngự Sử Đài. Việc xong, Thượng Hoàng Trần Minh Tông ngự tới xem xét, cùng đi có quan Ngự Sử Trung Tán là Lê Duy theo hầu. Bởi việc này mà các quan Giám sát Ngự sử là Doãn Định và Nguyễn Như Vi bất bình, rồi cũng vì bất bình mà hóa ra gàn dở nên cả hai bị bãi chức. Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VII, Tờ 11b và 12a) chép rằng: ‘Bấy giờ đã trùng tu xong Ngự Sử Đài. Sáng sớm, Thượng Hoàng ngự tới, Ngự Sử Trung Tán Lê Duy theo hầu. Thượng hoàng trở về cung rồi Doãn Định và Nguyễn Như Vi mới đến. Cả hai bèn làm sớ kháng nghị, nói là Thượng Hoàng không được vào Ngự Sử Đài, lại còn hặc tội Lê Duy không biết can ngăn, lời lẽ rất gay gắt. Thượng hoàng gọi họ đến, dụ rằng: - Ngự Sử Đài cũng là một trong các cung điện, chưa từng có cung điện nào mà thiên tử lại không được vào. Vả chăng, trong Ngự Sử Đài xưa kia còn có chỗ để thiên tử giảng học, các bạ thư chi hậu dâng hầu bút nghiên cũng ở đó cả. Đó là việc cũ về việc thiên tử vào Ngự Sử Đài. Ngày xưa, Đường Thái Tông còn xem cả thực lục, huống chi là việc vào Ngự sử đài. Bọn Định cố cãi, mấy ngày vẫn không thôi. Vua (chỉ Trần Dụ Tông - ND) dụ họ hai ba lần cũng không được, bèn bãi chức hết cả’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) CHÚNG TA ĐÃ BIẾT ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI Và Cũng Đã Được Đức Chúa Trời Biết! “Nhưng hiện nay anh em biết Đức Chúa Trời, lại được Đức Chúa Trời biết đến nữa, sao còn trở hướng về lề thói hèn yếu nghèo nàn đó mà suy phục nữa ư?” (Gal. 4:9) “Phần thưởng cho việc biết bền lòng chịu đựng thử thách luôn luôn là sự trưởng thành thuộc linh.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “Ngươi chớ ngại điều mình sẽ chịu khổ. Này, ma quỉ sẽ quăng nhiều kẻ trong các ngươi vào ngục, hầu cho các ngươi bị thử thách; các ngươi sẽ bị hoạn nạn trong mười ngày. Khá giữ trung tín cho đến chết, rồi ta sẽ ban cho ngươi mão triều thiên của sự sống.” (Khải. 2:10) “…Vua đích thân đi xem xét việc chữa cháy, đó âu cũng là một sự lạ. Vua kiên nhẫn xem xét cho đến lúc qua cơn hỏa hoạn, lại còn sai quan ghi nhận công lao của từng người chữa cháy, sự ấy có lẽ còn lạ hơn. Gặp được vua ấy,bậc có tài trí như Đoàn Khung được cất nhắc là phải lắm. Tài mọn mà còn được đấng chí tôn biết đến, huống chi kế sách mưu lược lớn của lương thần. Thuật dùng người của Thánh Tông thật đáng để cho chúng ta suy gẫm lắm thay!...” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) CHUYỆN ĐOÀN KHUNG XÉT ĐOÁN VIỆC CHỮA CHÁY “Đoàn Khung làm quan thời Trần suốt ba đời vua là Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông. Thời Trần Anh Tông (1293 - 1314) ông giữ chức Kiểm Pháp Quan, nổi tiếng là bậc xét án minh bạch, vẫn được vua khen là người thông minh và nhớ lâu. Thực sự, chức vụ ban đầu của ông là Nội Thư Gia. Bởi chức ấy mà ông luôn có dịp được hầu cận Nhà vua, có điều kiện thuận lợi để thi thố tài năng của mình ngay trước mặt vua. Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển V, Tờ 37a và 37b) có chép một đoạn khá độc đáo thời ông làm chức Nội Thư Gia đời Trần Thánh Tông (1258 - 1278) như sau: ‘Hồi đó, nhà dân ở kinh thành thường bị cháy về ban đêm. Vua ra ngoài thành xem xét việc chữa cháy. Nội Thư Gia Đoàn Khung đi theo. Vua sai điểm xem người nào đến chữa cháy và ai đã đến trước. Khung ấn đầu từng người một, bảo ngồi xuống để đếm, xong, tâu rõ người nào đến trước, người nào đến sau. Vua hỏi: Tại sao biết được? Khung trả lời: Thần ấn đầu từng người, thấy ai tóc thấm mồ hôi và có tro bụi bám vào nhiều thì đó là người đến trước và cố sức chữa, người nào đầu tóc không có mồ hôi và tro bụi khô bay là người đến sau không kịp chữa. Vua cho là giỏi, có ý cất nhắc để dùng’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “Ước mong rằng sẽ có người tò mò đọc, rồi thấy đáng đọc, rồi muốn đọc, rồi đọc, rồi sống…” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “CÁCH PHỤC LÒNG NGƯỜI” Mình làm người sang trọng giàu có, thì chớ nên kiêu sa. Mình là bậc trông minh tài trí, thì chớ nên khinh ngạo. Mình có sức lực khỏe mạnh, thì chớ nên đè nén người. Mình ăn nói linh lợi, thì chớ nên dối trá người. Mình còn kém thì phải học, chưa biết thì phải hỏi. Ðối với làng nước, thì phải giữ cái trật tự trên dưới. Ðối với người nhiều tuổi, thì phải giữ cái nghĩa con em. Ðối với người bằng vai, thì phải giữ cái nghĩa bầu bạn. Ðối với lũ trẻ thơ, thì phải dạy bảo khoan dung. Như vậy thì ai cũng yêu, ai cũng kính, không ai tranh giành với mình. Tâm địa rộng rãi thênh thang như trời đất, thì bao bọc được cả muôn loài. (Hàn Thi Ngoại Truyện) Giải Nghĩa: Hàn Thi Ngoại Truyện: Là bộ sách chép những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Ðế lấy những ý trong thơ của người ta mà làm. Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ còn ngoại truyện mà thôi. Lời Bàn: Muốn cho người tâm phục, không phải lấy tiền tài hay quyền thế mà khiến được, tất phải biết cách cư xử với người cho phải đạo thì mới được. Bài này chính tóm tắt mấy câu về cái đạo ấy. Ðoạn trên cốt ngăn ngừa mấy câu, cái ác tính thường kẻ hơn người hay mắc phải. Ðoạn dưới nói cách ăn ở với mọi bậc người trong xã hội. Nói tóm lại khiêm nhã kính ái là một phương pháp rất hay để ở đời. (“Cổ Học Tinh Hoa”, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân) CHÚNG TA ĐÃ BIẾT ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI Và Cũng Đã Được Đức Chúa Trời Biết! “Nhưng hiện nay anh em biết Đức Chúa Trời, lại được Đức Chúa Trời biết đến nữa, sao còn trở hướng về lề thói hèn yếu nghèo nàn đó mà suy phục nữa ư?” (Gal. 4:9) “Dầu không thể ngăn cho người khác khỏi vấp phạm vì chúng ta, chúng ta vẫn phải ngăn đừng để mình trở thành cớ vấp phạm cho người khác.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “Nếu con mắt ngươi làm cho ngươi sa vào tội lỗi, thì hãy móc mà ném cho xa ngươi đi; vì thà ngươi một mắt mà vào nơi hằng sống, còn hơn là đủ hai mắt mà bị quăng vào lửa địa ngục.” (Ma. 18:9) “… Tước Đại Vương, chức Tể Tướng, giàu không ai bằng ông, sang cũng chẳng ai bằng ông, và bận quốc gia đại sự chắc cũng chẳng mấy ai như ông, vậy mà ông vẫn ham học dám học và học giỏi. Điều cần nói thêm là Nhật Duật sống rất nghệ sĩ, trong nhà không lúc nào dứt tiếng đàn ca. Đọc sử, có người hỏi rằng ‘Nhật Duật học vào lúc nào mà giỏi thế?’. Ôi, cái sai khó sửa đã chứa đựng ngay trong câu hỏi này. Ở đời, chỉ nên hỏi nhau là học như thế nào chớ đừng bao giờ hỏi là học vào lúc nào. Tạo hóa có cho ai thêm riêng một giờ trong một ngày đâu…” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) SỞ HỌC CỦA TRẦN NHẬT DUẬT “Không thấy sử chép chuyện quý tộc họ Trần đi thi, nhưng sở học của những nhân vật như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nguyên Đán,... quả là đáng phục vô cùng. Đây chỉ xin theo Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VII, Tờ 2a-b và Tờ 3a) để kể riêng sở học của Trần Nhật Duật, người được coi là nhà ngôn ngữ học lỗi lạc ở cuối thế kỉ XIII đầu thế kỉ XIV: ‘Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi ở thôn Bà Già. Thôn này có từ hồi Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Vua Lý bắt được người Chiêm rồi cho về ở đấy, theo tiếng Chiêm mà đặt tên thôn là Đa-gia-ly, sau người đời gọi sai thành thôn Bà Già. Nhật Duật đến chơi, có khi đến ba bốn ngày mới về. Nhật Duật lại hay đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với nhà sư người Tống, ở lại lâu mới về. Người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến nhà ông. Nếu là khách Tống thì ông kéo ghế ngồi gần, chuyện trò suốt buổi, nếu là người Chiêm hay người các dân tộc thì theo phong tục của họ mà tiếp đãi. Đời Nhân Tông ( 1278 - 1293), sứ nước Sách-mã-tích (tức nước Tumasik, thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo - ND) sang cống, (triều đình) không tìm được người phiên dịch, chỉ có Nhật Duật là dịch được. Có người hỏi ông vì sao biết tiếng nước họ, ông trả lời rằng thời Thái Tông (1225 - 1258), sứ nước ấy sang, nhân có giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ. Nhân Tông từng nói: ‘Chú Chiêu Văn (chỉ Trần Nhật Duật, vai chú ruột của vua Nhân Tông - ND) có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc nên mới giỏi tiếng các nước đó’. Hồi làm Tể Tướng, ông thường qua nhà một người Tống là Trần Đạo Chiêu, nói chuyện với nhau hàng giờ không mỏi. Anh Tông biết chuyện, nói với ông rằng: ‘Tổ phụ là Tể Tướng (Nhật Duật vai ông của Anh Tông nên Anh Tông gọi là tổ phụ - ND), Đạo Chiêu tuy là người Tống, nhưng đã có Hàn Lâm Phụng Chỉ (chức quan lo phiên dịch - ND), há nên ngồi nói chuyện với hắn’. Theo lệ cũ, sứ Nguyên sang phải sai người biết tiếng để phiên dịch. Tể Tướng không được nói chuyện trực tiếp với họ, làm thế để lỡ có gì sai sót thì đổ lỗi cho người phiên dịch. Nhật Duật thì không thế. Tiếp sứ Nguyên, ông thường nói chuyện thẳng với họ mà không mượn người phiên dịch. Khi sứ xong việc, về nơi nghỉ ngơi thì dắt tay cùng về, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn quen biết. Sứ Nguyên hỏi ông: ‘Ông là người Chân Định (vùng thuộc tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc ngày nay - ND) tới làm quan ở đây chớ gì?’. Nhật Duật ra sức cãi lại nhưng họ vẫn không tin, có lẽ vì hình dáng và tiếng nói của ông giống người Chân Định’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) CHÚNG TA THẤY ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI KHÔNG THỂ THẤY ĐƯỢC Trong Và Qua Đức Chúa Jêsus! “Ấy chính Ngài là hình ảnh của Đức Chúa Trời không thấy được, là Đấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên.” (Côl. 1:15) “Chưa biết tự bỏ mình thì việc kiêng ăn chỉ là một trò giả hình.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “Thật, các ngươi kiêng ăn để tìm sự cãi cọ tranh cạnh, đến nỗi nắm tay đánh nhau cộc cằn; các ngươi kiêng ăn trong ngày như vậy, thì tiếng các ngươi chẳng được nghe thấu nơi cao.” (Ês. 58:4) “… Sau khi chép lại chuyện này cho gọn hơn, các tác giả sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục phê rằng: ‘Rất phải đạo đàn bà, nghìn xưa ít có’…. (Chính Biên, Quyển IX, Tờ 31)” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) ĐỨC ĐỘ CỦA THUẬN THÁNH BẢO TỪ HOÀNG THÁI HẬU “Thuận Thánh Bảo Từ là Hoàng Hậu của vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) và là thân mẫu của vua Trần Minh Tông (1314 - 1329). Bà vốn là con gái của Hưng Nhượng Đại vương Trần Quốc Tảng, tức cháu nội của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Bà sinh năm nào không rõ, chỉ biết mất vào tháng Bảy năm Canh Ngọ (1330). Bình sinh, bà là người đức độ, rất được người đương thời kính trọng. Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VII, Tờ 1ab và tờ 2a) chép rằng: ‘Thái Hậu nhân từ. Các con của Anh Tông, dù là do vợ thứ sinh ra, bà cũng rất yêu dấu, chăm sóc như con mình. Công chúa Huệ Chân được Anh Tông yêu quý, Thái hậu cũng rất yêu nàng. Công chúa Thiên Chân là con đẻ của Thái hậu, nhưng khi được ban thức gì thì bà cho Huệ Chân trước, sau mới đến Thiên Chân. Anh Tông mất, Thái hậu càng chăm sóc Huệ Chân hơn trước. Đến như đối xử với các cung tần cũng rất thịnh tình, như nữ quan trong cung là Vương thị (mẹ đẻ của Huệ Chân), được Vua (Anh Tông - ND) yêu mà có thai, Thái hậu đã lấy cả Song Hương Đường (phòng ngủ của chính Thái Hậu) cho làm nơi sinh nở. Vương thị sanh xong thì mất. Cung nhân ngầm tâu với Thượng Hoàng (Anh Tông - ND) là Thái Hậu giết Vương thị, nhưng Thượng hoàng vẫn biết Thái Hậu là người nhân từ, liền nổi giận lấy roi đánh người cung nhân ấy. Thái Hậu biết vẫn chẳng để bụng’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) CHÚNG TA CHỊU XƯNG ĐỨC CHÚA JÊSUS LÀ CHÚA Là Nhờ Được Đức Thánh Linh Ngài Cảm Động! “Bởi đó, tôi tỏ cùng anh em, chẳng ai cảm Thánh Linh của Đức Chúa Trời, mà nói rằng: Đức Chúa Jêsus đáng nguyền rủa! Nếu không cảm Đức Thánh Linh, cũng chẳng ai xưng Đức Chúa Jêsus là Chúa!” (1Cô. 12:3) “Một tấm lòng hồn hậu, không tính toán là điều mà tình bạn cần hơn hết.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “Nếu hai người không đồng ý với nhau, thì há cùng đi chung được sao?” (Am. 3:3) “Trong việc này, Quốc Sử Quán triều Nguyễn phê Trần Minh Tông là ‘có kiến thức’ quả thật xác đáng. Phải định ngày cho việc ấy là xem trọng việc mà hoạch định; theo cách nghĩ của thế giới hiện đại thì đó là một phần của ‘planning’, đâu phải như cách nghĩ u mê của những kẻ chịu ảnh hưởng mù quán của các âm dương gia! Xưa đã có người biết thế nhưng tiếc thay nay vẫn còn lắm kẻ không biết!” (Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD) THƯỢNG HOÀNG TRẦN MINH TÔNG VỚI VIỆC CHỌN NGÀY “Tháng Bảy năm Canh Ngọ ( 1330), Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng Thái Hậu mất tại am Mộc Cảo (Yên Sinh, Hưng Yên). Bà là Hoàng Hậu của vua Trần Anh Tông và là thân mẫu của vua Trần Minh Tông. Ngày mười lăm tháng Hai năm Nhâm Thân, Trần Minh Tông (bấy giờ đã nhường ngôi cho con là Trần Hiến Tông để lên làm Thái Thượng Hoàng) cho phụ táng bà vào Thái Lăng (tức lăng của Trần Anh Tông). Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VII, Tờ 5b) và sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính Biên, Quyển IX, Tờ 33) có ghi lại việc này vắn tắt như sau: ‘Trước đó, Thượng hoàng sai các quan chọn ngày chôn cất. Có người bác đi, nói rằng: - Chôn năm nay tất hại đến người chủ tế. Thượng hoàng sai hỏi lại người đó rằng: - Ngươi biết là sang năm ta nhất định chết à? Người đó trả lời không biết. Thượng hoàng liền nói: - Nếu sang năm mà ta chết thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu sớm chẳng hơn là chết rồi mà vẫn chưa lo được việc đó ư. Lễ cát hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc chứ đâu phải câu nệ họa phúc như các nhà âm dương. Rốt cuộc vẫn cử hành lễ phụ táng ấy’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) CHÚNG TA PHẢI TIN ĐỨC CHÚA JÊSUS Thể Theo Công Việc Ngài Làm! “Ví bằng Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi chớ tin Ta.” (Gi. 10:37) “Dầu lâm nghịch cảnh thế nào thì Cơ Đốc Nhân vẫn không hề thiếu ân điển và dầu được thuận thời thế nào thì Cơ Đốc Nhân vẫn cứ cần ân điển.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “Ân điển Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối. Vậy tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi.” (2Cô. 12:9) “…Làm cho tướng giặc hung hãn phải khiếp sợ như ông từng làm mới là khó, chứ làm cho đám gia nô thân phận thấp hèn phải khiếp sợ thì có khó gì…” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) PHÉP XỬ THẾ CỦA TRẦN NHẬT DUẬT “Trần Nhật Duật (1254 - 1330) là Hoàng Tử thứ sáu của vua đầu triều Trần là Trần Thái Tông (1225 - 1258), tước Chiêu Văn Đại Vương, làm quan thờ trải bốn đời vua là Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và Minh Tông. Vào triều, Nhật Duật là Tể Tướng, chính sự nhờ ông mà thêm phần rành mạch; về thái ấp, Nhật Duật là bậc nghiêm cẩn mà nhân từ, phong lưu mà vẫn liêm khiết, phong hóa một vùng cũng nhờ ông mà thêm phần tốt đẹp. Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VII, Tờ 3b Và Tờ 4a) có đoạn chép về ông như sau: ‘Ông là người hòa nhã, độ lượng, mừng vui hay giận dữ đều không lộ ra nét mặt, trong nhà không bao giờ chứa roi để đánh gia nô, nếu có đánh thì cũng kể rõ tội rồi sau mới đánh. Có lần ông sai gia đồng giữ thuyền, tên này bị gia đồng của Quốc Phụ (chỉ Trần Quốc Chẩn - ND) đánh. Có người đến mách, ông hỏi: - Có chết không? Người đó trả lời: - Chỉ bị thương thôi. Ông nói: - Không chết thì thôi, mách làm gì? Lại có người kiện thị tì của ông với Quốc Phụ, Quốc Phụ sai gia đồng tới bắt. Người thị tì chạy vào trong phủ, người đi bắt đuổi đến nhà giữa, bắt trói ầm ĩ. Phu nhân khóc lóc nói với ông: - Ân chúa là Tể Tướng, Bình Chương (chỉ Trần Quốc Chẩn) cũng là Tể Tướng. Vì ân chúa nhân từ, nhu nhược, nên người ta mới coi khinh đến nước này. Nhật Duật vẫn ung dung không nói, xong, chậm rãi sai người ra bảo kẻ thị tì rằng: - Mày cứ ra đi, ở đâu cũng đều có phép nước cả’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) |