REV. ĐOÀN NHẬT TÂN, PHD
  • About Me
  • My Argument
    • Nhận Diện
    • Nhận Thực
    • Nhận Định
    • Nhận Thức
  • My Presentation
    • Góp Nhặt
    • Chắt Lọc
    • Giảng Dạy
    • Truyền Bá
  • My Exhortation
    • Kinh Truyện
    • Sử Tích
    • Mục Ngữ
    • Nhân Thân

“CƠ ĐỐC NHÂN & NHÂN THÂN CƠ ĐỐC”

31/7/2019

 
Picture
CHÚNG TA ĐÃ ĐƯỢC ĐỒNG SỐNG LẠI
Với Đức Chúa Jêsus Christ! 
“Anh em đã bởi phép báptêm được chôn với Ngài,
thì cũng được sống lại với Ngài bởi đức tin trong quyền phép Đức Chúa Trời,
là Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại.”

(Côl. 2:12)
Picture

“MỤC SƯ & MỤC NGỮ”

31/7/2019

 
Picture
​“Nếu không có một sự tin quyết vào quyền tể trị tối cao
trong đức nhân từ và đức thương xót của Đức Chúa Trời
người ta sẽ không thể nào vững lòng chịu khổ được.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)
​
Picture
“[2] Hỡi anh em,
hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn,
[3] vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục.
[4] Nhưng sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó,
hầu cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn,
không thiếu thốn chút nào”
(Hê. 1:2-4)
 

"SỬ TÍCH & SỬ LUẬN"

31/7/2019

 
Picture
“Người có đức thanh liêm sợ của hối lộ hơn sợ chết vì nó hủy hoại thanh danh; ngày nay loạn vì người ta chẳng hề cảm thức được thanh danh là gì”
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
QUAN KIỂM PHÁP TRẦN KIẾN

“Tháng Tư năm Đinh Dậu (1297) vua Trần Anh Tông (1293-1314) đã bổ dụng Trần Kiến làm Đại An Phủ Sứ ở kinh sư, lại cho kiêm luôn chức Kiểm Pháp của triều đình. Lí do việc bổ dụng này đã được sách Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính Biên, Quyển VIII, Tờ 25) ghi lại như sau:

‘Trần Kiến là người cương trực, từng làm quan An phủ sứ ở Thiên Trường. (Hồi ấy) có người mang thức ăn đến biếu, Trần Kiến hỏi:

- Có việc gì mà biếu?
​
Người ấy trả lời:

- Vì ở gần sở lị.

Mấy hôm sau, người ấy đem việc đến cầu giúp, Trần Kiến giận lắm, lấy tay móc họng cho ói ra.
​
Đến đây, (Trần Kiến) được cất nhắc lên làm quan Kiểm Pháp, xét xử công bằng, thỏa đáng, mọi người đều nói Trần Kiến có thể quyết đoán hình ngục được’.”

(Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003)

“CƠ ĐỐC NHÂN & NHÂN THÂN CƠ ĐỐC”

30/7/2019

 
Picture
CHÚNG TA ĐÃ ĐƯỢC TRỞ LẠI
Với Đấng Chăn Giữ Mình! 
“Vì anh em vốn giống như con chiên lạc,
mà bây giờ đã trở về cùng Đấng Chăn Chiên
và Giám Mục của linh hồn mình.”

(1Phi. 2:24)
Picture

“MỤC SƯ & MỤC NGỮ”

30/7/2019

 
Picture
“Đối với kẻ ác chưa chắc Thiên Đàng đáng quí hơn Địa Ngục
vì sự bình an ở đó chính là sự bất an đối với họ,
phước hạnh ở đó chính là bất hạnh đối với họ!”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)
Picture
“Anh em há chẳng biết những kẻ không công bình
chẳng bao giờ hưởng được Nước Đức Chúa Trời sao?”
(1Cô. 6:9)

"SỬ TÍCH & SỬ LUẬN"

30/7/2019

 
Picture
“…Mới hay, làm quan toà cũng cần có dũng khí, bởi thiếu dũng khí thì chẳng bao giờ bảo vệ được công lí…”
(Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003)
PHÍ TRỰC XỬ ÁN
“Năm 1317, quan Hình Bộ Lang Trung của triều Trần, tên là Phí Trực, được Thượng Hoàng Trần Anh Tông cho kiêm giữ chức An Phủ Thiên Trường. Phí Trực là người nổi tiếng thông minh và làm việc rất cẩn thận nên ai cũng kính nể. Mỗi lần xử án. Phí Trực thường xem đi xét lại rất kĩ, thà mang tiếng là chậm, chớ quyết không chịu xử sai. Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VI, Tờ 34b) có chép lại một trong những vụ án do Phí Trực xử như sau:

‘Bấy giờ, trộm cướp bắt đầu nổi lên, có tên Văn Khánh là đầu sỏ bọn cướp. Có người bắt được một tên cướp, giải lên nộp quan và bảo nó chính là Văn Khánh. Đến lúc tra hỏi, tên ấy nhận ngay, ai cũng cho là thực, duy có mỗi Trực vẫn ngờ, án ấy để lâu không giải quyết. Thượng Hoàng hỏi chuyện đó, Trực trả lời rằng, mạng người rất trọng, lòng tôi còn có chỗ ngờ, không dám liều lĩnh xử quyết. Không bao lâu sau, Thượng Hoàng lại hỏi, Trực lại trả lời như lần trước. Thượng Hoàng giận mà bảo rằng, nó đã nhận như thế, còn ngờ gì nữa. Trực tâu, nó không bị tra tấn khổ sở mà điềm nhiên thú nhận, thần trộm lấy làm ngờ. Một tháng sau. Văn Khánh thật quả nhiên bị bắt. Thượng hoàng do đó khen Trực có tài’.”
​
(Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003)

“CƠ ĐỐC NHÂN & NHÂN THÂN CƠ ĐỐC”

29/7/2019

 
Picture
CHÚNG TA ĐÃ ĐƯỢC CỨU
Theo Sự Chỉ Định Của Đức Chúa Trời! 
“Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh,
chẳng phải theo việc làm chúng ta, bèn là theo ý riêng Ngài chỉ định,
theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ từ trước muôn đời vô cùng.”

(2Ti. 1:9)
Picture

“MỤC SƯ & MỤC NGỮ”

29/7/2019

 
Picture
“Vận dụng hết trí lực để giảng
nhưng thiếu linh lực của sự tin quyết
thì phận sự giảng vẫn chưa được hoàn thành.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Picture
“Vả, đạo Tin Lành chúng tôi đã rao truyền cho anh em,
không những bằng lời nói thôi, lại cũng bằng quyền phép,
Đức Thánh Linh và sức mạnh của sự tin quyết nữa.
Vì anh em biết rõ cách chúng tôi ở giữa anh em
và lòng yêu thương đối với anh em là thế nào”
(1Tê. 1:5)

"SỬ TÍCH & SỬ LUẬN"

29/7/2019

 
Picture
“Lắm khi biểu hiện bên ngoài không phản ánh được cách trung thực tấm lòng của một con người;
người khóc không luôn luôn buồn và người cưởi không luôn luôn vui!”
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
CHUYỆN UY TÚC CÔNG VÀ VĂN HUỆ CÔNG
“Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VI, Tờ 25b) có chép hai mẩu chuyện về lòng chung thủy của Uy Túc Công và Văn Huệ Công. Xin tóm lược như sau:

Uy Túc Công (tên thật là Trần Văn Bích, con trai Trần Đạo Tái, cháu nội của Trần Quang Khải) có vợ là Công chúa Thiên Trân. Công chúa Thiên Trân chẳng may mất sớm, vua Trần Anh Tông thương xót lắm, thân đến đưa tang. Uy Túc Công lăn ra đất, khóc lóc rất thảm thiết, Vua đến cũng không dậy nổi, phải hai người dìu mới ra tiếp được. Bấy giờ, phần vì thấy Uy Túc Công có vẻ thương vợ quá, phần vì thời ấy có lệ định rằng, những ai lấy Công chúa, nếu Công chúa mất trước hoặc giả là bỏ nhau thì không được lấy vợ khác, nên ai cũng tin là Uy Túc Công nhất định sẽ ở vậy đến hết đời. Ấy vậy mà sau đó chẳng bao lâu, Uy Túc Công lại lấy Công chúa Huy Thánh.

Văn Huệ Công (tên thật là Trần Quang Triều, con của Hưng Nhượng Đại vương Trần Quốc Tảng, cháu nội Trần Hưng Đạo) có vợ là Công chúa Thượng Trân. Công chúa Thượng Trân cũng chẳng may mà mất sớm, vua Trần Minh Tông cũng thân đến đưa tang như trước đó vua cha đã đến đưa tang Công chúa Thiên Trân vậy. Khi Vua đến, Văn Huệ Công ra đón tiếp, tâu bày mọi việc rành mạch, xem bề ngoài như chẳng hề có đau buồn gì. Mọi người thấy vậy ai cũng cho là chẳng bao lâu nữa, Văn Huệ Công sẽ lấy vợ khác, nào ngờ, về sau Văn Huệ Công lại đi tu suốt đời.”
​
(Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003)

“CƠ ĐỐC NHÂN & NHÂN THÂN CƠ ĐỐC”

28/7/2019

 
Picture
CHÚNG TA PHẢI ĐỨNG VỮNG
Trong Đức Chúa Jêsus Christ! 
“Hãy châm rễ và lập nền trong Ngài,
lấy đức tin làm cho bền vững,
tùy theo anh em đã được dạy dỗ,
và hãy dư dật trong sự cảm tạ.”

(Côl. 2:7)
Picture

“MỤC SƯ & MỤC NGỮ”

28/7/2019

 
Picture
“Phần thưởng cho sự trung tín trong những việc lớn
sẽ không lớn hơn phần thưởng cho sự trung tín trong những việc nhỏ
vì lý do để thưởng là sự trung tín chứ không phải là việc lớn hay việc nhỏ.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Picture
“Vả lại,
cái điều người ta trông mong nơi người quản trị
là phải trung thành.”
(1Cô. 4:2)

"SỬ TÍCH & SỬ LUẬN"

28/7/2019

 
Picture
“Công đạo là kẻ bất chính phải sợ lời ngay; hễ khi nào không còn có lời ngay hay lời ngay không còn được kẻ bất chính sợ thì ấy là nguy thời.”
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
TRẦN KHẮC CHUNG SỢ LỜI NGAY
“Tháng Sáu năm Bính Ngọ (1306), thực hiện lời hứa trước đó của Thượng hoàng Trần Nhân Tông, vua Trần Anh Tông đem công chúa Huyền Trân gả cho vua Chiêm Thành lúc ấy là Chế Mân. Đáp lại, Chế Mân cũng đã đem đất hai châu Ô và Lý (vùng tương ứng với phần phía Nam tỉnh Quảng Trị cộng với toàn bộ tỉnh Thừa Thiên ngày nay) dâng cho Đại Việt làm sính lễ.

Tháng Năm năm Đinh Mùi (1307), nghĩa là chỉ mới được mười một tháng kể từ khi Huyền Trân Công chúa về Chiêm Quốc thì Chế Mân mất. Hay tin này, Trần Anh Tông vội sai quan Nhập Nội Hành Khiển Thượng Thư Tả Bộc Xạ là Trần Khắc Chung, cùng với An Phủ Sứ Đặng Văn vào Chiêm Thành để tìm cách cứu Huyền Trân Công Chúa. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VI, Tờ 22b và 23a) viết rằng:

‘Theo tục lệ Chiêm Thành, hễ Vua mất thì Hoàng hậu phải lên giàn hỏa thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ Công chúa bị hại, bèn sai bọn Khắc Chung mượn cớ sang viếng tang, rồi nói, nếu hỏa táng Công chúa trước thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng trước ra bờ biển chiêu hồn ở chốn ven trời, đón linh hồn (Chế Mân) cùng về rồi hãy lên giàn hỏa thiêu. Người Chiêm nghe theo. (Ra biển), Khắc Chung dùng thuyền nhẹ, cướp lấy Công chúa đem về, rồi tư thông với Công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô. Hưng Nhượng Đại vương (tức Trần Quốc Tảng, con thứ của Trần Hưng Đạo) ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu rằng, thằng này là điềm chẳng lành đối với nhà nước, họ tên nó là Trần Khắc Chung (ba chữ này cũng có nghĩa là nhà Trần sắp mất đến nơi - ND), thì nhà Trần lại mất về nó chăng ? Khắc Chung thường sợ hãi né tránh’.”
​
(Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003)

“KINH TRUYỆN & KINH NGHIỆM”

28/7/2019

 
Picture
“Ước mong rằng sẽ có người tò mò đọc, rồi thấy đáng đọc, rồi muốn đọc, rồi đọc, rồi sống…”
(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)
“LỢN MẸ GIẾT CON”
Họ Tử Xa có con lợn nái sắc đen tuyền đẻ một lứa ba con, hai con đen tuyền, một con loang lổ. Lợn nái nuôi hai con lợn con giống mình rất chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí cũng lo sợ. Còn con lợn loang lổ khác mình thì ghét bỏ, sau cắn chết xé cả gan ruột nát nhừ mới thôi.
Tử Hoa Tử nói: "Gớm thay tâm thuật hay chuyển di. Mắt đã mờ về kẻ giống mình hay khác mình, thì bụng sanh ngay ra có kẻ yêu, kẻ ghét. Ðã ghét, đến con ruột đẻ ra mà cũng hại cả con mà không hối huống chi người khác máu với mình. Người đời lúc bình cư, thì âu yếm thân thiết, thề ước cùng nhau tưởng keo sơn cũng không bằng. Khi lâm đến thế lợi, chỉ chênh nhau bằng sợi tơ sợi tóc, thì mặt đã đổi sắc, cơn giận nổi lên và tìm cách tàn hại nhau ngay lập tức. Gớm thay! Tâm thuật chuyển di, tưởng chẳng khác gì con lợn nái.
(Tử Hoa Tử)
 
Giải Nghĩa:
Tử Xa: quan Ðại phu nước Tần.
Tâm thuật: cách nghĩ trong tâm não làm thế này thế kia.
Chuyển di: Thay đổi.
Thế lợi: quyền thế, tài lợi.
 
Lời Bàn:
Thói thường, đồng chủng đồng tông, hay đồng tình, đồng chí thì ưa nhau, mến nhau, còn ngoại giả, thì đem bụng ngờ vực, ghen ghét, coi người ta như cừu địch cả, thực là hẹp hòi đáng tiếc. Người quân tử không bao giờ lấy cái hình sắc khác nhau mà thành bụng yêu hay sinh bụng ghét, lại nhất là, không lấy cái tư tưởng thế lợi trái nhau là lúc hợp, lúc ly, lúc thân, lúc sơ, lúc thề ước, lúc tàn hại nhau bao giờ. Người ta tuy không cùng nòi giống, cùng tư tưởng, cùng chí hướng với mình, nhưng người ta là hạng quang minh chính đại, mình cũng nên có lòng thân yêu, có lượng cao cả để đối với người ta thì mới đáng gọi là yêu đồng bào và trọng nhơn đạo. Nếu không thì tâm thuật lợn nái mất rồi!
(“Cổ Học Tinh Hoa”, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân)

“CƠ ĐỐC NHÂN & NHÂN THÂN CƠ ĐỐC”

27/7/2019

 
Picture
CHÚNG TA ĐƯỢC CỨU KHỎI SỰ RỦA SẢ
Nhờ Đấng Christ! 
“Đấng Christ đã chuộc chúng ta khỏi sự rủa sả của luật pháp,
bởi Ngài đã nên sự rủa sả vì chúng ta, vì có lời chép:
Đáng rủa thay là kẻ bị treo trên cây gỗ.”

(Gal. 3:13)
Picture

“MỤC SƯ & MỤC NGỮ”

27/7/2019

 
Picture
“Sự hoài nghi đối với mỹ đức thiện hảo của Đức Chúa Trời
là chiêu thức lợi hại nhất của Satan
vì nó gieo độc tố vào lòng người
để họ không chịu toàn tín và thuận phục đối với Ngài.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Picture
“[4] Rắn bèn nói với người nữ rằng:
Hai ngươi chẳng chết đâu;
[5] nhưng Đức Chúa Trời biết rằng
hễ ngày nào hai ngươi ăn trái cây đó,
mắt mình mở ra, sẽ như Đức Chúa Trời,
biết điều thiện và điều ác.”
(Sáng. 3:4-5)

"SỬ TÍCH & SỬ LUẬN"

27/7/2019

 
Picture
“Mạc Đỉnh Chi thấp người chứ không thấp trí;
biết khuấy nước lã nên hồ, sáng tạo tình thế, khắc chế tương quan giao tiếp, giữ thế thượng phong trong đàm phán,
​đem lại thắng lợi, để tiếng thơm muôn đời. Đáng khen thay!”
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
MẠC ĐĨNH CHI ĐI SỨ
“Mạc Đĩnh Chi quê ở Chí Linh (Hải Dương), đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304). Ngay sau khi đỗ đạt, ông được sung chức Nội Thư Gia và bốn năm sau (năm Mậu Thân, 1308), ông được cử cầm đầu phái bộ sứ giả sang nhà Nguyên, mừng việc Nguyên Vũ Tông lên ngôi. Có một mẩu chuyện thú vị đã xẩy ra trong chuyến đi sứ này của ông, được sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VI, Tờ 24a và 24b) ghi lại như sau:

‘Đĩnh Chi thấp bé nên người Nguyên khinh ông. Một hôm, viên Tể Tướng mời ông vào phủ, cho cùng ngồi. Lúc ấy, đang hồi tháng Năm tháng Sáu. Trong phủ có treo bức trướng mỏng, trên thêu hình con chim sẻ vàng đậu cành trúc. Đĩnh Chi vờ làm như mình nhầm tưởng là chim sẻ thật rồi chạy đến bắt. Người Nguyên thấy vậy cười ồ, cho là người phương xa bỉ lậu (thô bỉ, quê mùa ). (Bất thình lình), Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống, xé đi. Mọi người lấy làm lạ, hỏi tại sao, Đĩnh Chi đáp rằng, tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ chứ chưa hề thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay bức trướng của Tể Tướng lại có hình chim sẻ đậu cành trúc. Trúc là biểu tượng của bậc quân tử, chim sẻ là biểu tượng của kẻ tiểu nhân, Tể Tướng làm như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy, tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân vậy. Mọi người nghe vậy đều phục tài ông’.”
​
(Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003)

“CƠ ĐỐC NHÂN & NHÂN THÂN CƠ ĐỐC”

26/7/2019

 
Picture
CHẲNG AI CÓ THỂ KIỆN CÁO CHÚNG TA ĐƯỢC! 
“Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời?
Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình những kẻ ấy.”

(Rô. 8:33)
Picture

“MỤC SƯ & MỤC NGỮ”

26/7/2019

 
Picture
“Muốn giỏi chịu khổ cho sự công nghĩa
thì đừng để ý về sự thoải mái của bản thân
mà hãy để ý về lòng nhân từ của Đức Chúa Trời
mà mình đã nhận,
đừng để ý đến mức độ của hoạn nạn
mà hãy để ý về mục đích của Đức Chúa Trời
qua hoạn nạn.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Picture
“Chúng tôi thường mang sự chết
của Đức Chúa Jêsus trong thân thể mình,
hầu cho sự sống của Đức Chúa Jêsus
cũng tỏ ra trong thân thể chúng tôi.”
(2Cô. 4:7-10)

"SỬ TÍCH & SỬ LUẬN"

26/7/2019

 
Picture
​“Càng soi mình trong sử càng thấy mình đáng trách vì bất tài, vô trí; không tiếp nối được dũng khí của người xưa!”
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
TRÍ VÀ DŨNG CỦA KHẮC CHUNG
“Khắc Chung vốn người họ Đỗ, nhờ có công giúp rập nhà Trần nên được mang quốc tính, đổi gọi là Trần Khắc Chung. Nhà Trần rất ít khi ban quốc tính cho ai, nhất là ở buổi đầu của thời kì dựng nghiệp, vậy ắt hẳn là Khắc Chung trí dũng hơn người ? Xin trích dịch một đoạn sau đây trong Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển V, Tờ 45b và 46a) và nhường lời phẩm bình về Khắc Chung cho người đọc:

‘Giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngàn (vùng ngoại ô Hà Nội và Bắc Ninh ngày nay - ND), bắt được quân ta, thấy người nào cũng thích hai chữ Sát Thát bằng mực vào cánh tay, chúng tức lắm, giết hại rất nhiều. Sau, chúng tiến đến Đông Bộ Đầu (nay là khu vực dốc Hàng Than, đầu cầu Long Biên, Hà Nội - ND), dựng một lá cờ lớn. Vua muốn sai người đi do thám mà chưa tìm được ai. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng: Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi. Vua mừng mà nói: Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kì, ngựa kí như thế . Nói xong liền sai Khắc Chung đem thư xin giảng hòa. Ô Mã Nhi hỏi Khắc Chung rằng: Quốc vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ Sát Thát, khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy lớn lắm. Khắc Chung đáp: Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi. Quốc vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không khắc? Nói rồi, giơ cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi nói: Đại quân từ xa tới, nước người sao không quay giáo lại hội kiến, còn dám chống lệnh? Càng bọ ngựa cản bánh xe thì sẽ ra sao? Khắc Chung nói: Hiền tướng sao không theo cách Hàn Tín bình nước Yên, cứ đóng quân ở biên giới, đưa thư báo trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Giờ bức hại nhau. Người ta nói, thú cùng thì cắn lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người?

Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi nói với các tướng rằng: Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ vẫn tự nhiên, không hạ chủ nó là chích (tức bọn trộm cướp - ND), không nịnh mà tâng bốc ta là Nghiêu (tức Đường Nghiêu - ND), hắn chỉ nói chó nhà cắn người, thật giỏi ứng đối, quả là không làm nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ gì mưu tính được. (Nói rồi), sai quân đuổi theo để bắt Khắc Chung, nhưng không kịp nữa’.”
​
(Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003)

“CƠ ĐỐC NHÂN & NHÂN THÂN CƠ ĐỐC”

25/7/2019

 
Picture
CHẲNG AI CÓ THỂ KIỆN CÁO CHÚNG TA ĐƯỢC!
“Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời?
Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình những kẻ ấy.”

(Rô. 8:33)
Picture

“MỤC SƯ & MỤC NGỮ”

25/7/2019

 
Picture
“Người tin kính
phải như thép được luyện bằng hoạn nạn
và tôi bằng lòng nhân từ vô hạn của Đức Chúa Trời.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Picture
 
“[3] Nào những thế thôi,
nhưng chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa,
vì biết rằng hoạn nạn sanh sự nhịn nhục,
[4] sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy.”
(Rô. 5:3-4)
 

"SỬ TÍCH & SỬ LUẬN"

25/7/2019

 
Picture
“Mặt trái của nết người hóa ra thật đáng sợ! Danh nhân mà còn thế thì thường nhân như ta làm sao tránh khỏi dị tật?”
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
PHẠM NGŨ LÃO VÀ MINH HIẾN VƯƠNG
“Tháng Năm năm Nhâm Tí (1312) vua Trần Anh Tông cất quân đi đánh Chiêm Thành. Cùng đi có tướng quân Phạm Ngũ Lão và Minh Hiến Vương (húy là Uất, con út của Trần Thái Tông). Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển VI, Tờ 28b) có ghi lại một mẩu chuyện về mối quan hệ giữa Phạm Ngũ Lão với Minh Hiến Vương trong chuyến xuất chinh này như sau:

‘Ngày Vua đóng ở Câu Chiêm, Minh Hiến Vương Uất ở trong doanh trại bàn tán, làm mê hoặc lòng quân lính, Vua giận, đuổi ra khỏi dinh lại còn lệnh cho các dinh không được thu nhận. Minh Hiến Vương bèn cùng vài chục gia đồng ra ngủ ở ngoài đồng nội. Phạm Ngũ Lão nghe tin ấy, vội mời vào trong quân và nói với mọi người rằng, thánh thượng vừa quở trách ân chúa và đuổi ra ngoài, lỡ ra bị giặc bắt được thì chúng rêu rao là bắt được hoàng tử chứ có biết đâu là (hoàng tử) bị vua quở trách (và đuổi đi). Ngũ Lão này thà chịu tội trái lệnh chứ không nỡ làm lợi cho giặc. Vua nghe biết cũng không nỡ trách ông.

Minh Hiến với Ngũ Lão, tình nghĩa thì rất sâu nhưng lễ ý thì sơ sài. Minh Hiến đến nhà Ngũ Lão, thường cùng ngồi với nhau một chiếu, khi về, (Ngũ Lão) lại đem biếu vàng bạc, (Minh Hiến) cần gì, Ngũ Lão cũng không hề tiếc nuối dè xẻn, cho nên, Minh Hiến thích chơi với ông.
​
Vua có lần trách Ngũ Lão rằng, Minh Hiến là hoàng tử, sao mà ngươi lại khinh suất thế. Sau, Minh Hiến lại đến nhà, Ngũ Lão vẫn cùng ngồi như xưa, chỉ nói rằng, ân chúa chớ đến nhà tôi nữa, kẻo thánh thượng lại trách tôi. Nhưng Minh Hiến vẫn lui tới thường xuyên mà Ngũ Lão cũng không đổi nết cũ. Ấy là vì một người thì cậy của mà giữ lễ tiết sơ sài, một người thì ham của mà quên mất cả phận trên dưới’.”

(Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003)

“CƠ ĐỐC NHÂN & NHÂN THÂN CƠ ĐỐC”

24/7/2019

 
Picture
CHÚNG TA LÀ SỰ SÁNG CỦA THẾ GIAN!
“Các ngươi là sự sáng của thế gian;
một cái thành ở trên núi thì không khi nào bị khuất được.”

(Ma. 5:14)
Picture

“MỤC SƯ & MỤC NGỮ”

24/7/2019

 
Picture
“Sự vui thỏa trong Ân Điển của Đức Chúa Trời mới là thuốc chữa lành
còn sự vui mừng theo sự cảm nhận chỉ là thuốc giảm đau.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Picture
“Vậy xin Đức Chúa Trời của sự trông cậy
làm cho anh em đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an trong đức tin,
hầu cho anh em nhờ quyền phép Đức Thánh Linh
được dư dật sự trông cậy!”
(Rô. 15:13)

"SỬ TÍCH & SỬ LUẬN"

24/7/2019

 
Picture
“Người nghĩa thường hiếm có, khó thấy; huống hồ là người nghĩa có tài như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn!”
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
“CHÂN DUNG TRẦN QUỐC TUẤN”
​“Trong các bộ sử cũ, phần viết về triều Trần, ngoài các hoàng đế ra, nhân vật được nhắc đến nhiều hơn cả có lẽ là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Trước đã có mấy mẩu chuyện nhỏ nói về ông, nay xin theo sách Khâm Định Việt Sứ Thông Giám Cương Mục (Chính Biên, Quyển VIII, Tờ 32 và 33) mà kể tiếp như sau:
‘Lúc Quốc Tuấn mới sinh, có người xem tướng trông thấy, nói rằng:
- Người này mai sau có thể kinh bang tế thế được.
Quốc Tuấn lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, xem rộng các sách, tài kiêm văn võ. Thân phụ Quốc Tuấn là An Sinh Vương vốn có hiềm khích riêng với vua Trần Thái Tông (ý muốn chỉ việc Thái Tông lấy vợ của anh là Thuận Thiên Công chúa - ND) đem lòng oán giận, bèn đi tìm khắp những người tài nghệ cao cường để dạy bảo Quốc Tuấn. Khi sắp mất, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn trối trăng lại rằng:
- Con không vì cha mà lấy được thiên hạ thì cha dầu chết cũng không nhắm mắt được.
Trong lòng Quốc Tuấn vẫn không cho lời ấy là phải. Khi quân Nguyên sang xâm lấn, Quốc Tuấn một mình nắm giữ binh quyền. Có lần, Quốc Tuấn đem lời trối trăng của cha hỏi hai người gia nô là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai người can ngăn mà nói:
- Nếu thi hành kế ấy, dầu có giàu sang một thời mà tiếng xấu để đến ngàn đời không hết. Đại vương bây giờ chẳng đã là giàu sang rồi đó sao? Chúng tôi tình nguyện làm kẻ nô bộc đến già mà chết (trong thanh thản) chớ không muốn làm sự bất trung bất hiếu để cầu may mà được một chức quan. Chúng tôi mong được như người mổ dê tên là Duyệt (tên một người chuyên nghề mổ dê ở Trung Quốc thời Xuân Thu, giàu lòng trung nghĩa, từng theo phò Chiêu Vương nước Sở nhưng sau không nhận ban thưởng gì chỉ vui trở về với nghề mổ dê - ND).
Quốc Tuấn nghe hai người gia nô nói, vừa cảm động mà ứa nước mắt, vừa không ngớt khen ngợi. Có lần Quốc Tuấn (cũng đem chuyện này) vờ hỏi ý con là Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn:
- Cổ nhân giàu có cả thiên hạ để truyền cho con cháu về sau. Việc này ý con thế nào?
Quốc Nghiễn thưa rằng:
- Việc ấy đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là người cùng một họ.
Quốc Tuấn rất lấy làm phải. Sau, ông lại đem câu ấy hỏi con thứ là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến thẳng đến nói rằng:
- Tống Thái Tổ là một người làm ruộng, chỉ nhờ gặp thời vận mà lấy được thiên hạ.
Quốc Tuấn liền tuốt gươm ra kể tội rằng:
- Bọn bề tôi phản loạn đều chính là do nhưng đứa con bất hiếu mà ra.
Nói rồi có ý giết đi. Quốc Nghiễn vội chạy ra van khóc, xin nhận tội thay, mãi sau mới được Quốc Tuấn tha cho. Khi Quốc Tuấn sắp mất, bảo Quốc Nghiễn rằng:
- Khi ta mất, đậy nắp quan tài đâu đó xong xuôi rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng khóc.
Vào khoảng cuối niên hiệu Thiệu Bảo (niên hiệu của vua Trần Nhân Tông, từ năm 1279 đến năm 1285. Từ năm 1285 đến 1293 Trần Nhân Tông lấy niên hiệu là Trùng Hưng. Đây chỉ cuộc kháng chiến lần thứ hai - ND), quân Nguyên rầm rộ kéo sang, khí thế rất là hung hãn. Nhân Tông nói rằng:
- Thế giặc mạnh như vậy, có lẽ ta hãy tạm xin hàng.
Quốc Tuấn nói:
- Bệ hạ muốn hàng, trước hãy chém đầu thần đi đã.
Xem những việc trên thì rõ Quốc Tuấn là người hết lòng với nhà Trần, trung nghĩa rõ ràng như thế, cho nên dẹp tan được giặc Nguyên, dựng nên công nghiệp phi thường, tiếng vang đến Trung Quốc. Người Nguyên thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi rõ tên. (Vua Trần) Thánh Tông có làm bài văn bia ở sinh từ, sánh Quốc Tuấn với Thượng Phủ (tức Khương Thượng, một công thần của nhà Chu, Trung Quốc - ND). Vì có công to, ông được gia phong là Thượng Quốc Công, được quyền tự ban thưởng cho người khác, nhưng Quốc Tuấn chưa hề tự ban thưởng cho một ai cả, ông cẩn trọng giữ gìn như thế đấy. Ông lại thường tiến cử người hiền tài cho đất nước, các ông Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão đều là môn khách của Quốc Tuấn cả’.”
(Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập III, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003)

<<Previous

    ​​THỂ LOẠI

    All

    ​THƯ KHỐ

    February 2020
    January 2020
    December 2019
    November 2019
    October 2019
    September 2019
    August 2019
    July 2019
    June 2019
    May 2019
    April 2019
    March 2019
    February 2019
    January 2019
    December 2018
    November 2018
    October 2018
    September 2018

Picture
  • About Me
  • My Argument
    • Nhận Diện
    • Nhận Thực
    • Nhận Định
    • Nhận Thức
  • My Presentation
    • Góp Nhặt
    • Chắt Lọc
    • Giảng Dạy
    • Truyền Bá
  • My Exhortation
    • Kinh Truyện
    • Sử Tích
    • Mục Ngữ
    • Nhân Thân