“Mục Sư ơi, ông là ai? Không phải Ông là đầy tớ của Đức Chúa Trời (Sv. Rô. 1:1; δουλος [doulos]) để làm người thừa hành cho Ngài. (Sv. 1Cô. 3:5; διάκονος [diakonos]) mà chăm sóc các nhu cần thuộc linh của Dân Ngài hay sao (Sv. 1Phi. 4:10; οικονομοι [oikonomos])”? (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[1]Ta, Phaolô, tôi tớ của Đức Chúa Trời và Sứ Đồ của Đức Chúa Jêsus Christ, để đưa các người được chọn của Đức Chúa Trời đến đức tin và sự thông hiểu lẽ thật, là sự sanh lòng nhân đức, [2]trông cậy sự sống đời đời, - là sự sống mà Đức Chúa Trời không thể nói dối đã hứa từ muôn đời về trước, [3]tới kỳ chỉ định, Ngài đã bày tỏ lời của Ngài ra bởi sự giảng dạy, là sự ta đã chịu giao phó theo mạng lịnh Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta.” (Tít 1:1-3) “… Sấm ngôn bao giờ cũng là sấm ngôn; bí ẩn, uẩn súc đến độ rất khó hiểu. Nhưng sấm ngôn sở dĩ được muôn đời truyền tụng vì chính nó chứa chất những khát vọng đổi thay chân thành và lớn lao của trăm họ…” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “CHUYỆN SÉT ĐÁNH RA THƠ!” “Người xưa cho rằng, mọi biến đổi lớn theo chiều hướng xấu hoặc tốt của một cuộc đời, một gia đình, một địa phương hay một triều đại... tất cả đều được báo trước bằng những điềm dữ hoặc điềm lành. Việc Lý Công Uẩn được tôn lên ngôi Hoàng Đế và khai sáng ra triều Lý (1010 - 1225) cũng đã được báo trước như vậy. Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỷ, Quyển I, Tờ 31a-b) chép: ‘Trước đó, ở làng Diên Uẩn, thuộc châu Cổ Pháp (Nay là vùng Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh - NKT), có cây gạo bị sét đánh. NgườI làng ấy đến xem kĩ thì thấy có chữ như sau : Thụ căn diểu diểu,_Mộc biểu thanh thanh,_Hòa đao mộc lạc,_Thập bát tử thành,_Đông a nhập địa,_Mộc dị tái sinh,_Chấn cung kiến nhật,_Đoài cung ẩn tinh,_Lục thất niên gian,_Thiên hạ thái bình. Mấy câu này, đại để có nghĩa là : Rễ cây sâu thăm thẳm,_Vỏ cây màu xanh xanh,_Hòa đao mộc thì rụng,_Thập bát tử thì thành,_Đông a mà nhập địa,_Cây lạ sẽ tái sinh,_Phương Đông mặt trời mọc,_Phương Tây sao ẩn mình,_Chừng sáu bảy năm nữa,_Thiên hạ sẽ thái bình. (Hoà - đao - mộc ghép lại, có âm Hán Việt là lê, đây chỉ họ Lê, chỉ ngôi vua của Lê Long Đĩnh. Rụng là rụng xuống, ý nói sẽ mất đi. Thập - bát - tử ghép lại có âm Hán Việt là lý, chỉ họ Lý. Chữ thành ngụ ý được dựng lên. Cả câu nói triều Lý sẽ được dựng lên. Đông - a ghép lại có âm Hán Việt là trần, chỉ họ Trần. Họ vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc nên mới có hai chữ nhập địa. Cây lạ sẽ tái sinh ngụ ý rằng, sau cũng có triều Lê, song đó lại là một họ Lê hoàn toàn khác. Phương Đông mặt trời mọc: Ý chỉ rằng sẽ có thiên tử. Xưa, người ta vẫn coi Thanh Hoá là Tây, còn Thăng Long là Đông). Nhà sư Vạn Hạnh nói với Lý Công Uẩn rằng: - Mới rồi tôi thấy có bùa sấm lạ kì, suy thì biết là họ Lý sẽ cường thịnh, thế nào cũng dấy nên cơ nghiệp. Nay xem trong khắp thiên hạ, người họ Lý kể cũng nhiều, nhưng không ai bằng Thân Vệ cả (Thân Vệ là chức của Lý Công Uẩn lúc bấy giờ - NKT). Thân Vệ là người nhân từ, được lòng người, lại đang là người nắm giữ binh quyền trong tay, cho nên, đứng đầu trăm họ, nếu không phải là Thân Vệ thì còn ai vào đó nữa. Tôi nay đã ngoài bảy mươi, những mong thư thả hãy chết, chẳng qua chỉ cốt để chờ được xem đức hóa của ông thế nào. Việc này quả là cơ may ngàn năm có một. (Lý) Công Uẩn sợ lời ấy (của Vạn Hạnh) tiết lộ ra, bèn nhờ người anh đem Vạn Hạnh giấu ở Tiên Sơn (Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh - NKT). Nhưng cũng từ đấy, ý nhòm ngó ngôi vua bắt đầu nẩy sinh và người người cũng muốn theo ý đó’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) Đức trung thành (Gr. πιστός [pistos]) là một mỹ đức được chia sẻ từ đức thành tín của Đức Chúa Trời. Trong Tiếng Hy Lạp, cả đức trung thành và đức thành tín đều có chung một gốc từ Gr. πείθω [peitho] nói về việc tin tưởng cách yên tâm để thôi không còn bị chi phối bởi dục động, tâm động, dao động khiến dẫn đến manh động, bất trung. (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “ĐỨC TRUNG THÀNH” “[1] Vậy, ai nấy hãy coi chúng tôi như đầy tớ của Đấng Christ, và kẻ quản trị những sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời. [2] Vả lại, cái điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành. [3] Về phần tôi, hoặc bị anh em xử đoán, hoặc bị tòa án nào của loài người xử đoán, tôi cũng chẳng lấy làm quan hệ gì. Chính tôi chẳng tự xử đoán mình nữa; [4] vì tôi chẳng thấy mình có điều gì đáng tội, nhưng tôi cũng không nhờ sự đó mà được xưng là công bình: Đấng xử đoán tôi, ấy là Chúa. [5] Vậy, chớ xét đoán sớm quá, hãy đợi Chúa đến; chính Chúa sẽ tỏ những sự giấu trong nơi tối ra nơi sáng, và bày ra những sự toan định trong lòng người; bấy giờ, ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh.” (1Cô. 4:1-5) “Việc chiều chuộng vô nguyên tắc không phải là việc ‘làm đẹp lòng kẻ lân cận mình’ vì ‘làm đẹp lòng kẻ lân cận mình’ (Gr. αρεσκετω [aresko], Rô. 15:2) chỉ nhằm nói về việc giúp ích về thuộc linh và thuộc thể cách hợp Kinh Thánh mà thôi.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[1] Vậy chúng ta là kẻ mạnh, phải gánh vác sự yếu đuối cho những kẻ kém sức, chớ làm cho đẹp lòng mình. [2] Mỗi người trong chúng ta nên làm đẹp lòng kẻ lân cận mình, đặng làm điều ích và nên gương tốt. [3] Vì Đấng Christ cũng không làm cho đẹp lòng mình, như có chép rằng: Lời của những kẻ nguyền rủa Chúa đã đổ trên mình tôi. [4] Vả, mọi sự đã chép từ xưa đều để dạy dỗ chúng ta, hầu cho bởi sự nhịn nhục và sự yên ủi của Kinh thánh dạy mà chúng ta được sự trông cậy. [5] Xin Đức Chúa Trời hay nhịn nhục và yên ủi ban cho anh em được đồng lòng ở với nhau theo Đức Chúa Jêsus Christ; [6] để anh em lấy một lòng một miệng mà ngợi khen Đức Chúa Trời, là Cha của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.” (Rô. 15:1-6) “Giáo Sư Nguyễn Khắc Thuần đặt tiêu đề cho giai thoại này là “Lê Long Đĩnh Gặp May” nhưng thật ra không thấy Lê Long Đĩnh ‘gặp may’ mà chỉ thấy Lê Long Đĩnh hèn - Cái hèn của một kẻ chỉ biết tranh danh, đoạt lợi. Bọn mãi quốc cầu vinh luôn trúng kế bọn bành trướng. Vua Tống không đánh mà dung dưỡng Lê Long Đĩnh để nước ta phải có một tên vua đầy thú tính là chỉ nhằm làm cho nước ta suy yếu hầu dễ cai trị mà thôi.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “LÊ LONG ĐĨNH GẶP MAY” “Sau một thời gian chém giết người ruột thịt chẳng chút ghê tay, Lê Long Đĩnh đã chiếm được ngôi vua. Cuộc chém giết khủng khiếp này chẳng những người trong nước đều biết mà cả nhà Tống bên Trung Quốc cũng hay. Bọn quan lại ở vùng biên ải phía Nam của Trung Quốc đã dâng thư về triều, thúc giục vua Tống nhanh chóng lợi dụng cơ hội thuận tiện này để xuất quân sang đánh chiếm nước ta, nhưng vua Tống đã không chấp thuận. Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển I, Tờ 27b và Tờ 28b) chép chuyện này như sau: ‘Mùa Hạ, tháng Sáu (Năm Bính Ngọ, 1006) quan Tri Châu của Quảng Châu (Trung Quốc) là Lăng Sách dâng thư về triều Tống, nói rằng: - Nay, Giao Chỉ (chỉ nước ta) đang có loạn, vậy xin cho thần cùng với quan giữ chức Duyên Biên An Phủ Sứ là Thiệu Việp được bàn tính kế sách để dâng lên. Bọn thần dựa theo lời của Hoàng Khánh Tập, kẻ cầm đầu hơn ngàn người ở Giao Chỉ đã theo về và nay được quan ở Liêm Châu (Thuộc Trung Quốc) dẫn đến, nói rằng: Các con của Nam Bình Vương (Chỉ tước vị của Lê Hoàn) mỗi người đặt trại sách phân tán một nơi, quan lại thì lìa tan, nhân dân thì lo sợ; vậy, xin đem quân đến đánh dẹp. Bọn (Hoàng) Khánh Tập sẽ làm tiên phong, xin được hẹn ngày đánh chiếm lấy (nước ta). Nếu triều đình ưng chuẩn lời thỉnh cầu này thì xin lấy quân đang đóng tại các đồn ở những châu thuộc Quảng Nam (Tức vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay) và xin thêm năm ngàn quân ở Kinh Hồ (Trung Quốc) để thủy bộ cùng tiến, nhất định sẽ bình định được ngay. Vua Tống nói: - Họ Lê thường sai con sang chầu, góc biển ấy vẫn được yên, chưa từng bất trung, bất thuận. Nay nghe tin Lê Hoàn mới mất, chưa có lễ thăm viếng mà đã vội đem quân đánh kẻ đang có tang, đó chẳng phải là việc làm của đấng vương giả. Nói rồi (vua Tống) xuống chiếu cho bọn (Lăng) Sách tiếp tục vỗ về, cốt sao cho mọi sự được yên lặng. Sau, (vua Tống) lại sai bọn Thiệu Việp đem thư sang bày tỏ uy đức của Thiên Triều, bảo không nên giết hại lẫn nhau nữa. Nếu anh em cứ giành nhau, không định rõ ngôi thứ thì quân của Thiên Triều sẽ sang hỏi tội, họ Lê nhất định chẳng còn ai sống sót. Vua Lê Long Đĩnh sợ, bèn xin cho em sang nạp cống’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) Sự hợp tác và lòng trung thành là một cặp phạm trù tương sinh đơn phương: Cái này không nhất thiết sẽ sinh ra được cái kia mà chỉ cái kia mới có thể sinh ra được cái này. Đây là một sự nhận thức rất hữu ích trên phương diện thực tiễn áp dụng, chẳng hạn như áp dụng vào bộ môn lãnh đạo các mối quan hệ trong công vụ Cơ Đốc để giúp cho nhà lãnh đạo vừa tỉnh táo, vừa vững bền. (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[5]Nếu ngươi chạy thi với kẻ chạy bộ, mà còn mỏi mệt, thì làm sao thi được với ngựa? Khi trong xứ yên lặng, ngươi được an ổn, nhưng khi sông Giôđanh tràn, thì ngươi sẽ làm thế nào? [6]Chính anh em ngươi và nhà cha ngươi đương phản ngươi, chúng nó cũng kêu tiếng to sau ngươi nữa. Dầu chúng nó nói những lời lành, ngươi chớ nên tin!” (Giê. 12:5-6; Sv. 11:8 - 12:6) “Đặc quyền càng lớn, trách nhiệm càng nặng.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[47]Đầy tớ nầy đã biết ý chủ mình, mà không sửa soạn sẵn và không theo ý ấy, thì sẽ bị đòn nhiều. [48] Song đầy tớ không biết ý chủ, mà làm việc đáng phạt, thì bị đòn ít. Vì ai đã được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi lại nhiều; và ai đã được giao cho nhiều, thì sẽ bị đòi lại nhiều hơn.” (Lu. 12:47-48) “Kinh Thánh phán tỏ tường rằng ‘Mọi người phải vâng phục các đấng cầm quyền trên mình; vì chẳng có quyền nào mà không đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định’ (Rô. 13:1). Dầu rằng ở đây việc một con người với một nhân cách đầy thú tính lên làm vua khiến tạo ra những vấn nạn khó giải đáp bằng trí người nhưng đối với những ai tin rằng có luật trời thì lời giải đáp cho họ đã được tìm thấy trong sự nối tiếp dòng lịch sử của nhà Lý.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “NHÂN CÁCH LÊ LONG ĐĨNH” “Lê Hoàn có tất cả mười hai người con trai, gồm mười một con ruột và một con nuôi. Lê Long Đĩnh là con thứ năm của Lê Hoàn. Năm Ất Tị (1005), Lê Hoàn mất. Một cuộc ác chiến để giành ngôi giữa các con của Lê Hoàn đã diễn ra. Cuối cùng, Lê Long Đĩnh đã cướp được ngôi báu và làm vua gần 5 năm (1005 - 1009). Sách Đại Việt Sử Lược (Quyển I) đã dành một đoạn khá dài để viết về nhân cách của Lê Long Đĩnh. Chúng tôi xin giới thiệu lời dịch đoạn viết này và xin nhường lời bàn cho độc giả: ‘Vua vốn tính hiếu sát. Có tội nhân phải tội chết, Vua bắt lấy cỏ tranh cuốn vào người rồi đốt, hoặc giả có lần sai tên hề là Liêu Thủ Tâm, lấy con dao thật cùn, xả vào người tội nhân cho chết dần, làm như thế, tội nhân phải kêu la thảm thiết đến vài ngày. Liêu Thủ Tâm thấy vậy thì bỡn cợt rằng: - Mày không quen chịu chết à! Nhà vua thấy thế cũng cười to lên, lấy làm thích thú lắm. Mỗi khi đi đánh trận, họ bắt được tù binh là nhà vua lại sai áp giải họ đến bờ sông. Khi nước thủy triều xuống thì sai làm cái lồng, đặt sẵn dưới nước cạn và nhốt tù binh vào đó để đến khi nước triều lên thì tù binh sẽ bị chết chìm dưới nước. Lại cũng có khi (nhà vua) bắt tù binh phải trèo lên cây cao rồi sai người chặt cây (cho ngã xuống mà chết). Có lần nhà vua đi chơi ở khúc sông có lắm thuồng luồng, bèn sai trói tù binh vào mạn thuyền, chạy qua chạy lại, lấy họ làm mồi cho thuồng luồng. Trong cung, phàm những vật đem về nhà bếp, Nhà vua đều tự tay cắt tiết rồi sau mới giao cho đầu bếp làm. Có lần, Nhà vua kê mía lên đầu bậc tu hành khả kính là Tăng Thống Quách Ngang để róc mà ăn. Vua giả vờ lỡ tay, khiến dao phập vào đầu nhà sư Quách Ngang, máu chảy ra lênh láng. Vua thấy vậy thì cười ầm lên. Có đêm, Nhà vua sai làm thịt mèo để đãi. Các quan ăn xong, ai nấy nôn thốc nôn tháo cả ra. Khi các quan có việc phải vào và tâu trình các việc thì Nhà vua lại sai những tên hề ra nói leo, khỏa lấp hết mọi lời của quan. Có lần, kẻ giữ cung làm món chả, Nhà vua cũng cùng với mọi người chạy đến tranh ăn. Bấy giờ, các bậc vương giả chống đối đều bị Nhà vua dẹp yên hết cả’. … ‘Vua đi đánh các châu Đô Lương và Cử Long (Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa), bắt được người Man cùng với khoảng vài trăm con ngựa. Vua sai lấy gậy đánh bọn người Man bị bắt. Vì bị đánh quá đau, họ kêu la ầm ĩ, lỡ xúc phạm tới tên húy của Đại Hành (Tức Lê Hoàn, thân sinh của Vua), thì Vua lại thích chí cười ồ lên và lại sai đánh nữa. Mỗi lần bị đánh là mỗi lần họ lại xúc phạm đến tên húy của Đại Hành, nhưng Nhà vua lại lấy đó làm vui. Đi đánh Ái Châu (Tức vùng Thanh Hóa ngày nay), bắt được người của châu này, Vua sai làm cái rọ, nhốt họ vào đó rồi cười’. … ‘Mùa Đông, tháng Mười (Năm Kỉ Dậu, 1009), ngày Tân Hợi, Vua băng ở tẩm điện, gọi là Ngọa Triều (Hoàng Ðế) bởi vì Nhà vua có bệnh trĩ, mỗi khi ra chầu triều đều phải nằm’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “Ước mong rằng sẽ có người tò mò đọc, rồi thấy đáng đọc, rồi muốn đọc, rồi đọc, rồi sống…” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “ĐÁNH DẤU THUYỀN TÌM GƯƠM” Có người nước Sở đi đò qua sông. Khi ngồi đò, vô ý đánh rơi thanh gươm xuống sông. Anh ta vội vàng đánh dấu vào mạn thuyền, nói rằng: "Gươm ta rơi ở chỗ nầy đây". Lúc thuyền đỗ vào bến, anh ta cứ theo chỗ đánh dấu, lặn xuống nước tìm gươm. Thuyền đã đi đến bến, chớ gươm rơi đâu thì vẫn ở đấy, có theo thuyền mà đi đâu? Tìm gươm như thế, chẳng khờ dại lắm ư! (Lã Thị Xuân Thu) Giải Nghĩa: Lã Thị Xuân Thu: Sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến Quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn vàng". Sở: Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. Thanh gươm: Tục xưa người ta đi đâu cũng hay đeo gươm để thủ thân mà lại giữ lễ nữa. Lời Bàn: Thanh gươm rơi xuống sông, thì ở ngay chỗ rơi. Nếu muốn tìm thấy gươm, tất phải lặn ngay xuống chỗ rơi mà tìm. Chớ sao lại đánh dấu vào thuyền, đợi đến lúc thuyền đỗ vào bến, mới lặn xuống bến tìm? Người tìm gươm nầy có khác nào như người đánh đàn sắt đem gắn cả ngựa lại, tưởng ngựa không di dịch được là các âm vận tự nhiên điều hòa được đúng! Than ôi! người cố chấp bất thông, chỉ câu nệ biết giữ chặt một cái đã nắm chặt trong tay, chớ không hiểu nghĩa chờ "thời" là gì? (“Cổ Học Tinh Hoa”, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân) “Không khó để phân biệt ai là kính sợ Chúa và ai là không kính sợ Ngài vì sự kính sợ không phải là một cảm xúc trừu tượng mà là mỹ đức cụ thể của đời sống, mỹ đức ấy luôn luôn được cặp theo bằng mỹ đức tỉnh thức và mỹ đức trung tín.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[23] Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pharisi, là kẻ giả hình! Vì các ngươi nộp một phần mười bạc hà, hồi hương, và rau cần, mà bỏ điều hệ trọng hơn hết trong Luật Pháp, là sự công bình, thương xót và trung tín; đó là những điều các ngươi phải làm, mà cũng không nên bỏ sót những điều kia. [24] Hỡi kẻ mù dẫn đường, các ngươi lọc con ruồi nhỏ mà nuốt con lạc đà!” (Ma. 23:23-24) “…Sử chép lời Lê Hoàn, ấy là tỏ cho muôn đời biết rằng, khí phách Lê Hoàn là khí phách chung của con Hồng cháu Lạc, kẻ nào muốn dòm ngó nước ta thì hãy đọc kĩ lời này…” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “LÊ HOÀN TIẾP SỨ GIẢ NHÀ TỐNG” “Cũng như bao vị Hoàng Đế khác của nước ta, Lê Hoàn coi nhà Tống là Thiên Triều, vua Tống là Thiên Tử, còn mình thì chịu sự tấn phong dần dần từ thấp lên cao. Theo lễ, vua chư hầu phải tổ chức đón tiếp sứ giả Thiên Triều một cách thật trọng thể. Với những sứ giả mang sắc phong của Thiên Tử đến thì lễ đón tiếp phải càng trọng thể hơn. Nhưng, chuyện Lê Hoàn tiếp sứ giả của Thiên Triều thì khác hẳn. Sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển I) có mấy đoạn ghi chép về việc này. Đoạn thứ nhất (Tờ 19b), chép chuyện Lê Hoàn tiếp phái bộ sứ giả nhà Tống do Tống Cảo cầm đầu. Phái bộ này đến nước ta vào năm Canh Dần (990): ‘Nhà Tống sai quan giữ chức Tả Chính Ngôn là Tống Cảo, quan giữ chức Hữu Chính Ngôn là Vương Thế Tắc, mang tờ chế sắc sang phong thêm cho nhà vua hai chữ đặc tiến. Vua sai bọn Nha Nội Chỉ Huy Sứ là Đinh Thừa Chính đem chín chiếc thuyền đến tận Thái Bình (Đất này nay thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc) để dẫn sứ giả theo đường biển mà vào. Nửa tháng sau thì (sứ giả) đến sông Bạch Đằng rồi cứ thế, theo thủy triều mà đi. Mùa Thu, tháng Chín, sứ giả đến trạm Nại Chinh ở Trường Châu (Thuộc Ninh Bình). Nhà vua ra ngoài thành để tiếp. Khi tiếp thì bày các thứ chiến cụ để khoe. Vua cầm cương ngựa, cùng đi với sứ giả. Đến cửa Minh Đức (tên một cửa trong kinh thành Hoa Lư), Nhà vua để chiếu thư lên trên điện chứ không chịu lạy, nói dối rằng, năm ngoái đi đánh giặc man, ngã ngựa nên đau chân. (Tống) Cảo và (Vương) Thế Tắc tin ngay là thực. Sau đó, Vua bày yến tiệc để thiết đãi sứ giả và nói với (Tống) Cảo rằng: - Từ nay trở đi, hễ có quốc thư thì chỉ nên giao nhận ở biên giới, không phiền sứ giả phải đến tận đây nữa. (Tống) Cảo về tâu lại. Vua Tống bằng lòng’. Đoạn thứ hai (Tờ 22b) chép chuyện Lê Hoàn tiếp phái bộ sứ giả của nhà Tống do Lý Nhược Chuyết cầm đầu, đến nước ta vào năm Bính Thân (996): ‘Vua nhà Tống sai Lý Nhược Chuyết mang chiếu thư và đai ngọc sang ban cho Vua. Khi (Lý) Nhược Chuyết đến, Vua cũng ra tận phía ngoài thành để đón nhưng lại tỏ cho sứ giả thấy mình cao quý khác thường, ngạo mạn không chịu làm lễ. (Nhân vì Lý Nhược Chuyết có ý phiền, rằng sao Nhà vua lại nỡ để cho quân lính tràn sang cướp phá châu Như Hồng của nhà Tống). Vua nói: - Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn cướp biển ở ngoài cõi, Hoàng đế hẳn biết là không phải quân của Giao Châu (Chỉ quân ta). Nếu như Giao Châu mà làm phản thì trước hết sẽ cho quân đánh vào Phiên Ngung, sau đó đánh thẳng vào Mân Việt, há có phải là dừng lại ở trấn Như Hồng mà thôi đâu’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “HÃY TRỪ BỎ KẺ GIAN ÁC KHỎI ANH EM!” “Hãy trừ bỏ kẻ gian ác khỏi anh em!” (Sv. 1Cô. 5:13) Đây là một mệnh lệnh Kinh Thánh phải thi hành chứ không phải là một đề nghị để chọn lựa. Việc phải có các quyết định tiếp theo để giải trừ sự chứng nhận về trình độ và chức phận tôn giáo của những kẻ như thế chắc chắn là một động thái quản lý không thể tránh khỏi vì không thể để các sự chứng nhận cao trọng ấy còn ở trong sự sở hữu của kẻ bất khiết khiến họ có thể dùng vào việc khoe khoang và lừa đảo (Sv. Ma. 7:6). Đây là một điều rất đáng tiếc nhưng vì tình hình rất tệ, không thể khác được! “[9] Trong thơ tôi viết cho anh em, có dặn đừng làm bạn với kẻ gian dâm, [10] đó tôi chẳng có ý nói chung về kẻ gian dâm đời nầy, hay là kẻ tham lam, kẻ chắt bóp, kẻ thờ hình tượng, vì nếu vậy thì anh em phải lìa khỏi thế gian. [11] Nhưng tôi viết khuyên anh em đừng làm bạn với kẻ nào tự xưng là anh em, mà là gian dâm, hoặc tham lam, hoặc thờ hình tượng, hoặc chưởi rủa, hoặc say sưa, hoặc chắt bóp, cũng không nên ăn chung với người thể ấy. [12] Vì chưng có phải tôi nên đoán xét kẻ ở ngoài sao? Há chẳng phải anh em nên đoán xét những người ở trong sao? [13] Còn như kẻ ở ngoài, thì Đức Chúa Trời sẽ đoán xét họ. Hãy trừ bỏ kẻ gian ác khỏi anh em.” (1Cô. 5:9-13) “Dầu rằng Ma Quỉ rất gian ác, độc dữ nhưng điều ấy cũng không giải trừ trách nhiệm bản thân của Cơ Đốc Nhân về phẩm hạnh và hành vi của mình!” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[31] Hỡi Simôn, Simôn, nầy, quỉ Satan đã đòi sàng sảy ngươi như lúa mì. [32] Song ta đã cầu nguyện cho ngươi, hầu cho đức tin ngươi không thiếu thốn. Vậy, đến khi ngươi đã hối cải, hãy làm cho vững chí anh em mình.” (Lu. 22:31-32) “Trong “Việt Sử Giai Thoại” (Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) Giáo Sư Nguyễn Khắc Thuần viết: ‘Đinh Tiên Hoàng mất, vua nối ngôi là Đinh Toàn chỉ mới được sáu tuổi, Lê Hoàn làm Phó Vương, giữ quyền nhiếp chính, ấy là vì sự thể lúc đó buộc phải làm như vậy. Sau, vận nước lâm nguy, xã tắc không thể phó thác cho Đinh Toàn bé nhỏ, chư tướng cùng Dương Thái hậu tôn Lê Hoàn lên ngôi, và Lê Hoàn đã vui nhận ý tôn lập đó, ấy cũng bởi sự thể lúc bấy giờ buộc phải làm như vậy đó thôi…’. Là một nhà nghiên cứu sử học uyên thâm mà Giáo Sư Nguyễn Khắc Thuần lại viết những lời bình như thế thì quả thật là quá dễ dãi.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “LÊ HOÀN LÊN NGÔI HOÀNG ĐẾ” “Lê Hoàn sinh năm Tân Sửu (941) tại làng Trung Lập, Châu Ái (Nay làng này thuộc Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), mất năm Ất Tị (1005), thọ 64 tuổi. Thuở nhỏ, vì gia đình nghèo, Lê Hoàn đi ở và làm con nuôi. Sau, Lê Hoàn theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp Loạn Mười Hai Sứ Quân. Nhờ có tài, lại được Đinh Bộ Lĩnh yêu, ông thăng tiến rất nhanh. Dưới triều Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn giữ chức Thập Đạo Tướng Quân, tức là chức võ quan cao nhất lúc bấy giờ. Năm 979, khi Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị giết hại, con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Toàn được đưa lên nối ngôi, Lê Hoàn là Phó Vương, giữ quyền nhiếp chính. Các quan trong triều như Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp nghi ngờ Lê Hoàn sẽ làm việc mờ ám, bèn dấy binh để đánh, nhưng rốt cuộc lại bị Lê Hoàn đánh bại và giết chết. Từ đó, uy danh của Lê Hoàn ngày một lớn hơn. Tuy nhiên, khi nội loạn vừa dẹp yên thì ngoại xâm lại tràn tới. Nghe theo lời tâu của Hầu Nhân Bảo, nhà Tống xua quân đến xâm lược nước ta. Triều đình đương thời đứng trước một thực tế rất khó xử, rằng ai sẽ là người đủ uy tín và đủ năng lực để điều khiển vận mệnh quốc gia? Tháng Bảy năm Canh Thân (980), một sự kiện lớn đã diễn ra tại kinh đô Hoa Lư. Sự kiện này được sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính Biên, Quyển I, Tờ 13) chép lại như sau: ‘Quan giữ đất Lạng Châu (Vùng Lạng Sơn và Quảng Ninh ngày nay) đem việc đó (Chỉ việc quân Tống tràn sang xâm lược nước ta) tâu lên, Dương Thái hậu bèn sai Lê Hoàn tuyển lựa dũng sĩ để chống lại. Triều đình cho Phạm Cự Lượng (Em của Phạm Hạp, người Nam Sách, nay thuộc tỉnh Hải Dương) làm Đại Tướng, được quyền bày mưu tính kế đánh giặc. (Phạm) Cự Lượng cùng các tướng, mặc nguyên quân phục, vào thẳng nội điện, nói thẳng với mọi người rằng: - Thưởng người có công, trị người phạm tội, ấy là phép dùng binh. Nay, chúa thượng thì thơ ấu, dẫu bọn ta có liều chết mà đánh rồi may lập được chút công lao, thì ai sẽ là người biết cho? Vậy thì chi bằng trước hãy tôn ngay quan Thập Đạo Tướng Quân (Tức Lê Hoàn) lên ngôi Thiên Tử rồi sau đó mới xuất quân. Quân sĩ nghe vậy thì đều tung hô “vạn tuế”. Dương Thái hậu cũng một lòng mến phục, liền sai lấy tấm Long Cổn khoác lên người Lê Hoàn, rồi cũng chính Dương Thái hậu khuyên Lê Hoàn lên ngôi. Lê Hoàn lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Phúc, giáng Hoàng đế là Đinh Toàn xuống làm Vệ Vương như cũ’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “CẢNH CÁO” (Theo Kinh Thánh) Vây bè kết cánh với bọn người mất nết để lợi dụng họ (Sv. 2Ti. 3:6; 1Ti. 5:13) mà quấy phá các Hội Thánh của Đức Chúa Trời là hành vi của Ma Quỉ và các sứ của nó chứ không phải chỉ là hành động của người thiếu tư cách và vô trách nhiệm! (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[1] Hãy biết rằng trong ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. [2] Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, [3] vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, [4] lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời, [5] bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó. Những kẻ thể ấy, con hãy lánh xa đi. [6] Trong bọn họ có kẻ lẻn vào các nhà, quyến dụ lòng những người đàn bà mang tội lỗi, bị bao nhiêu tình dục xui khiến; [7] vẫn học luôn mà không hề thông biết lẽ thật được. [8] Xưa kia Giannét với Giambe chống trả Môise thể nào, thì những kẻ nầy cũng chống trả lẽ thật thể ấy: Lòng họ bại hoại đức tin họ không thể chịu thử thách được. [9] Nhưng họ không làm thêm được nữa, vì sự điên dại của họ sẽ bày tỏ ra cho thiên hạ, cũng như của hai người kia.” (2Ti. 3:1-9) “Hãy cẩn thận! Việc ước ao cho được sự chỉ định của Đức Chúa Trời hoàn toàn ngược lại với việc giành giật, trấn lột người đã được Ngài chỉ định để có được sự chỉ định của Ngài là Đấng Chỉ Định.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “ [18] Simôn thấy bởi các Sứ Đồ đặt tay lên thì có ban Đức Thánh Linh xuống, bèn lấy bạc dâng cho, mà nói rằng: [19] Cũng hãy cho tôi quyền phép ấy, để tôi đặt tay trên ai thì nấy được nhận lấy Đức Thánh Linh. [20] Nhưng Phierơ trả lời rằng: Tiền bạc ngươi hãy hư mất với ngươi, vì ngươi tưởng lấy tiền bạc mua được sự ban cho của Đức Chúa Trời! [21] Ngươi chẳng có phần hoặc số trong việc nầy; vì lòng ngươi chẳng ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời. [22] Vậy, hãy ăn năn điều ác mình, và cầu nguyện Chúa, hầu cho ý tưởng của lòng ngươi đó họa may được tha cho. [23] Vì ta thấy ngươi đương ở trong mật đắng và trong xiềng tội ác.” (Công. 8:18-23) “…Có bao nhiêu người mẹ là có bấy nhiêu người nuôi những ước vọng chân thành về con mình, chỉ tiếc là không phải bất cứ người con nào cũng đều có thể làm thỏa nguyện đấng sinh thành của mình mà thôi…” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “ĐẠI LƯỢC VỀ LÊ HOÀN” “Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Bản Kỉ, Quyển I, Tờ 14 và 15) chép chuyện Lê Hoàn trước khi được tôn lên ngôi Hoàng Đế như sau: ‘Thân mẫu của nhà vua, người họ Đặng, trước đó, khi đang mang thai, bỗng nằm mơ thấy bụng mình nở ra hoa sen và kết thành hạt sen ngay, bà lấy hạt sen ấy đem chia cho mọi người nhưng phần mình lại không ăn. Tỉnh dậy, bà lấy làm lạ lắm. Đến khi sinh Nhà vua, vừa thoáng thấy mặt mũi đến hình dáng đều khác thường, bà nói với mọi người: - Thằng bé này về sau ắt sẽ được sang giàu hơn người, chỉ tiếc là tôi không kịp được hưởng lộc mà thôi. Thế rồi được độ vài năm, bà mất và sau đó, thân sinh (Của Nhà vua) cũng qua đời. Bấy giờ, có viên quan người họ Lê (Hiện chưa rõ tên), người Ái Châu (Nay thuộc Thanh Hóa) thấy (nhà vua) có dung mạo khác thường, bèn nuôi làm con. Một hôm, mùa Đông giá rét (nhà vua) phải nằm phục xuống như hình cái cối úp cho đỡ buốt, chẳng dè đêm ấy, nhà sáng rực cả lên vì có con rồng vàng nằm che lên cho (nhà vua). Viên quan người họ Lê càng lấy làm lạ. Lớn lên (nhà vua) từng giúp việc cho Nam Việt Vương (Đinh) Liễn, tỏ ra tài giỏi và có chí lớn hơn người. (Đinh) Tiên Hoàng khen là người giàu mưu trí và có sức mạnh, bèn giao cho quyền được cai quản hai ngàn quân. Sau thăng dần lên đến chức Thập Đạo Tướng Quân, Điện Tiền Chỉ Huy Sứ’. (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “Sự trả thù có một sức cám dỗ rất lớn nhưng Cơ Đốc Nhân chúng ta phải kháng cự nó bằng sự tin quyết rằng trả thù có nhiều mối hại mà mối hại lớn nhất là xâm phạm quyền phán xét của duy nhất Đức Chúa Trời để chúng ta thôi không trút đổ cơn thịnh nộ lên kẻ hãm hại chúng ta.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “Hỡi kẻ rất yêu dấu của tôi ơi, chính mình chớ trả thù ai, nhưng hãy nhường cho cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời; vì có chép lời Chúa phán rằng: Sự trả thù thuộc về Ta, Ta sẽ báo ứng.” (Rô. 12:19) “…Binh pháp cổ của Trung Quốc vẫn răn tướng lĩnh phải biết người biết ta. Hầu Nhân Bảo chẳng hề biết ta cũng chẳng hề biết người, không chết sớm mới là lạ, chớ chết sớm có gì là lạ đâu…” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “TUỚNG QUÂN HẦU NHÂN BẢO” “Năm 960, Triệu Khuông Dận lên ngôi Hoàng Đế, đó là Tống Thái Tổ, vị vua đầu tiên của nhà Tống (960 - 1278). Cũng như bao Hoàng Đế Trung Hoa khác, ngay sau khi lên ngôi, Tống Thái Tổ đã mưu tính kế sách bành trướng xuống phương Nam. Nhưng, kế sách chưa thực hiện được thì Tống Thái Tổ qua đời. Hoàng Đế kế vị là Triệu Khuông Nghĩa (Tức Tống Thái Tông) quyết nối chí lớn của Tống Thái Tổ, ngày đêm lo nghĩ mưu đồ thôn tính nước ta. Đang khi Tống Thái Tông chưa tìm được cơ hội thuận tiện, thì ở nước ta, Đinh Tiên Hoàng qua đời và ngay sau đó là cuộc xung đột vũ trang giữa phái của Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp với phái của Lê Hoàn. Quan biên ải phía Nam của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dò biết được mọi sự, bèn xin được về triều để báo cáo tình hình. Nói cho ngay, Hầu Nhân Bảo cũng vì mâu thuẫn với đồng liêu cho nên bị bắt ra làm quan ở biên ải phía Nam, đã chín năm trời không được về thăm nhà. Đến đây, muốn xin về triều để nhân đó mà xin về thăm nhà luôn thể. Nhưng, thương hại thay, Hầu Nhân Bảo tính kế lợi mình mà hại người, chưa thỏa ước nguyện riêng đã phải về nơi chín suối. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính Biên, Quyển I) có hai đoạn chép chuyện Hầu Nhân Bảo, nay xin được giới thiệu như sau: ‘Trước đây, viên quan giữ đất Ung Châu (Trung Quốc) của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo dâng thư (về triều) nói rằng, ở Giao Châu (Chỉ nước ta) đang có biến loạn, triều đình chỉ cần đem một ít quân sang là cũng đã có thể chiếm lấy được. Hầu Nhân Bảo cũng xin được về triều để trình bày việc này. Vua Tống được thư, mừng lắm, đã toan sai quân chạy ngựa trạm đi triệu Hầu Nhân Bảo về ngay, nhưng Lư Đa Tốn (Kẻ có hiềm thù với Hầu Nhân Bảo và đặc biệt là với Triệu Phổ, anh vợ của Hầu Nhân Bảo) lại tâu rằng: - Nước nhỏ kia đang có nội loạn, đó chính là cơ trời khiến chúng phải mất, thế thì ta nên xuất kì bất ý mà đánh úp, tức là làm theo lối sét đánh thình lình, che tai không kịp. Nay nếu có lệnh cho Hầu Nhân Bảo về trước thì mưu kia tất phải bị lộ, bọn họ biết mà đề phòng, ta không dễ gì lấy được đâu. Vậy, chi bằng hãy mật sai Hầu Nhân Bảo ngầm lo mọi việc, sau mới xuất quân đánh tràn sang, thắng lợi mười phần cầm chắc cả mười. Vua Tống cho lời ấy là phải, bèn phong cho Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu Thủy Lục Chuyển Vận Sứ, lại phong cho bọn Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng và Giả Thực được quyền nắm binh mã, hẹn ngày cùng kéo sang xâm lược nước ta’ (Tờ 12). ‘Bấy giờ (Năm Tân Tị, 981), quân Tống tràn sang xâm lấn nước ta. Hầu Nhân Bảo kéo đến Lãng Sơn (Tên một hòn đảo ở vịnh Hạ Long), Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến Bạch Đằng. Nhà vua (Chỉ Lê Hoàn) tự mình làm tướng để chống giặc, sai quân đóng cọc gỗ ở sông Bạch Đằng để cản đối phương. Quân Tống quá đông nên quân ta đánh có phần bất lợi, hai trăm thuyền chiến bị giặc cướp. Hầu Nhân Bảo đem quân tiến lên trước nhưng Tôn Toàn Hưng thì đóng quân lại, tỏ ý dùng dằng, khiến cho Hầu Nhân Bảo phải mấy phen thúc giục. Khi quân Hầu Nhân Bảo tới, Nhà vua sai người trá hàng rồi lập mưu, dụ bắt được Hầu Nhân Bảo đem chém. Bọn Lưu Trừng sợ mà rút lui, Trần Khâm Tộ nghe tin cũng tháo chạy trở về. Nhà vua sai tướng xuất quân truy kích. Trần Khâm Tộ thua to, quân lính chết hơn quá nửa. Bọn bộ tướng của giặc là Quách Quân Biện và Hứa Trọng Tuyên đều bị bắt giải về kinh đô. Quan giữ chức Chuyển Vận Sứ của nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên viết tờ tâu về triều, báo cáo việc thua trận. Vua Tống bèn hạ lệnh rút lui (Tờ 17)’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “XEM TRÁI THÌ BIẾT CÂY” “[43] Cây sanh trái xấu không phải là cây tốt, cây sanh trái tốt không phải là cây xấu; [44] vì hễ xem trái thì biết cây. Người ta không hái được trái vả nơi bụi gai, hay là hái trái nho nơi chòm kinh cước. [45] Người lành bởi lòng chứa điều thiện mà phát ra điều thiện, kẻ dữ bởi lòng chứa điều ác mà phát ra điều ác; vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng nói ra.” (Lu. 6:43-45) Muốn biết một người là ai người ta có thể cứ nhìn vào việc họ làm ất sẽ biết nhờ nguyên tắc “xem trái thì biết cây”… (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[12] Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. [13] Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình. [14] Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới luật pháp, mà thuộc dưới ân điển.” (Rô. 6:12-14) “Trong đời sống Cơ Đốc tình yêu thương là rất quan trọng nhưng đức chân thành lại là yếu tố quan trọng của tình yêu thương.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[9] Lòng yêu thương phải cho thành thật. Hãy gớm sự dữ mà mến sự lành. [10] Hãy lấy lòng yêu thương mềm mại mà yêu nhau như anh em; hãy lấy lẽ kính nhường nhau.” (Rô. 12:9-10) “…Từ chỗ loạn nhà đến chỗ hại nước, khoảng cách thật chẳng xa. Cho dẫu ngàn năm vật đổi sao dời, lòng khinh ghét và căm giận của thế gian đối với kẻ bất trung và phản quốc có bao giờ thay đổi đâu…” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “ĐOẠN KẾT BI THẢM CỦA CUỘC ĐỜI NGÔ NHẬT KHÁNH” Ngô Nhật Khánh người Đường Lâm. Đất này, nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Các bộ sử cũ đều nói rằng, Ngô Nhật Khánh vừa là người đồng hương, lại cũng vừa là người bà con cùng một họ với Ngô Quyền. Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), đất nước loạn lạc bởi sự hoành hành của nạn cát cứ. Các thế lực yếu bị tiêu diệt dần, đến nửa sau của thế kỉ thứ X, cả nước chỉ còn mười hai thế lực lớn. Sử gọi đó là Loạn Mười Hai Sứ Quân. Ngô Nhật Khánh là một trong số mười hai sứ quân này. Lấy quê nhà làm chỗ dựa, Ngô Nhật Khánh đã không ngừng mở rộng ảnh hưởng, từng một thời hùng cứ ở vùng đất thuộc tỉnh Hà Tây ngày nay. Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh tiêu diệt hết mười hai sứ quân. Tuy nhiên, vì kính trọng tài năng và đức độ của Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh chẳng những không nỡ giết người bà con của Ngô Quyền là Ngô Nhật Khánh, mà còn tìm đủ mọi cách để lôi kéo Ngô Nhật Khánh về với mình. Tiếc thay, Ngô Nhật Khánh đã nuôi lòng thù oán một cách vô lối để rồi rốt cuộc phải chết một cách bi thảm. Về sự kiện này, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Chính Biên, Quyển I, Tờ 11) viết rằng: ‘(Ngô) Nhật Khánh là bà con của Ngô Tiên Chúa (Tức Ngô Quyền). Trước kia, (Ngô Nhật Khánh) từng xưng là An Vương, cùng trong số mười hai sứ quân giữ đất tranh hùng. Khi Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp được (Ngô) Nhật Khánh rồi, bèn lập mẹ của hắn làm Hoàng Hậu, hỏi em gái của hắn cho con mình là Nam Việt Vương (Đinh) Liễn, lại gả công chúa cho hắn nữa, thế mà Ngô Nhật Khánh vẫn không bớt oán hờn. Hắn dẫn vợ là công chúa của Đinh Tiên Hoàng đi trốn. Tới cửa biển Nam Giới (Tức là cửa Sót, nằm ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), hắn rút dao bên mình ra, rạch mặt vợ mà kể tội: - Cha mày đã lừa gạt để ức hiếp mẹ con ta. Ta có đâu lại vì mày mà bỏ qua tội ác của cha mày. Thôi, mày hãy trở về, ta sẽ một thân một mình đi tìm ai có thể cứu được ta đây. Nói rồi, Ngô Nhật Khánh chạy sang Chiêm Thành. Nay, nghe tin Đinh Tiên Hoàng đã mất, Ngô Nhật Khánh dẫn quân Chiêm Thành, theo đường biển mà vào cướp phá. Chẳng dè, khi quân của chúng đi qua cửa biển Đại Nha và cửa biển Tiểu Khang thì phong ba nổi lên, nhận chìm hết cả thuyền bè, Ngô Nhật Khánh bị chết đuối. Chúa Chàm (Tức vua Chiêm Thành) may được thoát nạn, thu nhặt tàn quân mà chạy về”. (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “Còn hơn là những mỹ đức, hòa thuận và nhân đức là những loại tỉnh thức giúp đắc thắng được chính bản thân.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “[17] Chớ lấy ác trả ác cho ai; phải chăm tìm điều thiện trước mặt mọi người. [18] Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người. [19] Hỡi rất yêu dấu của tôi ơi, chính mình chớ trả thù ai, nhưng hãy nhường cho cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời; vì có chép lời Chúa phán rằng: Sự trả thù thuộc về ta, ta sẽ báo ứng. [20] Vậy nếu kẻ thù mình có đói, hãy cho ăn; có khát, hãy cho uống; vì làm như vậy, khác nào mình lấy những than lửa đỏ mà chất trên đầu người. [21] Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác.” (Rô. 12:17-20) “Phần lớn các sử gia khi viết về Lê Hoàn đều có ý bênh. Dầu rằng vai trò, sứ mệnh lịch sử về sau của Lê Hoàn là rất đặc biệt nhưng từ khi còn là một đứa trẻ ngồi trong lớp nghe Thầy giảng sử cho đến nay đã là một ông già ngồi ngẫm nghĩ chuyện cổ kim, kẻ bần đạo này luôn thấy việc bênh vực Lê Hoàn là không ổn thỏa hoàn toàn. Nguyên tắc túc lý trong vận động của tư duy khiến người ta phải đặt ra một câu hỏi cho vấn đề vì sao những con người đơn sơ như Đinh Điền và Nguyễn Bặc lại dám liên quân với nhau để kéo về triều chống lại Phó Vương Lê Hoàn là người đang ở vị trí khống chế mọi quyền lực trên cả nước; ngoài ra lại còn mối quan hệ quá mức bình thường giữa Lê Hoàn và Dương Thái Hậu nữa.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “CÁI CHẾT CỦA ĐINH ĐIỀN VÀ NGUYỄN BẶC” “Đinh Điền người Hoa Lư (Tỉnh Ninh Bình) cùng họ với Đinh Tiên Hoàng. Ông sinh năm nào chưa rõ, chỉ biết ông từng là người có công trong sự nghiệp tiêu diệt Loạn Mười Hai Sứ Quân, và khi triều Đinh được thành lập, ông được phong tới chức Ngoại Giáp. Đinh Điền mất vào cuối năm Kỉ Mão (979). Nguyễn Bặc sinh năm Giáp Thân (924), mất năm Kỉ Mão (979) thọ 55 tuổi. Ông người Hoa Lư (Tỉnh Ninh Bình), là bạn của Đinh Tiên Hoàng từ hồi còn nhỏ. Sau, Nguyễn Bặc cũng từng là người có công trong sự nghiệp tiêu diệt Loạn Mười Hai Sứ Quân, và khi triều Đinh được thành lập, ông được phong tới tước Định Quốc Công. Tháng Mười năm Kỉ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng là Nam Việt Vương Đinh Liễn bị tên nghịch thần là Đỗ Thích giết hại. Ngay sau đó, Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Lê Hoàn đã cùng nhau tôn lập con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn lên nối ngôi. Tiếc thay, ngay sau đó, Đinh Điền và Nguyễn Bặc lại nổi binh chống Lê Hoàn để rồi cả hai cùng bị Lê Hoàn giết hại. Sự kiện đau lòng này được sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư (Bản Kỉ, Quyển I, Tờ 7a-b và Tờ 8a) chép lại như sau: ‘Vua nối ngôi khi mới được sáu tuổi, Lê Hoàn lo nhiếp chính, làm những công việc như Chu Công (Tức Chu Công Đán, em của vua nhà Chu bên Trung Quốc là Vũ Vương. Chu Công nhận di chiếu của Vũ Vương, tôn lập Thành Vương lên nối ngôi, còn mình thì lo nhiếp chính. Bởi việc này, Chu Công từng bị các quan đương thời gièm pha, cho là Chu Công sẽ làm chuyện thoán nghịch). Lê Hoàn tự xưng là Phó Vương. Bọn Định Quốc Công là Nguyễn Bặc, Ngoại Giáp là Đinh Điền, cùng với Phạm Hạp, ngờ rằng Lê Hoàn sẽ làm chuyện không hay đối với nhà vua còn nhỏ tuổi, bèn dấy binh thủy bộ, chia làm hai ngả tiến về kinh đô để giết Lê Hoàn, nhưng không đánh nổi mà đều bị giết. Trước khi bọn Đinh Điền và Nguyễn Bặc cất quân, Thái Hậu đã hay tin, lòng những lấy làm lo sợ, bèn đến báo với Lê Hoàn rằng: - Bọn Nguyễn Bặc dấy quân làm loạn, gây kinh động cả nước nhà ta mà vua thì còn nhỏ tuổi, chưa thể kham nổi việc cứu nạn; vậy, các ông nên sớm liệu, chớ để tai họa về sau. Lê Hoàn nói: - Thần ở chức Phó Vương, quyền nhiếp chính sự, cho dẫu biến loạn sống chết thế nào, cũng quyết đảm đương trách nhiệm. Nói rồi, ông chuẩn bị quân ngũ, đánh nhau với (Đinh) Điền và (Nguyễn) Bặc ở Tây Đô. Lê Hoàn người Ái Châu (Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa), nay đóng đô ở Hoa Lư, vì thế, sử gọi Ái Châu là Tây Đô. (Đinh) Điền, (Nguyễn) Bặc thua chạy. Sau, chúng đem thủy quân ra đánh. Lê Hoàn nhân thuận gió, phóng lửa đốt hết chiến thuyền của chúng, chém chết (Đinh) Điền tại trận và bắt sống được (Nguyễn) Bặc đem về kinh sư. (Lê Hoàn) kể tội Nguyễn Bặc rằng: - Tiên đế gặp nạn, lòng người và thần nhân đều căm giận và hổ thẹn. Ngươi là bề tôi mà nhân lúc tang tóc bối rối để dấy quân bội nghĩa, vậy thì phận làm tôi để ở đâu? Nói rồi, sai người đem (Nguyễn Bặc) ra chém đầu. Bọn (Đinh) Điền và (Nguyễn) Bặc đã bị giết rồi, quân của bọn Phạm Hạp cũng tự nhiên mất hết khí thế, bỏ chạy về làng Cát Lợi ở Bắc Giang. (Lê) Hoàn đem quân đuổi theo, bắt được Phạm Hạp đem về kinh sư’.” (Nguyễn Khắc Thuần, “Việt Sử Giai Thoại”, Tập I, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2003) “Người ta hay cho rằng mình thiếu cơ hội nhưng thường là người ta thiếu bản lãnh cho cơ hội.” (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.) “ [1] Khi ấy, Nước Thiên Đàng sẽ giống như mười người nữ đồng trinh kia cầm đèn đi rước chàng rể. [2] Trong các nàng đó, có năm người dại và năm người khôn. [3] Người dại khi cầm đèn đi thì không đem dầu theo cùng mình. [4] Song người khôn khi cầm đèn đi thì đem dầu theo trong bình mình. [5] Vì chàng rể đến trễ, nên các nàng thảy đều buồn ngủ và ngủ gục. [6] Đến khuya, có tiếng kêu rằng: Kìa, chàng rể đến, hãy đi ra rước người! [7] Các nữ đồng trinh bèn thức dậy cả, sửa soạn đèn mình. [8] Các người dại nói với các người khôn rằng: Xin bớt dầu của các chị cho chúng tôi, vì đèn chúng tôi gần tắt [9] Nhưng các người khôn trả lời rằng: Không, e chẳng đủ cho chúng tôi và các chị; thà các chị hãy đi đến người bán dầu mà mua. [10] Song trong khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến; kẻ nào chực sẵn, thì đi với người cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. [11] Chặp lâu, những người nữ đồng trinh khác cũng đến và xin rằng: Hỡi Chúa, hỡi Chúa, xin mở cho chúng tôi! [12] Nhưng người đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta không biết các ngươi đâu. [13] Vậy, hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày, cũng không biết giờ.” (Ma. 25:1-13) |