REV. ĐOÀN NHẬT TÂN, PHD
  • About Me
  • My Argument
    • Nhận Diện
    • Nhận Thực
    • Nhận Định
    • Nhận Thức
  • My Presentation
    • Góp Nhặt
    • Chắt Lọc
    • Giảng Dạy
    • Truyền Bá
  • My Exhortation
    • Kinh Truyện
    • Sử Tích
    • Mục Ngữ
    • Nhân Thân
Picture

“BIỆN GIẢ & BIỆN ĐỀ”

5/7/2019

 
Picture
“CÁI THANG VÀ CUỘC LEO THANG TAI HẠI NHẤT”
Cái thang này là hình ảnh chỉ cho thấy sự tai hại của tham vọng ngông cuồng,
tự cất mình lên thực hiện những bước đi nguy hiểm của lòng tham dục bị che lấp bởi sự ngạo mạn
nên không hề thấy, không hề biết là mình đang “đu dây” trên dao sắc.
Tấm hình này được nêu ra ở đây với hai mục đích:
Thứ nhất, làm một sự cảnh báo cho những con thiêu thân dám “đá vào ghim nhọn” (Sv. Công. 26:14)
của công việc của Đức Chúa Trời giữa vòng các Hội Thánh của Ngài và,
thứ hai, làm một sự minh họa cho những ai kính sợ Đức Chúa Trời “chớ phiền lòng” mà hãy “nương náu mình nơi Ngài”
vì biết được rằng những kẻ thủ ác sẽ phải tự trả giá cho sự ác mình (Sv. Thi. 37:1-2; 37-40).
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
Picture
Có người nói tấm hình về cái thang này là một hình ảnh “bạo lực”. Sai rồi! thế nào là bạo lực? Tấm hình này có đề cao bạo lực hay khuyến khích cho việc sử dụng bạo lực đâu mà nói cách vô nghĩa như thế?
 
Cái thang này là hình ảnh chỉ cho thấy sự tai hại của tham vọng ngông cuồng, tự cất mình lên thực hiện những bước đi nguy hiểm của lòng tham dục bị che lấp bởi sự ngạo mạn nên không hề thấy, không hề biết là mình đang “đu dây” trên dao sắc. Tấm hình này được nêu ra ở đây với hai mục đích: Thứ nhất, làm một sự cảnh báo cho những con thiêu thân dám “đá vào ghim nhọn” (Sv. Công. 26:14) của công việc của Đức Chúa Trời giữa vòng các Hội Thánh của Ngài và, thứ hai, làm một sự minh họa cho những ai kính sợ Đức Chúa Trời “chớ phiền lòng” mà hãy “nương náu mình nơi Ngài” vì biết được rằng những kẻ thủ ác sẽ phải tự trả giá cho sự ác mình (Sv. Thi. 37:1-2; 37-40).
 
Có những “cái thang” rất tai hại vì người ta tưởng rằng nó sẽ giúp cho họ đi lên nhưng kỳ thật họ đang bị rơi xuống thảm thiết. “Cái thang” tai hại nhất là “cái thang kiêu ngạo” mà Satan đã dùng để trèo lên để “dòm ngó” ngôi của Đức Chúa Trời:
 
“[12] Hỡi sao mai, con trai của sáng sớm kia, sao ngươi từ trời sa xuống! Hỡi kẻ giày đạp các nước kia, ngươi bị chặt xuống đất là thể nào! [13] Ngươi vẫn bụng bảo dạ rằng: Ta sẽ lên trời, sẽ nhắc ngai ta lên trên các ngôi sao Đức Chúa Trời. Ta sẽ ngồi trên núi hội về cuối cùng phương Bắc. [14] Ta sẽ lên trên cao những đám mây, làm ra mình bằng Đấng Rất Cao. [15] Nhưng ngươi phải xuống nơi Âm Phủ, sa vào nơi Vực Thẳm!” (Ês. 14:12-15)
 
Sự tai hại không dừng lại ở sự sa bại của Satan, sự tai hại còn ở chỗ một số rất đông các thiên sứ trên Thiên Đàng cũng đã ngông cuồng liên can và liên lụy:
 
“[3] Trên trời cũng hiện ra một dấu khác nữa: Là một con rồng lớn sắc đỏ, có bảy đầu, mười sừng, và trên đầu có bảy mão triều thiên. [4] Đuôi kéo một phần ba các ngôi sao trên trời, đem quăng xuống đất; con rồng ấy chực trước người đàn bà gần đẻ, hầu cho khi đẻ ra thì nuốt con người đi.” (Khải. 12:3-4)
 
Cuộc “leo thang” vẫn còn hệ lụy cho đến ngày nay qua đời sống của những kẻ không kính sợ Đức Chúa Trời, tự cất mình lên chống lại công việc của Đức Chúa Trời và người của Ngài. Những kẻ này đang thực hiện những bước leo thang cực kỳ nguy hiểm khiến có thể so sánh với việc họ leo thang bằng dao. Tại sao?
 
“Cái thang” là một vật giúp cho người ta trèo lên để thu, đoạt những sự ở trên cao. Khi ai đó dùng những con dao (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) để hãm hại người khác nhằm đạt được những sự gì đó theo tấm lòng gian ác của mình thì, trên một phương diện, họ đang leo thang bằng dao; họ sẽ là người trước tiên bị hại vì dao, chẳng vậy mà nhân gian đã có câu “Ngậm máu phun người dơ miệng mình” đấy hay sao? Kinh Thánh phán:
 
“Ai đào hầm sẽ té xuống đó; Kẻ nào lăn đá, đá sẽ trở đè lại nó.” (Châm. 26:27)
 
Tiếc cho kẻ thủ ác đã đành, lại càng tiếc hơn cho những kẻ hà hơi, tiếp sức cho kẻ thủ ác. Họ toa rập với nhau, họ luôn đắc ý vì tưởng rằng sẽ chắc phần đắc thắng; thế nhưng, theo thánh ý của Đức Chúa Trời, cuộc tận diệt của những kẻ ác có cơ chế của một cuộc tự diệt. Tôi xin nhấn mạnh: Theo sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời qua Thi. 37, cuộc tận diệt của những kẻ ác có cơ chế của một cuộc tự diệt!
 
“[14] Kẻ ác đã rút gươm và giương cung mình,
Đặng đánh đổ người khốn cùng và kẻ thiếu thốn,
Đặng giết người đi theo sự ngay thẳng.
[15] Gươm chúng nó sẽ đâm vào lòng chúng nó,
Và cung chúng nó sẽ bị gãy.”
(Thi. 37:14-15)
 
Đức Chúa Trời, bởi lòng thương xót của Ngài, muốn những người kính sợ Ngài hiểu được điều Ngài phán qua những lời vừa nêu vì khi hiểu được như vậy người ta sẽ dễ dàng “nhường” kẻ ác cho sự định mạng của Đức Chúa Trời, họ không cần phải tranh thắng với những kẻ thủ ác, họ sẽ vâng lời Đức Chúa Trời mà tự thắng…
 
“[1] Chớ phiền lòng vì cớ kẻ làm dữ,
Cũng đừng ghen tị kẻ tập tành sự gian ác.
[2] Vì chẳng bao lâu chúng nó sẽ bị phát như cỏ,
Và phải héo như cỏ tươi xanh."
(Thi. 37:1-2)
 
Và…
 
“[37] Hãy chăm chú người trọn vẹn, và nhìn xem người ngay thẳng;
Vì cuối cùng người hòa bình có phước.
[38] Còn các kẻ vi phạm sẽ cùng nhau bị hủy hoại;
Sự tương lai kẻ ác sẽ bị diệt đi.
[39] Nhưng sự cứu rỗi người công bình do Đức Giêhôva mà đến;
Ngài là đồn lũy của họ trong thì gian truân.
[40] Đức Giêhôva giúp đỡ và giải cứu họ;
Ngài giải họ khỏi kẻ ác và cứu rỗi cho,
Bởi vì họ đã nương náu mình nơi Ngài.”
(Thi. 37:37-40)
 
Cơ Đốc Nhân chân chính phải biết nương náu nơi Đức Chúa Trời! Cơ Đốc Nhân chân chính phải biết cậy ơn Đức Chúa Trời mà tự thắng sự tham dục trong chính bản thân mình!
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)

“BIỆN GIẢ & BIỆN ĐỀ”

3/7/2019

 
Picture
ĐỂ NHẬN DIỆN “ĐỈA LÃNH ĐẠO” 
"  Riêng tặng HMĐ.
là người mà nếu Chúa đẹp ý
​thì sẽ phải tiếp tục gánh trọng trách trên vai Anh hiện nay." 
Các nhà khoa học cho biết rằng có đến 650 loại đỉa khác nhau trong tự nhiên mà bất cứ con đỉa nào cũng đều có hai đầu hút giúp nó hút máu được bằng cả hai đầu của mình. Khi bàn về vấn đề “đỉa” trong cơ quan thì “đỉa cơ quan” là một khái niệm dùng để chỉ những người thuộc trong phân hệ chịu lãnh đạo làm tổn hại cơ quan bằng việc hút cạn dần sinh lực của cơ quan. “Đỉa cơ quan” nói đến một lớp người làm hại cơ quan qua việc bòn rút sức sống của cơ quan cho lợi ích ích kỷ của họ. Sở dĩ những người này bị xem như “đỉa” ở trong cơ quan là vì họ (1) là những người hút cạn nguồn sống của cơ quan và (2) vì họ mà cơ quan trở nên yếu hơn.
 
Như vậy nếu một người nào đó ở trong phân hệ lãnh đạo, tức nhà lãnh đạo, có các đặc điểm (1) hút cạn nguồn sống của cơ quan và (2) vì họ mà cơ quan trở nên yếu hơn thì có đáng bị xem như một loại “đỉa” trong cơ quan hay không? Nếu chỉ dừng lại ở bề mặt của vấn đề, tức trên hiện tượng, thì người ta chưa có thể thấy những điều cấn thấy. Nhưng nếu bỏ qua cái hiện tượng để đi sâu vào bản chất thì quả thật là có một loại người đáng cho khoa học về lãnh đạo gọi là “đỉa lãnh đạo”, tức một loại “đỉa” giữa vòng những nhà lãnh đạo trong một cơ quan nào đó mà vì nhân cách và công việc của họ cơ quan bị thiệt hại dần dần.
 
Trước hết, cần phải thấy được rằng một nhà lãnh đạo chân chính không thể nào có chất “đỉa” được!
 
Về nguyên tắc, nhà lãnh đạo phải là người ban cho chứ không thể là người nhận lãnh, họ phải là người phục vụ chứ không thể là người được phục vụ. Tấm lòng của nhà lãnh đạo phải là tấm lòng của người phục vụ, đức hạnh của nhà lãnh đạo phải là đức hạnh của người phục vụ, đời sống của nhà lãnh đạo phải là đời sống của người phục vụ. Một khi không có tấm lòng của người phục vụ, không có đức hạnh của người phục vụ, không có đời sống của người phục vụ thì nguyên tắc phục vụ bị vi phạm, nhà lãnh đạo trở thành người được phục vụ trên một mức độ nào đó và có chất “đỉa” ở một mức độ nào đấy.
 
Nhà lãnh đạo chân chính phải là người có lẽ phải, tức họ được lẽ phải ủng hộ trên mọi phương diện. Nhà lãnh đạo phải là người được phát sinh từ lẽ phải, tồn tại nhờ lẽ phải, và phát triển theo lẽ phải. Vì chức phận lãnh đạo chân chính có bản chất lẽ phải cho nên hễ nhà lãnh đạo thiếu lẽ phải ở đâu thì sẽ thừa chất “đỉa” ở đó.
 
Chức phận lãnh đạo là để đáp ứng nhu yếu thực tiễn, nhu cần về lãnh đạo là một nhu cần khách quan, nó không phụ thuộc ý chí chủ quan của nhà lãnh đạo mà hoàn toàn theo đòi hỏi khách quan của thực tiễn. Không vì nhu yếu khách quan từ thực tiễn mà “nhà lãnh đạo” vẫn cứ “mọc” ra được thì nhất định đó là “đỉa lãnh đạo” chứ không phải là nhà lãnh đạo chân chính, đúng nghĩa.
 
Nhà lãnh đạo chân chính phải là một người có tâm trí sáng suốt để cách vật trí tri mà hành sự theo các qui luật khách quan của thuật lãnh đạo hầu cho nhờ đó mà công việc lãnh đạo được thông suốt. Khi một người vẫn còn chịu điều khiển bởi một tấm lòng nặng mang sự tham dục với mọi loại dục vọng ở trong đó, với đầy dẫy những tà tâm, tạp niệm ở trong đó, với những manh động không sao khống chế được trong sự thể hiện ra của hành vi thì địa vị lãnh đạo mà người ấy có được chỉ có tác dụng minh chứng rằng họ là một loại “đỉa lãnh đạo”!
 
Vì chức phận lãnh đạo có bản chất phục vụ cho nên nhà lãnh đạo là người “làm dâu trăm họ, làm đầy tớ trăm nhà”, họ phải là người rộng lượng, vị tha, và vì thế mà họ không thể nào là người cố chấp được. Khi nhà lãnh đạo gặp sự bất như ý họ xử lý sát việc, sát người không tiên kiến, thiên vị, ích kỷ. Người nào còn chưa đủ bản lĩnh để thoát khỏi sự cầm buộc của các ác tính vừa kể thì người ấy chưa có thể là nhà lãnh đạo chân chính được; nghĩa là nếu họ đang có một “vị trí lãnh đạo” nào đấy thì ấy là dấu hiệu cho thấy rằng họ là một loại “đỉa lãnh đạo” đang bỏ vòi hút cạn sinh lực của cơ quan.
 
Thứ hai, phải nhận thức rằng nhờ hiện tượng mà người ta có thể hiểu được bản chất “đỉa” của một nhà lãnh đạo!
 
Hiện tượng của một sự vật không luôn luôn đồng nhất với bản chất của sự vật ấy cho nên hình thức của một sự vật khác với nội dung của sự vật ấy là một điều mang tính qui luật. Người ta có thể ăn mặc rất đàng hoàng nhưng điều ấy không hề bảo đảm về một nhân cách đàng hoàng. Một nhà lãnh đạo có thể có một vẻ bề ngoài như thế nào đấy nhưng đó chỉ là hình thức còn nội dung thì phải xem xét tỉ mỉ hơn và lắm khi người ta nhận ra được người ấy chỉ là một loại “đỉa lãnh đạo” chứ không phải là một nhà lãnh đạo chân chính. “Đỉa lãnh đạo” cũng có nhiều loại khác nhau...
 
Loại Thứ Nhất:
"ĐỈA LÃNH ĐẠO BẬN RỘN"
 
Về đặc điểm tâm lý thì loại người này luôn muốn tỏ cho mọi người thấy rằng mình bận rộn ghê lắm và chính đặc điểm này đã làm cho họ trở thành “đỉa”. Trên phương diện công việc, họ thường bê trễ cho mọi người thấy rằng họ quan trọng. Loại người này thường chỉ làm được một số việc nhỏ không đáng kể và bỏ bê những việc quan trọng hơn nhưng họ luôn biện hộ rằng “không có đủ thời gian”, rằng “có nhỏ mới có lớn”, rằng “phải đứng mũi chịu sào” rất nặng nề và phức tạp...
 
Một nhà lãnh đạo “bận rộn” là một tai họa đối với cơ quan vì họ sẽ khiến cho mọi việc trong cơ quan trở nên lộn xộn cả về bản chất lẫn về thứ tự ưu tiên. Trong tâm trí của loại lãnh đạo này không có được một sự biện biệt giữa cái quan trọng với cái khẩn cấp, giữa cái chính yếu với cái thứ yếu, giữa cái ưu tiên với cái kém ưu tiên hơn... Tất cả những gì mà loại lãnh đạo này quan tâm chỉ đơn giản là một tham vọng phô diễn để làm cho người khác tin rằng họ thực sự bận rộn và chính vì họ thực sự bận rộn cho nên họ buộc phải làm những gì họ đang làm bất chấp là có hợp nguyên tắc, có đúng phương pháp hay không.
 
Dưới ánh sáng của các nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo chân chính, một khi nhà lãnh đạo lấy sự “bận rộn” ra làm lý do để rồi sức sống của cơ quan bị tổn hại thì, về thực chất, đó chỉ là một loại “đỉa lãnh đạo bận rộn” mà thôi.
 
Loại Thứ Hai:
“ĐỈA LÃNH ĐẠO KHẨN CẤP”
 
Loại “đỉa” này tin rằng phải làm ra vẻ khẩn cấp thì công việc họ làm mới quan trọng được và người ta mới thấy được rằng họ là một người quan trọng (vì luôn phải làm những việc “khẩn cấp”). “Đỉa lãnh đạo khẩn cấp” có khuynh hướng “tạo ra khủng hoảng” cho mọi việc mình phải làm, họ luôn gắn nhãn “khẩn cấp” cho một việc nào đó hầu làm duyên cớ để bỏ bê những việc khác, che đậy sự kém cõi về năng lực lãnh đạo của họ.
 
Trong thực tiễn lãnh đạo cơ quan, nhu cần về sự khẩn cấp để đáp ứng nhu yếu thực tiễn là có thật. Các quyết định lãnh đạo khẩn cấp hoặc về những công việc khẩn cấp là điều không thể tránh khỏi. Thế nhưng bản chất của loại quyết định và công việc này là chúng xuất phát từ nhu yếu thực tiễn chứ không bao giờ chỉ là sản phẩm của tâm lý chủ quan, cho lợi ích ích kỷ của nhà lãnh đạo.
 
Việc đặt một điều gì đó trong cơ quan dưới tình trạng “khẩn cấp” là một việc sẽ mở ra cho nhà lãnh đạo mọi lý do hợp pháp để huy động mọi nguồn lực trong cơ quan mà mọi sự phản ứng đều có thể bị xem là “bất hợp tác”, là “chống đối” lãnh đạo, là “không chấp hành” mệnh lệnh lãnh đạo...
 
Dưới ánh sáng của các nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo chân chính, một khi nhà lãnh đạo chuyên gắn nhãn “khẩn cấp” cho công việc để làm lý do cho những điều gì đó thì họ đã tự hóa thân thành “đỉa lãnh đạo khẩn cấp”, một kiểu đánh cắp quyền lực khiến dẫn đến sự suy yếu của cơ quan.
 
Loại Thứ Ba:
“ĐỈA LÃNH ĐẠO LANH CHANH”
 
“Đỉa lãnh đạo lanh chanh” nói về những nhà lãnh đạo thích can thiệp vào tất cả mọi việc vì tưởng rằng như thế là giỏi giang và nhiều quyền hạn.
 
“Đỉa lãnh đạo lanh chanh” là một loại người “dài tay” vì họ có thể thọc tay vào bất cứ việc gì của bất cứ người nào để “giúp một tay” cho công việc “tốt hơn”. Sự thật không như họ tưởng vì thói lanh chanh, bệnh dài tay này của họ chỉ đem lại sự rắc rối trong cơ quan mà thôi.
 
Một khi “đỉa lãnh đạo lanh chanh” đánh hơi được một việc ưng ý mình thì họ bèn lập tức “nhúng mũi” vào và nhiều khi dẫn đến tình trạng “hư bột hư đường” cho công việc. Dầu rằng việc mà các “đỉa lãnh đạo lanh chanh” can thiệp vào thường trở nên “xôi hỏng bỏng không” nhưng họ luôn muốn nhận được sự tri ân và tán thưởng từ những người trong phân hệ chịu lãnh đạo.
 
Dưới ánh sáng của các nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo chân chính, một khi nhà lãnh đạo cứ luôn “thọc tay”, “nhúng mũi” vào công việc đã được giao của người khác để “giúp đỡ” thay vì nâng đỡ họ bằng các phương phương pháp và nguyên tắc lãnh đạo chân chính thì bản chất “lanh chanh” của họ bị lộ ra, họ hiện nguyên hình là một loại “đỉa lãnh đạo lanh chanh”.
 
Loại Thứ Tư:
"ĐỈA LÃNH ĐẠO BẤT ĐỊNH"
 
Quyết đoán phải là một yếu tố tốt của một nhà lãnh đạo tốt nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng có thể dễ dàng tìm được các nhà lãnh đạo có tính quyết đoán. Trong thực tiễn lãnh đạo cơ quan người ta nhận thấy có sự hiện diện của một số nhà lãnh đạo bất định là những người tỏ ra không tin chắc lắm đối với quyết định vừa mới ra của mình. Chính tính chất này của các nhà lãnh đạo như thế đã khiến sinh lực của cơ quan chẳng những bị hao mòn mà lắm khi còn lâm nguy, và vì thế mà người ta gọi họ là “đỉa lãnh đạo bất định”.
 
Xét về cơ chế thì sở dĩ người ta chưa quyết đoán được trên một vấn đề nào đó là do người ta chưa có một sự xác quyết về vấn đề ấy. Đến lượt mình, sự xác quyết chỉ có khi đã có sự chứng giải mà sự chứng giải chỉ đến và chỉ đúng khi có một sự nhận thức đầy đủ và thỏa đáng đối với vấn đề.
 
Chính sự thiếu hiểu biết về một vấn đề nào đó của nhà lãnh đạo đã khiến cho họ phải ở trong một trạng thái muốn “xét lại” về mỗi quyết định đã đưa ra. Họ giết cơ quan mà họ đang lãnh đạo bằng chính sự thiển cận của mình.
 
Dưới ánh sáng của các nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo chân chính, một khi nhà lãnh đạo cứ luôn ở trong một trạng thái bất định sau khi đã ra quyết định lãnh đạo thì chẳng chóng thì chầy sinh lực cơ quan cũng bị tiêu hao vì họ, họ không phải là nhà lãnh đạo chân chính mà chỉ là một loại “đỉa lãnh đạo bất định” trong cơ quan.
 
Loại Thứ Năm:
“ĐỈA LÃNH ĐẠO DO DỰ”
 
Bệnh do dự của một nhà lãnh đạo có thể do một hay nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nhìn chung thì sự thiếu dứt khoát của nhà lãnh đạo luôn tạo ra mất mát dưới hình thức này hay hình thức khác cho một cơ quan.
 
Nguyên nhân phổ biến nhất của trạng thái do dự trong việc ra quyết định lãnh đạo của nhà lãnh đạo là do thiếu sự xác quyết mà sự thiếu xác quyết đối với một vấn đề luôn luôn gắn liền với sự am hiểu về vấn đề ấy.
 
Khi nhà lãnh đạo thiếu sự xác quyết cho một vấn đề nhất định nào đó thì họ thường có trong lòng mình một trong hai sự kỳ vọng sau đây; cũng có khi họ có đồng thời cả hai sự kỳ vọng ấy.
 
Thứ nhất, họ mong được ai đó chứng quyết cho họ rằng quyết định như thế này hay thế kia là đúng. Là nhà lãnh đạo, họ có bổn phận phải ra quyết định và họ cũng có trách nhiệm phải ra quyết định nhưng họ không dám tự thân đưa ra quyết định. Sự yếu kém này của họ dẫn đến sự mất sức cho cả cơ quan, như vậy là về bản chất họ là “đỉa” của cơ quan. Bên cạnh đó, bệnh của họ là bệnh do dự và điều ấy khiến cho họ trở nên một đặc chủng trong cơ quan với tên gọi “đỉa lãnh đạo do dự”.
 
Thứ hai, chẳng những hạng lãnh đạo này mong được có người chứng quyết cho về tính đúng đắn của một quyết định phải ra cho một vấn đề nhất định trong cơ quan, họ còn mong có ai đó là người sẽ hứng lấy trách nhiệm đối với sự thất bại của quyết định mà họ sẽ ra. Đối với hạng lãnh đạo này, có người giúp chứng quyết nhưng chưa có người giúp gánh vác trách nhiệm thì chưa chắc họ đã dám ra quyết định. Dầu rằng được nắm giữ cương vị lãnh đạo nhưng họ đã thất bại trong việc thêm sức cho cơ quan, trái lại họ đã làm mất sức của cơ quan bằng sự kém cõi của mình.
 
Dưới ánh sáng của các nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo chân chính, một khi nhà lãnh đạo cứ luôn ở trong một trạng thái do dự không dám đưa ra quyết định lãnh đạo cách dứt khoát mà phải nhờ vào sự chứng quyết của người khác và phải chờ người khác chịu trách nhiệm cho mình thì chức phận lãnh đạo của hạng này chẳng mấy ích dụng,  họ không phải là nhà lãnh đạo chân chính mà chỉ là một loại “đỉa lãnh đạo bất định” trong cơ quan.
 
Loại Thứ Sáu:
“ĐỈA LÃNH ĐẠO MIỆNG LƯỠI”
 
Người ta thường nói loại lãnh đạo “miệng lưỡi” có miệng dài hơn tay vì họ chỉ chuyên nói chứ không giỏi làm. Đương nhiên là một nhà lãnh đạo phải thành thạo về lý thuyết nhưng nói nhiều không đồng nghĩa với việc thành thạo lý thuyết; chỉ có người làm được nhiều và hiệu quả mới tự chứng được rằng mình là người già dặn về lý thuyết và giỏi dang trong thực hành.
 
Có một loại lãnh đạo là người mà từ việc nhỏ cho đến việc lớn họ chẳng làm được việc nào hết nhưng họ luôn có thừa mứa miệng lưỡi để biện hộ cho sự bất năng của mình. Đối với hạng người này, tất cả các thất bại của họ đều có nguyên nhân khách quan, đều do điều kiện khách quan mà ra cho nên họ không phải chịu trách nhiệm gì cả.
 
Dầu vậy, trước các thất bại của người khác thì hạng lãnh đạo này thường có những sự lập luận rất “trôi chảy” để buộc tội. Đối với hạng lãnh đạo này thì mọi thất bại của người khác đều có nguyên nhân chủ quan, đều do điều kiện chủ quan mà ra cho nên họ không phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.
 
Loại lãnh đạo “miệng lưỡi” còn có một tật xấu khác là họ rất căm ghét những người được khen. Từ trong tấm lòng những nhà lãnh đạo loại này tự cho mình là giỏi nhất, ngoài họ ra chẳng có ai đáng được khen. Khi một cơ quan được lãnh đạo bằng một kẻ miệng lưỡi như thế thì hiện tượng dua nịnh cũng diễn ra rất rõ trong cơ quan từ đó cả cơ quan sống và làm việc trong một thế giới “ảo”, không có sức mạnh thật để đáp ứng thực tiễn khách quan.
 
Dưới ánh sáng của các nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo chân chính, một khi nhà lãnh đạo chỉ giỏi trên miệng lưỡi chứ không thành công trong hành động thì cơ quan cũng sẽ thiếu sức sống, không ích dụng cho các nhu yếu tất yếu, người ấy không phải là nhà lãnh đạo chân chính mà chỉ là một loại “đỉa lãnh đạo miệng lưỡi” trong cơ quan.
 
Loại Thứ Bảy:
“ĐỈA LÃNH ĐẠO GIÀNH GIẬT”
 
“Đỉa lãnh đạo giành giật” là một ngữ danh từ đáng được gán cho một hạng lãnh đạo có thể gặp trong cơ quan mà đặc điểm của họ là họ chỉ làm những gì có lợi nhất cho bản thân họ mà thôi. Có vẻ như nguyên lý về chân lý đối với loại lãnh đạo này là “chân lý là cái có lợi” vì họ rất tập trung trong việc theo đuổi chữ “lợi”.
 
Đối với hạng lãnh đạo này thì câu hỏi quan trọng nhất trước khi ra một quyết định là “bản thân sẽ được lợi gì, lợi như thế nào, lợi bao nhiêu...”. Khi câu hỏi này chưa được giải đáp thì họ chưa làm gì cả. Hơn thế nữa, dầu cho câu hỏi này có được giải đáp nhưng phần lợi của họ không cao, hay tiềm ẩn sự rủi ro, thì cho dầu quyết định của họ có đem lại cho cơ quan lợi ích lớn như thế nào đi nữa họ vẫn không làm.
 
Trong các nhà lãnh đạo này cũng có một số đặc điểm tâm lý học đặc thù khá thú vị. Chẳng hạn như họ có một kế hoạch mà họ cho là tốt cho một dự án nào đó thì thôi đừng mong rằng trong cơ quan sẽ còn có ai khác có thể đề xuất được bất cứ một kế hoạch nào khác mà được chấp nhận. Tính chất giành giật trong hạng lãnh đạo này thật sự là ghê gớm: Vì lợi ích ích kỷ của mình hạng lãnh đạo này sẽ triệt hạ tất cả mọi đối thủ cạnh tranh và tiềm năng.
 
Một đặc điểm tâm lý học đặc thù khác của hạng lãnh đạo này là họ luôn muốn nhận được sự khuyến khích và khen ngợi từ mọi người. Vì bản thân thì chỉ biết mưu lợi cho mình cho nên hạng người này cần được một sự bảo an rằng mọi việc cho họ đều ổn mà dấu hiệu là ai nấy đều thuận theo.
 
Thế nhưng đặc điểm tâm lý học đặc thù đáng sợ nhất của hạng lãnh đạo này là họ là những người có máu đâm lén sau lưng người khác. Để thủ lợi họ sẵn sàng thủ ác bằng bất cứ thủ đoạn nào. Nếu điều kiện trong cơ quan cho phép họ sẽ vận dụng uy quyền của mình để tổ chức nhân sự kềm chế lẫn nhau mà họ là người cuối cùng có khả năng khống chế mọi sự kềm chế.
 
Dưới ánh sáng của các nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo chân chính, một khi nhà lãnh đạo chỉ chuyên giành giật cho lợi ích ích kỷ của bản thân thì họ tự biến mình thành tác nhân tạo suy yếu cho cơ quan, họ không phải là nhà lãnh đạo chân chính mà chỉ là một loại “đỉa lãnh đạo giành giật” trong cơ quan.
 
“Đỉa” là “đỉa”, cho dầu đó là “đỉa cơ quan” hay “đỉa lãnh đạo” của cơ quan thì cũng đều có hại cho cơ quan. Một khi cơ quan có “đỉa” thì phải có quyết sách diệt “đỉa”, nhất thiết không được thỏa hiệp với “đỉa”. Kinh nghiệm xương máu về lãnh đạo cho biết rằng chỉ cần một con “đỉa” trong cơ quan cũng đủ làm cho cả cơ quan đi từ chỗ mất sức đến kiệt sức. Phận sự diệt “đỉa” của nhà lãnh đạo là một phận sự lãnh đạo để bảo đảm rằng cơ quan không mắc bệnh ký sinh và cũng không có ký sinh trùng gây bệnh. Để có thể hoàn thành được phận sự ấy nhà lãnh đạo phải có một tầm nhìn khoa học bao quát cả hệ thống để có thể chẳng những tìm ra “đỉa” trong phân hệ chịu lãnh đạo mà còn thấy được trong phân hệ lãnh đạo, kể cả bản thân nhà lãnh đạo, có “đỉa” hay không có “đỉa”.
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
3_Để_nhận_diện_Đỉa_lãnh_Đạo.pdf
File Size: 482 kb
File Type: pdf
Download File


“BIỆN GIẢ & BIỆN ĐỀ”

1/7/2019

 
Picture
ĐỂ DIỆT TRỪ “ĐỈA” TRONG CƠ QUAN
“Riêng tặng HMĐ.
là người mà nếu Chúa đẹp ý 
thì sẽ phải tiếp tục trọng trách trên vai Anh hiện nay.”​
Trong khoa học về lãnh đạo cũng cần nên có sự nghiên cứu về “đỉa cơ quan”, tức về một loại đối tượng trong phân hệ chịu lãnh đạo mà đặc điểm của họ là “tồn tại không phải để ban cho mà là để nhận lãnh”, là “cướp giết và hủy diệt” bằng con đường hút đến cạn kiệt máu sống của một cơ quan, cơ quan hiểu theo nghĩa rộng, khiến cho cơ quan phải gặp sự rối loạn, biến loạn, thậm chí là sự tan vỡ.
 
Tất cả những ai đã từng kinh qua chức phận lãnh đạo cơ quan đều có kinh nghiệm  về “đỉa cơ quan” mặc dầu lắm lúc và lắm người đã không thể có được một sự nhận thức về nó như đáng ra phải có. Sự phát sinh, tồn tại, và phát triển của “đỉa cơ quan” gắn chặt với một qui luật khách quan mang tính tất yếu, đó là “Luật Về Đỉa Cơ Quan”. Luật về “đỉa cơ quan” có thể được hiểu một cách khái quát như sau: Con đỉa là một sinh vật chỉ sống bám vào sự sống của các sinh vật khác cho nên, tương tự như vậy, “đỉa cơ quan” hút đến cạn sức sống của người khác trong cơ quan khiến cho cơ quan phải lâm vào cảnh ngày càng khó hơn.
 
Tương tự với việc có các đặc điểm tâm lý học đặc thù, “đỉa cơ quan” cũng có cho mình các đặc điểm hành vi học đặc thù. Chúng ta phải sáng suốt, cẩn thận trong việc tự mình tra xét mình vì rất có thể các đặc điểm tâm lý học và hành vi học đặc thù của “đỉa cơ quan” lại nghiệm đúng trên chính bản thân chúng ta ở một mức độ nào đó! Bất kể chúng ta là ai và chúng ta tự cho mình là gì, nếu các đặc điểm tâm lý học và hành vi học đặc thù của “đỉa cơ quan” có ở con người chúng ta thì đó là một sự tố giác về bản chất “đỉa” ở chúng ta! Dưới đây là bốn dấu hiệu hành vi học căn bản của “đỉa cơ quan”:
 
Dấu Hiệu Thứ Nhất: “Hay Kẻ Vạch Đối Với Khuyết Nhược Điểm Của Người Khác”
 
Khi nhắc đến tên của một người nào đó thì điều đầu tiên hiện ra trong tâm trí của “đỉa cơ quan” là các nhược điểm, thất bại, vi phạm, tội lỗi,... của người ấy. “Đỉa cơ quan” chỉ biết chê bỏ người khác, họ không bao giờ biết thưởng thức nhân cách và các giá trị nhân bản của người khác. Đối với các “đỉa cơ quan”, mọi người đều kém hơn họ, đều không xứng đáng được tôn trọng, đều có các khuyết, nhược điểm không thể dung thứ được.
 
Dấu Hiệu Thứ Hai: “Không Thành Thạo, Giỏi Giang Về Bất Cứ Việc Gì”
 
Đỉa sống bằng cách hút máu của các sinh vật khác, nó không cần phải làm việc để sống cho nên nó cũng không biết làm bất cứ việc gì ngoài việc hút máu. “Đỉa cơ quan” cũng có một nếp sống tương tự như vậy: Họ không thành thạo, giỏi giang về bất cứ việc gì, việc duy nhất mà họ quan tâm và rắp tâm là bòn rút từ lãnh đạo và, nếu có thể, từ đồng sự trong cơ quan. Thật ra, khi nhìn sâu vào đời sống gia đình và bè bạn của các “đỉa cơ quan” người ta cũng thấy được dấu hiệu của triết lý sống bám của họ; họ là một loại người khá vô dụng nhưng rất có máu lợi dụng. Nhìn bề ngoài thì có vẻ như họ quí trọng thân thuộc, bằng hữu mình nhưng kỳ thật thì ấy chỉ là thủ đoạn ràng buộc mọi người cho lợi ích ích kỷ của họ mà thôi.
 
Dấu Hiệu Thứ Ba: “Chuyên Từ Chối Và Tự Biện Hộ”
 
Lãnh đạo cơ quan không thể kỳ vọng được mấy vào việc phân công cho các “đỉa cơ quan” vì họ không bao giờ có đủ năng lực để hoàn thành công việc được giao. Từ trong bản chất “đỉa cơ quan” không hề sẵn sàng trên phương diện năng lực cho bất cứ nhiệm vụ nào. Trên phương diện ý thức, “đỉa cơ quan” rất quan tâm đến những “nhiệm vụ” nào giúp củng cố cho địa vị, tính hiệu quả, và sự an toàn cho việc hút máu của họ. Cách quan tâm này của họ cũng không có tính chất lành mạnh vì họ không nhắm đến việc hoàn thành công tác của cơ quan. Từ sâu thẳm của đáy lòng, “nhiệm vụ” trong tâm thức của của “đỉa cơ quan” chỉ là “phi vụ” thu xếp sao cho họ hoặc được thăng tiến, hoặc được an toàn mà thôi. Nếu một nhiệm vụ nào đó của cơ quan có thể ảnh hưởng bất lợi cho các “đỉa cơ quan” thì họ sẽ thực hiện một hoặc nhiều “phi vụ” sẵn sàng dập tắt với những sự biện hộ dễ khiến cho những người hời hợt tin là hữu lý. 
 
Dấu Hiệu Thứ Tư: “Tự Cho Mình Là Biết Hết Và Giỏi Nhất”
 
Các “đỉa cơ quan” luôn luôn tỏ ra họ là những người “biết hết” và “giỏi nhất”. Tại sao? Ấy là vì họ phải sống triền miên trong một nỗi lo sợ thường xuyên: Lo sợ về việc họ sẽ bị hoán vị. Một khi cơ quan “có đỉa” thì nỗi sợ vừa nói là nỗi sợ không phải chỉ có bên phía “đỉa” mà cũng còn là mối bận tâm của nhà lãnh đạo nữa. Sau khi nhận thức được đâu là “đỉa” và nó đang chiếm lĩnh vị trí, vai trò nào trong cơ quan thì các nhà lãnh đạo đều phải đối diện với một câu hỏi lắm khi không có câu trả lời: Làm thế nào hoán vị cho “đỉa” mất ưu thế để cơ quan thôi bị mất máu, khỏi phải cạn kiệt sức sống. Về phía “đỉa”, nỗi sợ bị “hất chân” là nỗi ám ảnh lớn nhất cho nên đối với các “đỉa cơ quan” thì mối bận tâm lớn nhất là viễn cảnh bị thay thế. Chính đó là động cơ sâu xa của việc “đỉa cơ quan” luôn muốn làm cho ai nấy đều tin rằng chỉ có họ mới là những người “biết hết” và “giỏi nhất” mà không ai khác trong cơ quan có thể thay thế họ được.
 
Trong thực tiễn, các đặc điểm đặc thù về tâm lý học phối hợp với các đặc điểm đặc thù về hành vi học khiến hình thành trong cơ quan các loại “đỉa cơ quan” khác nhau. Thật ra, theo bản chất của qui luật hình thành con người trong xã hội, mỗi “đỉa” đều thường có các dấu hiệu của các “đỉa” khác. Điều khiến cho chúng ta có thể phân biệt các “đỉa cơ quan” theo loại được ấy là nhờ có sự ưu thế của một tính chất nào đó trong nhân cách mà các “đỉa” có trong một cơ quan. Người ta thường thấy...

Loại Thứ Nhất: “Đỉa Căm Hận”

​Tính chất nổi trội trong tính cách của loại “đỉa” này là lòng căm hận của nó rất lớn khiến cho đời sống của nó có đặc điểm của một đời sống trả thù. “Đỉa căm hận” cưu mang lòng căm hận đối với mọi sự chống nghịch các tham muốn ích kỷ của nó hoặc không ủng hộ các tham muốn ích kỷ của nó cả trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Về sự trả thù, các mối căm hận quá khứ luôn “mới tinh” trong ký ức của các “đỉa căm hận”, còn đối với các oán cừu của hiện tại hay các oán cừu tiềm năng cho tương lai thì không cần phải nói. Trong tấm lòng của các “đỉa căm hận” chỉ có sự cưu oán chứ không có sự hàm ân: Họ nhất quyết báo phục đối với oán cừu quá khứ, trừng trị đối với oán cừu hiện tại, và ngăm đe đối với oán cừu tương lai bất chấp người mà họ báo phục có thi ân cho họ đến mức nào cũng mặc. Đối với các “đỉa căm hận” thì oán cừu giống như chất dung môi cho tấm lòng của họ. Bước vào mối tương giao với “đỉa căm hận” là bước vào sự trả giá cho lòng căm hận của họ.
 
Loại Thứ Hai: “Đỉa Bất An” 

​Tính chất nổi trội trong tính cách của “đỉa bất an” là cảm thức thiếu an toàn đối với “sự nghiệp” hút máu của họ trong cơ quan. Trong một cách như thế nào đó và trong một chừng mực như thế nào đấy các “đỉa bất an” luôn cảm thấy thiếu an toàn về địa vị, về phương thức, và về tương lai. Về địa vị “hút máu”, họ cảm thấy nó quá lộ liễu và đang bị lung lay, rất dễ bị thay thế, hất đổ, hay trừ diệt và vì vậy mà họ trở nên bất an. Về phương thức “hút máu”, họ có cảm giác như chung quanh ai cũng thấy, ai cũng biết, và ai cũng ghét họ cả và vì vậy mà họ lo sợ. Về tương lai, các “đỉa bất an” không dám tin chắc là nó sẽ ra thế nào cho nên họ hoang mang. Bất an, lo sợ, hoang mang là những trạng thái có thật trong các “đỉa bất an” và chính những điều này sẽ có thể biến họ thành ra một loại “đỉa” khác: Họ có thể trở thành “đỉa trả thù” hay “đỉa phản trắc” tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
 
Loại Thứ Ba: “Đỉa Phản Trắc” 

​Tính chất nổi trội trong tính cách của “đỉa phản trắc” là do việc thiếu lòng trung thành đem lại. Trên phương diện đặc điểm đặc thù tâm lý học thì “đỉa cơ quan” có đặc điểm giả bộ: Trong quan hệ liên thân vị họ không thật thà mà chỉ là giả dối, lòng trung thành là điều không hề có ở họ. Chính đó là điều khiến cho trên phương diện đặc điểm đặc thù hành vi học các “đỉa phản trắc” sẵn sàng có hành vi phản trắc trong mọi mối quan hệ liên thân vị. Những người theo đuổi triết lý “sống bám” luôn luôn là những con người bạc nghĩa vì vốn họ là những kẻ vô ơn xem người khác chỉ là phương tiện sống cho mình. Mong có được lòng trung thành ở các “đỉa phản trắc” cũng giống với việc mong múc được một cốc nước trong trên một dòng sông đục. Trên phương diện thực tiễn thì sự phản trắc của các “đỉa phản trắc” diễn ra theo một sự nhận thức nào đó để cải thiện tình hình của họ và cho họ: Hoặc để trả thù, hoặc để được an toàn hơn.
 
Việc các nhà lãnh đạo cơ quan gặp khó với các “đỉa cơ quan” là một sự tất yếu khách quan, muốn hay không muốn họ cũng phải đối diện với một nhu yếu thực tiễn là loại bỏ cho được các “đỉa” đang hút máu để cứu cơ quan khỏi tình trạng bị mất máu, kiệt sức. Tùy tình hình cụ thể mà nhà lãnh đạo sẽ chọn lựa các phương pháp sao cho phù hợp nhất để đem lại hiệu quả cao nhất. Cũng có một số các nguyên tắc mà nhà lãnh đạo phải thủ đắc cho được tinh hoa của chúng và quán triệt chúng cách nhuần nhuyễn, tự nhiên...
 
Thứ nhất, phải nhận định rằng chỉ cần một con “đỉa” cũng đủ làm kiệt sức của cả một tập thể.
Thứ hai, phải nhận thức rằng phận sự của nhà lãnh đạo là phải bằng mọi cách giữ cho cơ quan không có “đỉa”.
Thứ ba, phải nhận chân cho được cơ quan có hay không có “đỉa” và đâu là “đỉa” hiện có, đã có, và có thể có.
Thứ tư, phải ngăn chặn sao cho “đỉa” không dễ dàng hoạt động được. 
Thứ năm, phải mạnh dạn đối với việc ra các quyết định hay thực hiện các biện pháp khó để diệt trừ “đỉa”.
Thứ sáu, phải theo dõi sát sao về hiệu quả diệt “đỉa” và có biện pháp bổ sung, bổ cứu kịp thời, tránh không cho “đỉa” phân thân, tái tạo được.
 
Diệt “đỉa” trong cơ quan là khó khăn và lắm khi nhà lãnh đạo phải trả giá cho việc diệt “đỉa” của mình ở những hình thức và mức độ không thể nào lường trước được. “Đỉa cơ quan” là một sự ác trong cơ quan, làm ngơ đối với sự ác là dung dưỡng sự ác khiến cho nó ngày càng ác hơn; vô hình trung thì một nhà lãnh đạo như vậy là một nhà lãnh đạo trưởng ác. “Đỉa cơ quan” là một kẻ thù quá mức tai hại đối với cơ quan vì chúng dễ dàng làm cho cơ quan bị cạn sinh lực cách chắc chắn, nếu không chịu diệt đĩa đầy đủ và thỏa đáng thì nhà lãnh đạo chỉ còn là một kẻ đồng lõa với “đỉa”, nhiên hậu chỉ còn là một kẻ phản bội mà thôi!
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
2_Để_diệt_trừ_Đỉa_trong_cơ_quan.pdf
File Size: 324 kb
File Type: pdf
Download File


“BIỆN GIẢ & BIỆN ĐỀ”

26/6/2019

 
Picture

ĐỂ NHẬN DIỆN “ĐỈA” TRONG CƠ QUAN
“Riêng tặng HMĐ.
là người mà nếu Chúa đẹp ý

thì sẽ phải tiếp tục gánh nặng trên vai Anh hiện nay.”​

Những khủng hoảng trầm trọng nhất trong một cơ quan luôn luôn là những khủng hoảng khiến tiêu hao sức sống dẫn đến sự cạn kiệt về đời sống cơ quan. Loại khủng hoảng này thường xảy ra do cơ quan có “đỉa” trong phân hệ chịu lãnh đạo, tức giữa vòng những người chịu sự lãnh đạo của hệ lãnh đạo của cơ quan. Đây là một biến tướng của chứng xuất huyết nội. Căn bệnh mất máu do cơ quan có “đỉa” hút máu từ bên trong này chỉ có thể điều trị được nếu “đỉa” được gỡ bỏ ra khỏi cơ quan cách triệt để. Thế nhưng điều kiện đầu tiên để có thể gỡ bỏ “đỉa” là nhà lãnh đạo phải nhận diện cho được “đỉa”. “Đỉa” khá đa dạng nhưng điều may mắn là “đỉa” luôn có các đặc điểm đặc thù của chúng khiến cho việc nhận diện chúng không quá khó.
 
 
Đặc Điểm Thứ Nhất:
“ĐỈA” LUÔN LUÔN ĐÒI HỎI 

​Đây chính là loại người mà càng được cho nhiều thì lại càng đòi nhiều thêm. Kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo cơ quan cho thấy “đỉa” không bao giờ thỏa lòng với những gì mà nhà lãnh đạo đã làm cho nó. Trong cuộc tương liên thường ngày người ta thấy “đỉa” thường lầm lì và hay rên rỉ. Phần lớn các trường hợp tương liên với “đỉa” kết thúc bằng việc “đỉa” đổ lỗi cho nhà lãnh đạo là đã không hoàn thành được phận sự phải chăm sóc “đỉa” theo sự đòi hỏi vô tận của “đỉa”, là “thiếu yêu thương”, là “không có đời sống”... “Đỉa” thường nhân danh “tập thể” để buộc tội nhà lãnh đạo là vô trách nhiệm. “Đỉa” cũng thường công kích sự cương trực của nhà lãnh đạo bằng chiêu bài hiệp một vô nguyên tắc.
 
“Đỉa” không bao giờ có tinh thần “bánh ít trao đi bánh quy trao lại”. Vì “đỉa” chỉ biết nhận lãnh chứ không bao giờ biết ban cho cho nên việc một nhà lãnh đạo cứ mãi đáp ứng các sự đòi hỏi trong chuỗi đòi hỏi vô tận của “đỉa” thì ấy là lỗi của nhà lãnh đạo.
 
 
Đặc Điểm Thứ Hai:
“ĐỈA” LUÔN TRÚT ĐỔ SỰ THỊNH NỘ ĐIÊN DẠI CỦA MÌNH LÊN NGƯỜI KHÁC
KHI SỰ ĐÒI HỎI CỦA “ĐỈA” KHÔNG ĐƯỢC ĐÁP ỨNG

 
Trong thực tiễn lãnh đạo, các nhà lãnh đạo không biết nhìn xa trông rộng vẫn thường hay chìu ý của bọn “đỉa” hí hố, mong rằng chúng sẽ bớt nhố nhăng. Có những nhà lãnh đạo dám xem đó là cách xử sự khôn ngoan, thích hợp. Chẳng hạn, khi có người bày tỏ sự quan ngại đối với vấn đề thì họ bảo: “Phải làm như vậy thôi, chẳng còn cách nào hay hơn đâu. Không chìu chúng, chúng sẽ quậy nát bét hết!”
 
Quậy phá cho đến hư nát là đặc điểm của “đỉa cơ quan”: Chúng “quậy” cho được những điều chúng muốn và chúng “quậy” nhiều hơn khi không được những điều chúng muốn; và mối quan hệ với các “đỉa” luôn luôn kết thúc bằng một sự đổ lỗi hoàn toàn cho nhà lãnh đạo, mong rằng nhờ đó mà chúng sẽ có được những diều chúng muốn.
 
Thật ra thì vấn đề cho mối quan hệ giữa một nhà lãnh đạo với “đỉa” không phải là “liệu nó có bị đổ vỡ hay không” mà là “khi nào thì nó sẽ đổ vỡ”. “Đỉa” thì biết nhưng cố tình làm ra không biết vì không có lợi cho chúng nhưng nhất thiết nhà lãnh đạo phải biết điều này: Chỉ có “đỉa” mới chung chạ với “đỉa” để kiếm chác chứ còn những người khác trong cơ quan ai cũng đều không muốn sống chung với “đỉa” cả vì họ không muốn bị hút máu đến kiệt sức, sức của họ cũng như sức của cả cơ quan. Ai trong cơ quan cũng đều biết về xu hướng quậy phá không tưởng tượng nổi của “đỉa” nhưng không ai chịu nổi sự quậy phá của “đỉa”, họ không chấp nhận, họ muốn thấy một sự xử lý rốt ráo nhất và sớm nhất đối với vấn đề.
 
Đĩa thì sợ nhưng nhà lãnh đạo phải nhất thiết không được sợ điều này: Vận dụng mọi tình huống và, nếu có thể được, tạo cơ hôi để đặt “đỉa” trước các sự mời gọi, thách thức để họ tự nhận diện mình. Để đạt được các mục đích ích kỷ của mình các “đỉa” thường xuyên dùng các thủ thuật lôi kéo để lợi dụng. Các “đỉa” quen dối gạt người khác cho nên cũng dần dần bị rơi vào trạng thái tự lừa dối mình. Các “đỉa” thường bị rơi vào một tâm thế ảo: Họ bị khinh những lại nghĩ rằng mình được tôn vinh, họ tưởng mình được nể nang trong khi họ bị chê chán, họ cho rằng những gì họ có là xứng đáng nhưng thật ra dưới mắt của mọi người thì ấy chỉ là của nhờ cướp mà có. Việc đem đến cho “đỉa” cơ hội để nhìn lại chính mình không luôn luôn bảo đảm được về một sự ăn năn ở “đỉa” nhưng lại là điều mà nhà lãnh đạo phải làm trước khi ra quyết định cuối cùng để gỡ bỏ “đỉa”.
 
 
Đặc Điểm Thứ Ba:
“ĐỈA” RẤT THÀNH THẠOTHỦ ĐOẠN GIẢ BỘ HẠ MÌNH ĐỂ ĐÓNG VAI NÔ TÀI
 
Nếu một người quang minh chính đại mà phải ở giữa một đám vô lại thì, chẳng chóng thì chầy, người ấy cũng sẽ bị đám người kia hãm hại. Khi bám được một sinh vật có máu để hút thì đỉa luôn thít chặt cả hai vòi vào da nạn nhân, tiết ra chất chống đông máu tại vết hút, và sẽ hút máu của nạn nhân một cách rất chuyên nghiệp và chuyên cần. Nếu một người đứng trong một vũng nước dày đặc những đỉa và bị chúng bu bám ngày càng nhiều hơn thì không thể nói rằng người ấy đang ở trong trạng thái an toàn vì đỉa bám không phải để hôn hít mà là để hút hít máu của người ấy, và đỉa không bao giờ biết no. Các nhà khoa học cho biết rằng khi cơ thể không còn khả năng dung nạp máu được hút nữa thì nó cũng đồng thời mất năng lực hút tạm thời chứ không hề có một cơ chế no máu khiến cho đỉa chủ động ngưng hút. Khi một con đỉa căng máu bị rơi ra từ vết hút thì miệng nó (ở hai đầu vòi) vẫn cứ còn tiếp tục tiết ra chất chống đông máu!
 
Các “đỉa” trong cơ quan cũng có chất chống đông máu để việc hút máu của chúng được tự nhiên, thuận tiện: Đó chính là thủ đoạn giả bộ hạ mình để, nếu cần, đóng vai nô tài đắc lực mà tiếp cận nhà lãnh đạo nhanh nhất, sát nhất. Sự bám sát lãnh đạo của “đỉa cơ quan” là để chúng cài đặt một hệ thống hút máu cơ quan càng tự nhiên càng hay, càng thuận tiện càng tốt. Đỉa thít thật chặt các vòi hút của mình vào da nạn nhân, “đỉa cơ quan” cũng thít chặt các vòi hút của mình vào cơ quan bằng mọi thủ đoạn có thể đối với chúng và có lợi cho chúng.
 
Đối với “đỉa cơ quan” thì nhà lãnh đạo cơ quan luôn bị chúng bu bám mà các thủ đoạn của chúng thì thiên hình vạn trạng cho nên sự nhận thức của nhà lãnh đạo đối với thực tiễn khách quan dễ trở nên rối loạn khiến ảnh hưởng sâu sắc đến kế hoạch hành động cũng như các quyết định được đưa ra. Trong một tình hình như vậy thì điều kiện tiên quyết để nhà lãnh đạo giữ vững được chức phận lãnh đạo của mình là họ phải biết rằng cơ quan mà mình đang lãnh đạo có “đỉa”, và họ phải tin rằng mối tương tác giữa nhà lãnh đạo với “đỉa” không bao giờ là mối tương tác hợp tác thực sự. Mối tương tác giữa nhà lãnh đạo cơ quan với “đỉa cơ quan” thật ra là mối tương tác có bản chất đấu tranh (chứ không phải là cạnh tranh), có mục tiêu giành thắng lợi (chứ không phải hai bên cùng có lợi), và có mục đích phát triển cơ quan vững mạnh (chứ không bị mất máu, kiệt sức). Một khi cơ quan có “đỉa” thì lập tức nhà lãnh đạo phải kiên định về đấu tranh, kiên quyết về thắng lợi, và kiên trì về phát triển tiến lên. Tất cả những điều vừa nói không phải chỉ để nói cho kêu mà là để làm cương lĩnh hành động cho nhà lãnh đạo cơ quan, bất kể đó là cơ quan ngoài đời hay trong đạo.
 
Đối với một nhà lãnh đạo thì việc gỡ bỏ các loại “đỉa” trong cơ quan mình là một trong những việc khó nhất mà họ phải đối diện vì các đặc điểm đặc thù trong phản ứng của “đỉa cơ quan”. Đó là chúng rất hung hãn và dai dẳng trong việc chống phá và trả thù. Mọi sự đều có nguyên tắc và phương pháp riêng cho mình, và việc gở bỏ “đỉa cơ quan” cũng đòi hỏi nhà lãnh đạo phải có các bước đi đầy đủ và thỏa đáng mà bước đầu tiên là phải biết nhận diện cho được “đỉa cơ quan” trong cơ quan của mình.
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)
1_Để_nhận_diện_Đỉa_trong_cơ_quan.pdf
File Size: 390 kb
File Type: pdf
Download File


“BIỆN GIẢ & BIỆN ĐỀ”

2/6/2019

 
Picture
"  ...Như vậy, tôn trọng mọi người là phận sự của chúng ta
còn việc có được sự kính trọng của chúng ta hay không thì đó là việc của họ.
Khi đời sống của một người, bất kể người đó là ai,
tỏ ra cho thấy là không còn chịu tuân theo những mẫu mực phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời
thì ấy là lúc họ tự đánh mất giá trị của mình.
Kinh Thánh xem những người như vậy là người đang trong trạng thái ngủ về thuộc linh
mà chỉ duy nhất Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ
mới có thể thay đổi được họ khi họ chịu để cho Ngài thay đổi họ!...
"


(Rev. Đoàn Nhật Tân, PhD)

​“CHÂN GIÁ TRỊ, GIÁ TRỊ, VÀ Ý CHỈ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỐI VỚI CHÚNG TA”
Cơ Đốc Nhân chúng ta lắm khi còn mơ hồ về những vấn đề như nhờ đâu con người được kể là tạo vật cao trọng hơn hết trong thế giới thọ tạo của Đức Chúa Trời, vì sao chúng ta phải tôn trọng tha nhân bất kể hiện trạng của họ là như thế nào, có hay không trường hợp mà một người nào đó có thể không được kính trọng, phải như thế nào để chúng ta biết tôn trọng và được tôn trọng nhiều hơn, phải như thế nào để chúng ta biết kính trọng và được kính trọng nhiều hơn,... Tất cả những vấn đề này sẽ không được hiểu biết đầy đủ và thỏa đáng mà có thể thiếu một sự hiểu biết về chân giá trị (dignity) và giá trị (value) của con người theo Kinh Thánh. 
​
Phạm trù “chân giá trị” (dignity) được Kinh Thánh đề cập dưới nhiều hình thái khác nhau, định danh hoặc bất định danh, nhưng không hề được nhấn mạnh như một chủ đề thần học Kinh Thánh...
“Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười.” (Châm. 31:25)
“Còn điều răn thứ hai đây, cũng như vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình.” (Ma. 22:39; Sv. 37-40)
Trong Châm. 31:25 chân giá trị của “Người Nữ Tài Đức” được định danh: “Oai phong” (Hb. Hb. רדה [hadar]) là một từ liệu nói về cái chân giá trị vốn có của người nữ này. Trái lại, trong Ma. 22:39 thì “chân giá trị” không được định danh dầu vẫn được xác định cách kín đáo: Hãy yêu “như mình”.
 
Tương tự với “chân giá trị”, phạm trù “giá trị” (value) cũng là một phạm trù Kinh Thánh được đề cập dưới nhiều hình thái khác nhau, định danh hoặc bất định danh, nhưng không hề được nhấn mạnh như một chủ đề thần học Kinh Thánh...
“Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười.” (Châm. 31:25)
“Hãy kính mọi người; yêu anh em; kính sợ Đức Chúa Trời; tôn trọng vua.” (1Phi. 2:17)
Ở “Người Nữ Tài Đức” không những chỉ có “chân giá trị” mà cả “giá trị” của nàng cũng được định danh: “Sức lực” (Hb. זע [‘oz]) là một từ liệu nói về sự uy dũng của nhân cách của người nữ này nhờ ở “chân giá trị” của nàng. Trái lại trong 1Phi. 2:17 thì “giá trị” không được định danh dầu vẫn được xác định cách kín đáo: Hãy “kính”, “yêu”, kính sợ”, “tôn trọng”.
 
Dưới ánh sáng của Kinh Thánh, chỉ con người mới có chân giá trị, và chân giá trị của con người đến từ một sự cài đặt ngoại lai của Đức Chúa Trời vào bản chất người khi Ngài  trực tiếp tạo dựng họ:
“[26] Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. [27] Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Sáng. 1:26-27)
Theo góc nhìn của con người đối với Đức Chúa Trời thì “chân giá trị” của con người là một sự thừa thọ căn bản đối với Đức Chúa Trời khiến họ hoàn toàn thuộc về Đức Chúa Trời. Ngược lại, từ góc nhìn của Đức Chúa Trời đối với con người thì “chân giá trị” của con người là một sự chia sẻ cốt lõi về chính chân giá trị của Ngài khiến cho con người có thể được ở trong mối hạnh ngộ vô cùng với chính Ngài. Theo góc nhìn của người đối với người thì người nam và người nữ đều có chân giá trị như nhau và vì vậy mà, về nguyên tắc, tất cả mọi người đều có chân giá trị như nhau. 
 
Khác với “chân giá trị”, phạm trù “giá trị” có thể được dùng để đề cập đến sức mạnh của nhân cách hay qui mô của sự hoàn thành của một người:
“[6] Cũng phải khuyên những người tuổi trẻ ở cho có tiết độ. [7] Hãy lấy mình con làm gương về việc lành cho họ, trong sự dạy dỗ phải cho thanh sạch, nghiêm trang, [8] nói năng phải lời, không chỗ trách được, đặng kẻ nghịch hổ thẹn, không được nói xấu chúng ta điều chi.” (Tít 2:6-8)
Từ liệu “nghiêm trang” (Tít 2:7) trong Tiếng Hy Lạp là Gr. σεμνότης [semnotes] là một từ liệu nói về sự đáng kính có được nhờ việc chịu tuân theo những mẫu mực phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời. Chính “sự đáng kính” này cùng với những sự tương tự như thế làm nên “giá trị” cho một người. Như vậy “giá trị” là sự thể hiện ra qua nhân cách hay qui mô của sự hoàn thành của một người sống theo chân giá trị. Theo sự nhìn nhận của Đức Chúa Trời, khi người ta không còn ở dưới sự ảnh hưởng của chân giá trị thì giá trị của họ cũng không còn:
“Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi.” (Ês. 64:6)
“[22] Họ tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại; [23] họ đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng.” (Rô. 1:22-23)
 
“Người Nữ Tài Đức” trong Châm. 31 được mô tả như một người mặc đầy “chân giá trị” và “giá trị” là hai phạm trù tương quan nhau cách hữu cơ: Chân giá trị càng được nguyên vẹn, càng có hiệu lực tác động cao trên đời sống một người thì giá trị thể hiện ra trên đời sống người ấy càng cao:
“[25] Nàng mặc lấy sức lực và oai phong, Và khi tưởng đến buổi sau, bèn vui cười. [26] Nàng mở miệng ra cách khôn ngoan, Phép tắc nhân từ ở nơi lưỡi nàng. [27] Nàng coi sóc đường lối của nhà mình, Không hề ăn bánh của sự biếng nhác. [28] Con cái nàng chỗi dậy, chúc nàng được phước; Chồng nàng cũng chỗi dậy, và khen ngợi nàng rằng: [29] Có nhiều người con gái làm lụng cách tài đức, Nhưng nàng trổi hơn hết thảy.” (Châm. 31:25-29).
 
Đức Chúa Trời muốn chúng ta tôn trọng (honor) chân giá trị của tha nhân và kính trọng (respect) tha nhân. Tôn trọng và kính trọng là hai phạm trù khác nhau, chúng có thể đi đôi với nhau chứ không nhất thiết sẽ cứ đi đôi với nhau. Nếu một vị quan chức mà có nhân cách quá tồi tàn thì rất khó cho người ta kính trọng vị quan chức ấy (respect); nhưng chức trách của vị quan chức ấy là điều vốn được Đức Chúa Trời ban cho (Sv. Rô. 13:1; 1Ti. 2:2; Tít 3:1) và trở thành một bộ phận trong chân giá trị của vị quan chức ấy thì phải được tôn trọng (honor). Đây là một nguyên tắc Kinh Thánh đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng dầu rằng không thể kính trọng được (Sv. 1Phi. 2:17).
 
Như vậy, tôn trọng mọi người là phận sự của chúng ta còn việc có được sự kính trọng của chúng ta hay không thì đó là việc của họ. Khi đời sống của một người, bất kể người đó là ai, tỏ ra cho thấy là không còn chịu tuân theo những mẫu mực phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời thì ấy là lúc họ tự đánh mất giá trị của mình. Kinh Thánh xem những người như vậy là người đang trong trạng thái ngủ về thuộc linh mà chỉ duy nhất Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ mới có thể thay đổi được họ khi họ chịu để cho Ngài thay đổi họ!
“[8] Vả, lúc trước anh em đương còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng; [9] vì trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. [10] Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, [11] và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn; [12 ]vì dầu nói đến điều mà những người đó làm cách kín giấu, cũng đã là hổ thẹn rồi. [13] Nhưng hết thảy mọi sự đã bị quở trách đều được tỏ ra bởi sự sáng; phàm điều chi đã tỏ ra thì trở nên sự sáng vậy. [14] Cho nên có chép rằng: Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi.” (Êph. 5:8-14)
 
Chân giá trị của chúng ta đến từ Đức Chúa Trời và giá trị của chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta chịu tuân theo những mẫu mực về giá trị phù hợp với chân giá trị của Đức Chúa Trời như thế nào. Nhưng, dầu có như thế nào thì Đức Chúa Trời vẫn muốn Cơ Đốc Nhân chúng ta là người dễ dạy!

(Rev. Đoàn Nhật Tân)
chân_giá_trị_giá_trị___Ý_chỉ_của_Đức_chúa_trời.pdf
File Size: 293 kb
File Type: pdf
Download File


“HÃY MẬT THIẾT HƠN VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI”

1/1/2019

 
Picture



​Suốt vài ngày nay tôi luôn nhận được các tin nhắn với những lời chúc mừng năm mới tốt đẹp; lòng tôi vui và thực sự biết ơn bằng hữu, đồng đạo, đồng lao đã yêu mến tôi đến thế.
Để đáp lại thịnh tình ấy tôi cũng có đôi lời đến bằng hữu, đồng đạo, đồng lao nhân dịp đầu năm 2019 để năm mới này sẽ là một năm an lành, thuận lợi hơn cho quí vị nhờ quí vị có được một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời!

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Việc cố công vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời có lẽ là một việc làm đáng trọng và khôn ngoan hơn hết, và đó là điều chỉ có thể có ở những ai đã thuộc về Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh. Đó cũng là một điều thật sự khó khăn vì để có thể có mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Trời người ta phải đắc thắng được đồng thời ba kẻ thù thuộc linh là sức mạnh của tội lỗi trong bản thân, sự chống đối của thế gian, và sự ngăn cản của Ma Quỉ. Cuộc giao ngộ của Cơ Đốc Nhân với chân thần của họ là Đức Chúa Trời duy nhất thật và hằng sống là một hành trình đắc thắng phước hạnh và gian nan giữa đời ác này.

Để tiến đến một mối quan hệ ngày càng mật thiết với Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh người ta buộc phải ngày càng lạnh nhạt hơn với mọi mối quan hệ khác trong thế gian. “[8] Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ [9] và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải công bình của tôi bởi Luật Pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin…” (Phlp. 3:8-9). Thật ra, đây là một tiến trình sống giữa hai mặt đối lập nhau là tách li thế gian để tận hiến cho Đức Chúa Trời là điều chỉ có thể có được nếu người ta biết sống như người sống lại trong Cứu Chúa của mình là Đức Chúa Jêsus Christ: “…[10] Cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, [11] mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết.” (Phlp.  3:10-11).

 Việc cố công vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời là một linh trình nghiêm túc mang tính kỷ luật rất cao để vượt qua các rào cản phải vượt…

Sức mạnh của tội lỗi nội tại trong bản thân phải được kể là rào cản đầu tiên và lớn hơn hết vì chính đó là điều thường khiến cho Cơ Đốc Nhân phạm tội với Đức Chúa Trời nhiều nhất. Tự thân Cơ Đốc Nhân không đủ sức vượt lên trên rào cản này nhưng may mắn thay là họ đã có Đức Chúa Trời của mình đón sẵn ở đó để nâng họ lên với lời hứa tha tội cho ai biết xưng nhận tội lỗi của mình: “Nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” (1Gi. 1:9). Để vun đáp được mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời thì kỹ năng phải có đầu tiên của Cơ Đốc Nhân là kỹ năng ăn năn và xưng nhận tội lỗi của mình với Ngài. Chính yếu tố “đau thương thống hối” khiến cho sự xưng nhận tội lỗi của Cơ Đốc Nhân được Đức Chúa Trời xm là của lễ đẹp ý Ngài: “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu.” (Thi. 51:17).

Kỹ năng nghe được tiếng phán của Đức Chúa Trời cũng cần thiết cho việc vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Ngài như kỹ năng nói chuyện với Đức Chúa Trời qua việc Cơ Đốc Nhân xưng tội cùng Ngài. Tuy nhiên cần phải khẳng định ngay rằng việc người ta muốn được “nghe” Đức Chúa Trời cách hữu thanh là một việc làm phi Kinh Thánh. Đức Chúa Trời muốn các Cơ Đốc Nhân “nghe” Ngài bằng tai đức tin qua việc tin quyết lời phán của Ngài từ Kinh Thánh chứ không phải bắt Ngài phải phán riêng cách hữu thanh cho từng người theo các nhu cầu bất cập, và lắm khi cũng bất nhất, của họ. Tiếng phán hữu thanh của Đức Chúa Trời để xác nhận Con Ngài là Lời Sống là thẩm quyền của Ngài cho Lời Thành Văn của Ngài trong Kinh Thánh để chúng ta dốc lòng nghe theo cách tin kính: “[18] Chính chúng tôi cũng từng nghe tiếng ấy đến từ trời, lúc chúng tôi ở với Ngài trên hòn núi thánh. [19] Nhân đó, chúng tôi càng tin lời các đấng tiên tri chắc chắn hơn, anh em nên chú ý lời đó, như cái đèn soi sáng trong nơi tối tăm, cho đến chừng nào ban ngày lộ ra, và sao mai mọc trong lòng anh em. [20] Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. [21] Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (2Phi. 1:18-21).

Kỹ năng xưng nhận tội lỗi với Đức Chúa Trời cùng với kỹ năng lắng nghe tiếng phán của Ngài trong Kinh Thánh được lắng đọng trong một dạng thức sinh hoạt thuộc linh Cơ Đốc rất đặc biệt là đời sống cầu nguyện của Cơ Đốc Nhân: Họ sẽ biết cầu nguyện với Đức Chúa Trời như một sự nương cậy Ngài chứ không phải chỉ để nhờ vả Ngài. Dưới ánh sáng của mẫu cầu nguyện mà Đức Chúa Jêsus Christ đã dạy cho chúng ta (Sv. Ma. 6:9-13) thì mối bận tâm chính của Cơ Đốc Nhân khi họ cầu nguyện là ý chỉ Thiên Thượng chứ không phải là lợi ích ích kỷ họ. Ngôn ngữ của sách Thi Thiên là ngôn ngữ cầu nguyện, có đầy những lời cầu nguyện thành tâm của những tấm lòng tin kính để nêu gương cho sự cầu nguyện của chúng ta. Một khi đời sống cầu nguyện của một người được sâu đậm trong sự tự thức về tình trạng bất lực của bản thân và theo sự dầm thấm có được trong lời Kinh Thánh thì hiện tượng tỏa sáng của đời sống người ấy sẽ diễn ra: “[16] Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời. [17] Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha.” (Côl. 3:16-17; Sv. Êph. 5:19).

Cũng chính vì vậy mà mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời khiến cho người ta không thể nào cứ sống khép mình, biệt lập được; trái lại họ có một nhu cần bức thiết về việc được hiệp thông trong một cộng đồng đức tin là Hội Thánh Địa Phương để được gây dựng nhau. Sự thất bại của Hội Thánh Địa Phương trong thực tiễn sinh hoạt của mình đã khiến cho ngày càng có nhiều người hiểu nhầm rằng chỉ có hoạt động thờ phượng Đức Chúa Trời với nhau trong Hội Thánh Địa Phương mới là đáng kể mà thôi. Thờ phượng là nổ lực hướng thượng của Hội Thánh phải được xây dựng cách ưu tiên đồng thời với nổ lực hướng nội và nổ lực hướng ngoại của Hội Thánh là môn đồ hóa và truyền giáo. Để Hội Thánh được vững mạnh cả ba sinh hoạt thờ phượng, môn đồ hóa, và truyền giáo đều phải được vững mạnh. Hội Thánh Địa Phương không phải là nơi cho người ta đến để hưởng lợi theo một cách nào đó từ sinh hoạt thờ phượng. Hội Thánh Địa Phương là một sinh thể ưu việt thuộc thẩm quyền Thiên Thượng, là một kênh ân điển của Đức Chúa Trời để các Cơ Đốc Nhân dâng phần tích cực nhất của mình để gây dựng nhau. Họ là những con người biết xưng nhận tội lỗi của mình với Đức Chúa Trời, biết tìm kiếm lời phán của Ngài, biết nương cậy Ngài hoàn toàn cho nên đời sống họ được tỏa sáng và, cùng nhau trong Hội Thánh Địa Phương, họ tỏa sáng được ngày càng nhiều hơn theo mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời ngày càng mật thiết hơn của mỗi người.

Mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời ngày càng mật thiết hơn của mỗi người nhất thiết phải được thể hiện cách tập trung và cao độ qua đời sống vâng phục Đức Chúa Trời của mỗi người: “Nếu ai yêu mến Ta, thì vâng giữ lời Ta, Cha Ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng Người và ở trong Người.” (Gi. 14:23). Sự vâng phục Đức Chúa Trời là đỉnh cao của cuộc hạnh ngộ giữa một cá nhân với Ngài và đó là biểu hiện của sự hòa hiệp siêu nhiên giữa chủ thể của đức tin với đối tượng của đức tin ngay trên thế gian này. “[7] Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả Ma Quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. [8] Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi; [9] hãy cảm biết sự khốn nạn mình, hãy đau thương khóc lóc; hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. [10] Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên.” (Gia. 4:7-10).

Việc cố công vun đắp một mối quan hệ ngày càng mật thiết hơn với Đức Chúa Trời có lẽ là một việc làm đáng trọng và khôn ngoan hơn hết, và đó là điều chỉ có thể có ở những ai đã thuộc về Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Kinh Thánh. Họ luôn luôn nhiệt thành trong việc xưng nhận tội lỗi của mình với Đức Chúa Trời, tìm cầu lời phán của Ngài trong Kinh Thánh, sống nương cậy Ngài bằng đời sống cầu nguyện, ra sức gây dựng nhau và cùng nhau gây dựng trong Hội Thánh Địa Phương, và thực sự sống vâng phục Ngài.

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)
hãy_mật_thiết_hơn_với_Đức_chúa_trời.pdf
File Size: 402 kb
File Type: pdf
Download File


“ĐẮC THẮNG…”

1/11/2018

 
Picture







​“Chúa Cứu Thế Jêsus càng ngự trị trên đời sống chúng ta nhiều chừng nào thì ưu thế của Ngài, qua quyền năng Đức Thánh Linh, trên toàn bộ con người chúng ta càng đầy trọn chừng ấy…”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Triển vọng đắc thắng trong cuộc chiến cầu nguyện sẽ không đến với chúng ta ngay trong một lúc. Đức Chúa Trời có một sự kiên trì lớn lao đối với con cái Ngài. Ngài chịu đựng sự chậm tiến của chúng ta trong sự kiên trì của Đấng làm Cha. Mỗi con cái của Đức Chúa Trời hãy vui thỏa trong các lời hứa Ngài qua lời Kinh Thánh. Đức tin càng mạnh, chúng ta càng nghiêm túc bền lòng cho đến cuối cùng.
 
Chúa chúng ta phán lời sau đây liên quan đến một đời sống phong phú hơn khi Ngài phán rằng Ngài đã đến để ban sự sống cho chiên Ngài: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật” (Gi. 10:10). Một người có thể có sự sống, tuy nhiên, vì cớ thiếu sự dinh dưỡng hoặc vì sự đau ốm, sự sống của người ấy không được phong phú hoặc không được mạnh mẽ. Đây chính là sự khác biệt giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chắc chắn trong Cựu Ước đã có sự sống, sự sống dưới Luật Pháp, nhưng không có ân điển dư dật của Tân Ước. Chúa Cứu Thế Jêsus đã ban sự sống cho các môn đồ Ngài, nhưng họ đã chỉ có thể nhận lấy sự sống dư dật qua sự phục sinh của Ngài và sự ban cho của Đức Thánh Linh.
 
Mọi Cơ Đốc Nhân chân thực đều đã nhận được sự sống nơi Chúa Cứu Thế Jêsus. Thế nhưng phần đông đều không hiểu được về một đời sống phong phú hơn mà Ngài muốn trao ban. Sứ Đồ PhaoLô đã nói nhiều về phương diện ấy. Vị Sứ Đồ nói về “ân điển dư dật” trên chính đời sống mình: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”, “Tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài làm cho chúng tôi được thắng trong Đấng Christ luôn luôn” , “Chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần”.
 
Chúng ta đã nói về tội thiếu cầu nguyện, về phương thức để được giải thoát khỏi tội ấy, và về làm thế nào để tránh được tội này. Tất cả những gì đã được bàn về những điểm ấy có thể được gồm tóm trong chỉ một lời này của Chúa Cứu Thế: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật”. Thế nên điều quan trọng hơn hết đối với chúng ta là hiểu cho được thêm về sự sống ấy để chúng ta có thể thấy rõ được rằng một đời sống cầu nguyện đích thực không gì khác hơn là chúng ta phải bước đi trong một sự kinh nghiệm tăng tiến chưa từng thấy của một đời sống chứa chan sự sống.
 
Không thể bắt đầu cuộc tranh chiến chống lại sự thiếu cầu nguyện trong sự dựa nương trên Chúa Cứu Thế, trong sự trông đợi nơi Ngài sự giúp đỡ, giữ gìn mà lại đồng thời vẫn cứ còn ở trong trạng thái nhụt chí, nản lòng. Đó chính là trạng thái nhìn sự thiếu cầu nguyện như một tội lỗi mà chúng ta cần phải cố công ra sức chống đỡ. Tự thân trạng thái nhụt chí, nản lòng ấy là một bộ phận của toàn bộ đời sống xác thịt được gắn bó chặt chẽ với các tội lỗi khác vốn được xuất phát từ cùng một nguồn gốc. Chúng ta quên mất rằng toàn bộ xác thịt cùng với mọi ảnh hưởng của nó, cho dầu là hiển thị trong tâm linh hay trong thân xác, phải được kể như đã bị đóng đinh trên thập tự giá. Chúng ta không được phép thỏa mãn với một đời sống yếu đuối mà phải tìm kiếm một đời sống phong phú, dư dật. Chúng ta phải dâng mình hoàn toàn để cho Đức Thánh Linh có thể ngự trị trọn vẹn trên chúng ta để hiển thị ra đời sống phong phú, dư dật ấy hầu cho có thể có được một sự chuyển hóa trong con người thuộc linh của chúng ta, và hầu cho ưu thế tuyệt đối của Chúa Cứu Thế và của Đức Thánh Linh được nhận biết qua đời sống của chúng ta.
 
Vậy thì những sự cấu thành đích thực của đời sống phong phú, dư dật này là gì? Chúng ta không thể cứ lặp đi lặp lại hoặc khởi sự sự sống ấy theo những cách nào khác được, vì sự sống phong phú, dư dật ấy không gì khác hơn là việc Chúa Cứu Thế Jêsus càng ngự trị trên đời sống chúng ta nhiều chừng nào thì ưu thế của Ngài, qua quyền năng Đức Thánh Linh, trên toàn bộ con người chúng ta càng đầy trọn chừng ấy. Một khi Đức Thánh Linh làm cho sự đầy trọn của Chúa Cứu Thế và sự sống của Ngài hiện rõ trong đời sống chúng ta, đời sống ấy hiển thị được Chúa Cứu Thế trên ba phương diện chính:
 
1.      Chúa Cứu Thế Là Đấng Đã Chịu Đóng Đinh Trên Thập Tự Giá.
 
Chúa Cứu Thế Jêsus không phải chỉ thuần túy là Đấng đã chết để chuộc tội cho chúng ta mà Ngài còn là Đấng đem chúng ta đến với Ngài để cùng chết với Ngài trên thập tự giá, và là Đấng hiện nay đang hành động trong chúng ta theo quyền năng của sự chết và của thập tự giá Ngài. Bạn chỉ có mối tương thông đích thực với Ngài khi bạn có thể nói được rằng “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi”. Mọi xúc cảm và khuynh hướng của chúng ta đều phải ở trong Ngài theo như sự hạ mình và vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự, của Ngài. Chính đó là điều Chúa Cứu Thế muốn nói khi Ngài phán về Đức Thánh Linh rằng “Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi” . Đời sống phong phú, dư dật không phải có được bằng công phu luyện tập mà là nhờ ở sự dự phần theo một niềm tin trẻ thơ vào trong sự sống Ngài.
 
2.      Chúa Cứu Thế Là Đấng Đã Được Phục Sinh
 
Kinh Thánh thường đề cập đến sự phục sinh trong mối liên hệ với quyền năng hành dộng diệu kỳ của Đức Chúa Trời nhờ đó Chúa Cứu Thế đã sống lại từ trong cõi chết; và từ đó mà có sự bảo đảm rằng “Quyền vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin, là lớn dường nào, y theo phép tối thượng của năng lực mình, mà Ngài đã tỏ ra trong Đấng Christ, khi khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời” (Êph. 1:19, 20). Đừng vội cho qua những lời này. Hãy quay lại để đọc lại những lời ấy, và hãy học biết bài học lớn ở đây là cho dầu bạn cảm thấy yếu đuối, bất năng đến như thế nào đi nữa thì quyền phép toàn năng của Đức Chúa Trời vẫn cứ hành động được trong bạn; và rằng nếu như bạn chỉ cần tin thôi, thì quyền năng ấy sẽ chia sẻ cho bạn sự phục sinh của Chúa Cứu Thế Jêsus trong cuộc sống mỗi ngày.
 
Quả thật vậy, Đức Thánh Linh có thể đổ đầy cho bạn sự vui mừng và sự đắc thắng của sự phục sinh của Chúa Cứu Thế như quyền năng cho cuộc sống mỗi ngày của bạn ngay giữa những thử thách và cám dỗ của đời ác này. Hãy để thập tự giá hạ thấp bạn cho đến chết. Đức Chúa Trời sẽ đem lại cho bạn một sự sống thiên đàng qua Đức Thánh Linh. Thật chúng ta biết còn quá ít về toàn bộ công việc của Đức Thánh Linh để biến chúng ta thành người dự phần với Chúa Cứu Thế đã chịu đóng đinh và đã được phục sinh, và để biến chúng ta thành ra phù hợp với sự sống và sự chết của Ngài.
 
3.      Chúa Cứu Thế Là Đấng Đã Được Tôn Vinh Hiển.
 
Chúa Cứu Thế đã được tôn vinh hiển của chúng ta là Đấng ban phép báptem bằng Đức Thánh Linh. Khi chính Đức Chúa Jêsus được báptem bằng Đức Thánh Linh ấy là vì Ngài đã hạ mình để nhận báp-tem ăn năn của Giăng, phép báp-tem dành cho tội nhân, dưới sông Giôđanh. Dầu vậy, khi Ngài gánh vác lấy công việc cứu chuộc, Chúa Cứu Thế cũng đã nhận Đức Thánh Linh để bước vào công việc Ngài kể từ giờ phút ấy cho đến khi bước lên thập tự giá Ngài “dâng mình không tì tích cho Đức Chúa Trời” ​. Bạn có muốn rằng Chúa Cứu Thế đã được tôn vinh hiển này sẽ báptem bạn bằng Đức Thánh Linh không? Hãy dâng mình cho Ngài để hầu việc Ngài qua việc làm cho mọi tội nhân hiểu biết về tình yêu của Đức Chúa Cha.
 
Ước mong rằng Đức Chúa Trời giúp cho chúng ta hiểu được rằng nhận Đức Thánh Linh từ nơi Đức Chúa Jêsus đã được tôn vinh hiển là một công việc lớn lao biết dường nào! Điều đó đòi hỏi một sự sẵn lòng, một sự khát khao của tâm linh để làm việc cho Ngài, và nếu cần, để chịu khổ vì Ngài. Bạn đã biết và yêu Chúa, đã làm việc cho Ngài, và bạn cũng đã được ban phước trong công việc ấy; thế nhưng Chúa còn có nhiều hơn thế để trao ban cho bạn. Ngài có thể trao ban nhiều hơn cho bạn, cho anh em, chị em tín hữu chung quanh chúng ta, và cho những người chăn bầy trong Hội Thánh bởi quyền năng của Đức Thánh Linh đến mức lòng chúng ta phải dầy dẫy sự kinh ngạc tột cùng.
 
Bạn đã từng nắm bắt được điều ấy bao giờ chưa? Sự sống phong phú, dư dật không gì khác hơn là sự sống của Chúa Cứu Thế như Đấng đã chịu đóng đinh, như Đấng đã phục sinh, như Đấng đã được tôn vinh hiển là Đấng ban báptem bằng Đức Thánh Linh và bày tỏ chính mình Ngài trong tấm lòng của chúng ta và sống như là Đấng chủ tể trong chính đời sống chúng ta.
 
Có một thành ngữ rằng với lời “Hãy sống như đáng phải sống”. Đừng sống theo nhãn quan con người về những gì khả hữu. Hãy sống trong Lời Đức Chúa Trời, trong tình yêu và sự thành tín vô hạn của Đức Chúa Jêsus. Cho dầu điều ấy có diễn tiến chậm một chút, và có những sự vấp ngã nhất định nào đó, nhưng đức tin vẫn cứ cám ơn Ngài, không phải vì những gì kinh nghiệm được mà vì những lời hứa mà đức tin nương cậy, vẫn cứ tiến triển càng lúc càng mạnh hơn cho đến khi nắm chắc được sự bảo đảm phước hạnh rằng chính mình Đức Chúa Trời sẽ hoàn thiện công việc của Ngài trong đời sống chúng ta.
“Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ,
mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa,
nhưng Đấng Christ sống trong tôi;
nay tôi còn sống trong xác thịt,
ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời,
là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.”

​(Gal. 2:20)
9_Đắc_thắng.pdf
File Size: 323 kb
File Type: pdf
Download File


“TRIỂN VỌNG…”

31/10/2018

 
Picture





​“Cầu nguyện với Đức Chúa Trời không phải chỉ là đến với Ngài để cầu xin những điều gì đó. Trên hết, sự cầu nguyện là một sự tương giao với Đức Chúa Trời và là một trạng thái được đặt mình dưới quyền năng của sự thánh khiết và tình yêu thương của Ngài cho đến chừng Ngài ngự trị trên chúng ta và in sâu vào toàn bộ bản chất của chúng ta tính hạ mình của Đức Chúa Jêsus Christ, và đó cũng chính là bí quyết của sự thờ phượng.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Nếu bây giờ chúng ta đã được giải thoát khỏi tội thiếu cầu nguyện và đã hiểu được làm thế nào để có thể tiếp tục kinh nghiệm được sự giải thoát ấy thì kết quả của sự tự do của chúng ta là gì? Những ai nhận thức được một cách đúng đắn về điều ấy, với một sự nghiêm túc và bền chí đã được đổi mới, sẽ theo đuổi cho có được kết quả của sự tự do ấy. Chắc chắn đời sống và sự kinh nghiệm của người ấy sẽ là một bằng chứng cho việc họ đã nắm bắt được một điều gì đó có giá trị không kể xiết được. Họ sẽ là một bằng chứng sống động của mối phước hạnh mà sự đắc thắng ấy đã đem lại.
 
Hãy suy nghĩ về sự tin quyết trong Đức Chúa Cha để nó sẽ thế chỗ cho sự ô nhơ và sự tự lên án trước đây đã từng một thời là điểm đặc trưng của đời sống chúng ta. Hãy suy nghĩ về sự ý thức sâu sắc mà ân điển toàn năng của Đức Chúa Trời đã thực hiện một số điều nhất định trong chúng ta để chứng minh cho chúng ta thấy mình có mang hình ảnh của Ngài và xứng hiệp đối với một đời sống tương thông cùng Ngài cũng như dọn mình để làm vinh hiển Ngài. Cho dầu có bị ám ảnh về tình trạng vô nghĩa của chúng ta, hãy suy nghĩ làm thế nào để chúng ta có thể sống như con cái thật của Vua Thiên Thượng trong mối tương thông với Cha mình, và có thể hiển thị đặc điểm của Đức Chúa Jêsus chúng ta trong mối thông công với Cha Ngài lúc Ngài còn ở trong thân trạng trên thế gian. Hãy suy nghĩ phải làm thế nào để thì giờ cầu nguyện trở thành thì giờ sung sướng nhất trong ngày của chúng ta, và làm thế nào để Đức Chúa Trời có thể sử dụng chúng ta góp phần vào chương trình của Ngài, và có thể biến chúng ta thành suối nguồn phước hạnh cho thế giới chung quanh chúng ta.
 
Người giảng luận phải học biết cách tiếp nhận sứ điệp thực sự từ Đức Chúa Trời, nhờ quyền năng của Đức Thánh Linh, và rồi chuyển đến hội chúng cũng chính trong quyền năng ấy. Người ấy phải biết nhờ vào đâu mà mình có thể được đầy dẫy được tình yêu thương và lòng nhiệt thành vốn là những điều ban năng lực cho mình để có thể làm mục vụ qua việc thăm viếng, gặp gỡ từng cá nhân trong một tâm thế đầy thấu cảm dịu dàng. Người ấy có thể nói như Sứ Đồ PhaoLô rằng “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”, và rằng “Chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần”, “Chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhân danh Đấng Christ mà nài xin anh em: Hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời”. Đây không phải là một giấc mơ hão huyền hay là sản phẩm của sự hoang tưởng. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta gương chứng ở Sứ Đồ PhaoLô làm minh họa để rồi, cho dầu chúng ta có nhiều khác biệt với vị Sứ Đồ ấy về ân tứ và về ơn gọi, chúng ta vẫn cứ thể nghiệm được ân điển dư dật từ Thiên Thượng vốn giúp chúng ta có thể làm được mọi sự cho Ngài.
 
Có một triển vọng mở ra cho chúng ta để chúng ta có thể dâng mình dự phần làm người cầu thay nhằm thực hiện một công việc lớn là mang lấy trong lòng gánh nặng về mọi nhu cần của Hội Thánh và toàn thế giới. Sứ Đồ PhaoLô đã cố đánh thức mọi người thời bấy giờ cầu nguyện cho các thánh đồ, và ông cho chúng ta biết về gánh nặng mà ông dành cho những người chưa bao giờ biết mặt[3]. Với sự hiện diện trong thân xác, Sứ Đồ PhaoLô bị ràng buộc bởi thời gian và nơi chốn, thế nhưng trong Đức Thánh Linh ông có quyền năng Thánh Linh và Danh của Chúa Cứu Thế Jêsus để cầu nguyện cho những người chưa được nghe về Cứu Chúa có thể tiếp nhận được phước hạnh. Cùng với cuộc sống trong mối quan hệ với mọi người trên đời, dầu ở xa hay ở gần, Sứ Đồ PhaoLô còn sống một đời sống khác, một đời sống thiên đàng, là một cuộc sống của tình yêu thương và của quyền năng kỳ diệu trong sự cầu nguyện mà ông đã dày công theo đuổi. Khó lòng cho chúng ta có thể hình dung hết được quyền năng mà Đức Chúa Trời sẽ tuôn đổ xuống cho những người biết cầu nguyện trừ phi chúng ta được giải thoát khỏi tội thiếu cầu nguyện để cầu nguyện được với một sự mạnh mẽ chạm đến tận thiên đàng mà đem phước hạnh xuống trong Danh toàn năng của Đức Chúa Jêsus Christ.
 
Quả thật là một triển vọng lớn lao! Cầu xin các Mục Sư và Giáo Sĩ được nhờ ơn Đức Chúa Trời mà bước vào trong sự cầu nguyện, chúng ta hãy ước ao cho họ có năng lực ấy gấp đôi cùng với đức tin và sự vui mừng! Được như thế sẽ đem lại biết bao là thay đổi trong sự giảng dạy, trong các buổi nhóm cầu nguyện, và trong mối thông công với tha nhân! Thật là một quyền năng dịu êm cho đời sống tâm linh để được thánh hóa nhờ mối tương thông với Đức Chúa Trời và với tình yêu của Ngài trong Đức Chúa Jêsus Christ! Thật là một tác động tuyệt vời có thể thực hành trong đời sống của kẻ tin nhằm thúc giục họ tiến lên trong công việc cầu thay! Tác động ấy sẽ lớn lao biết chừng nào giữa vòng Hội Thánh và người ngoại! Thật là một quyền năng mạnh mẽ có thể ảnh hưởng được trên biết bao người chăn bầy và Hội Thánh khác cũng như những người biết Đức Chúa Trời sẽ sử dụng chúng ta như thế nào cho Hội Thánh của Ngài trên thế gian này! Thật đáng cho chúng ta hy sinh mọi sự và khẩn cầu Đức Chúa Trời một cách không ngừng nghỉ để Ngài ban cho chúng ta một sự đắc thắng thực sự và trọn vẹn đối với tội thiếu cầu nguyện đã từng làm vấy bẩn đời sống của chúng ta.
 
Tại sao phải viết về những điều này và quá đề cao về mối phước hạnh của sự đắc thắng trên tội thiếu cầu nguyện và về những điều cướp lấy mất của chúng ta một cách tàn bạo quyền năng mà Đức Chúa Trời đã dự bị sẵn cho chúng ta? Ấy là vì những cách suy nghĩ hạn hẹp mà chúng ta từng có về các lời hứa và quyền năng của Đức Chúa Trời; và vì chúng ta thường thiên về sự tái phạm, thiên về việc hạn chế quyền năng của Đức Chúa Trời, và thiên về việc cho rằng Ngài sẽ không thể làm được những điều quá lớn cho chúng ta. Có được một sự nhận thức tươi mới về Đức Chúa Trời trong nội tâm là một điều vinh hiển lớn lao. Tuy thế, đó cũng chỉ mới là sự khởi đầu. Điều còn lớn hơn và vinh hiển hơn sẽ là một sự nhận thức về Đức Chúa Trời như là Đấng Toàn Năng độc nhất vô nhị và biết ngửa trông nơi Thánh Linh Ngài mở toang tấm lòng và khối óc chúng ta ra để đón nhận những điều vĩ đại, những điều mới mẻ mà Ngài muốn trao ban cho những ai biết ngửa trông nơi Ngài.
 
Ý định của Đức Chúa Trời là khích lệ cho đức tin và làm cho con cái và tôi tớ Ngài thấy được rằng họ sẽ không thể nào hiểu được mà phải nương cậy vào sự vĩ đại và sự toàn năng của Đức Chúa Trời, để rồi họ có thể  hiểu một cách chính xác và trong một tinh thần trẻ thơ đối với lời của Chúa rằng “Đức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng…” (Êph. 3:20). Như vậy, chúng ta có thể thấy được rằng Đức Chúa Trời của chúng  ta thật là vĩ đại và vinh hiển biết bao!
 
Có người sẽ nêu lên câu hỏi: “Liệu có nguy cơ về một sự đắc thắng nhất định nào đó trở thành một sự cám dỗ và dẫn đến sự coi thường và sự kiêu ngạo hay không?”. Hiển nhiên là có. Tất cả những gì tốt đẹp nhất trên thế gian này đều có thể bị dẫn đến chỗ lạm dụng. Vậy thì, làm thế nào để chúng ta có thể tránh khỏi tình trạng ấy? Chẳng có thể nhờ gì khác ngoài một sự cầu nguyện đích thực là điều có thể đem chúng ta vào trong mối giao tiếp với Đức Chúa Trời. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời được truy cập qua sự cầu nguyện sẽ xóa bôi được tình trạng tội lỗi của chúng ta. Sự toàn năng và sự vĩ đại của Đức Chúa Trời sẽ làm cho chúng ta cảm nhận được tính vô nghĩa của mình. Sự tương giao với Đức Chúa Trời qua Đức Chúa Jêsus Christ sẽ đem chúng ta đến chỗ kinh nghiệm được rằng chẳng có điều gì tốt trong chúng ta cả, và chúng ta chỉ có thể có sự tương giao với Đức Chúa Trời khi nào mà đức tin của chúng ta đem chúng ta được đến chỗ hạ mình như chính Chúa Cứu Thế Jêsus đã hạ mình, và chúng ta thực sự sống trong Chúa Cứu Thế Jêsus như chính Ngài ở trong Đức Chúa Cha vậy.
 
Cầu nguyện với Đức Chúa Trời không phải chỉ là đến với Ngài để cầu xin những điều gì đó. Trên hết, sự cầu nguyện là một sự tương giao với Đức Chúa Trời và là một trạng thái được đặt mình dưới quyền năng của sự thánh khiết và tình yêu thương của Ngài cho đến chừng Ngài ngự trị trên chúng ta và in sâu vào toàn bộ bản chất của chúng  ta tính hạ mình của Đức Chúa Jêsus Christ, và đó cũng chính là bí quyết của sự thờ phượng.
 
Vâng, chính trong Chúa Cứu Thế Jêsus mà chúng ta được đến gần Đức Chúa Cha như đối với những người đã theo Ngài trọn đời mình và đã chết trong Ngài, như những người mà Ngài đã sống trong họ và ban năng lực cho họ nói được rằng “Tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi”. Những gì chúng ta đã nói về công việc mà Đức Chúa Jêsus Christ làm trong chúng ta để giải thoát chúng ta ra khỏi tội thiếu cầu nguyện là nghiệm đúng không chỉ đối với sự khởi đầu của đời sống cầu nguyện nhưng cũng nghiệm đúng trên niềm vui mà sự kinh nghiệm mới mẻ về quyền năng cầu nguyện tạo ra cho chúng ta, nó nghiệm đúng trong toàn bộ mọi ngày sống trong đời sống cầu nguyện của chúng ta. “Qua Ngài” chúng ta có được lối đến gần với Đức Chúa Cha. Trong cách ấy, cũng như trong toàn bộ đời sống cầu nguyện, Chúa Cứu Thế là tất cả. Những người biết cầu nguyện chẳng còn thấy gì khác ngoài Đức Chúa Jêsus.
 
Cầu xin Đức Chúa Trời củng cố cho chúng ta một niềm tin rằng có một sự đắc thắng để dành cho chúng ta, và rằng mối phước hạnh là cao vượt hẳn lên trên những gì lòng người có thể nghĩ ra được! Đức Chúa Trời sẽ thực hiện điều này cho tất cả những ai yêu mến Ngài.
“20Vả, Đức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta,
có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng,
21nguyền Ngài được vinh hiển trong Hội thánh, và trong Đức Chúa Jêsus Christ,
trải các thời đại, đời đời vô cùng! Amen.”

(Êph. 3:20-21)
8_triển_vọng.pdf
File Size: 316 kb
File Type: pdf
Download File


“BÍ QUYẾT…”

30/10/2018

 
Picture





​“Bạn có khao khát muốn được biết làm thế nào để có thể luôn luôn kinh nghiệm được sự giải thoát khỏi tội thiếu cầu nguyện hay không? Bí quyết là như thế này: Hãy tin quyết nơi Con Độc Sanh của Đức Chúa Trời, hãy dành thì giờ cho Ngài trong đời sống tâm linh cho Ngài hiển thị chính mình qua một trạng thái thân thiết chưa bao giờ có trong vị thế của Đấng Toàn Năng, Đấng Yêu Thương Đời Đời để chăm sóc bạn. Bạn sẽ kinh nghiệm được điều mà có thể là cho đến nay bạn vẫn còn xa lạ về những gì Đức Chúa Trời có thể làm cho những kẻ yêu mến Ngài.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Những gì chúng  ta đã bàn về sự giải thoát khỏi tình trạng thiếu cầu nguyện cũng góp một phần trong việc giải đáp cho vấn nạn “Làm thế nào để sự kinh nghiệm về sự giải thoát ấy được duy trì?”. Sự cứu chuộc không phải chỉ được ban cho theo từng phần, hoặc như thể một cái gì đó mà chúng ta chỉ có thể sử dụng theo từng lúc. Sự cứu chuộc được ban cho như một tổng thể của ân điển vốn có trong Chúa Cứu Thế Jêsus mà người ta có thể vui hưởng trọn vẹn trong một mối tương giao tươi mới với Ngài. Điều này quá đỗi cần thiết phải được hiểu và phải được ăn sâu vào trong tâm trí của chúng ta đến nỗi cần phải phải được đề cập lại một lần nữa. Chẳng có gì có thể bảo toàn cho chúng ta tránh khỏi sự thiếu quan tâm, hoặc giúp giữ vững, một sự cầu nguyện sống động và đầy quyền năng ngoại trừ một mối tương giao thân thiết hàng ngày với Chúa Cứu Thế Jêsus của chúng ta.
 
Đức Chúa Jêsus phán với các môn đồ Ngài: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa... Khi Ta nói rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, thì hãy tin Ta... Kẻ nào tin Ta, cũng sẽ làm việc ta làm; lại cũng làm việc lớn hơn nữa...” (Gi. 14:1, 11, 12).
 
Đức Chúa Jêsus muốn dạy dỗ các môn đồ Ngài rằng tất cả những gì họ đã học biết từ Kinh Thánh Cựu Ước có liên quan đến quyền năng, sự thánh khiết, và tình yêu thương của Đức Chúa Trời bây giờ phải được nhận thực trong Ngài. Họ không được phép chỉ biết thuần túy tin trên văn tự mà phải biết tin vào chính thân vị của Ngài. Họ phải tin rằng Ngài đã đến từ Đức Chúa Cha và Đức Chúa Cha ở trong Ngài, như thế họ chỉ có một sự sống, một sự vinh hiển. Tất cả những gì họ đã biết về Chúa Cứu Thế, họ cũng sẽ tìm thấy trong Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus nhấn mạnh nhiều về điểm này vì chỉ với một đức tin như thế vào nơi Ngài và vào nơi sự vinh hiển Thiên Thượng của Ngài thì họ mới có thể làm được công việc Ngài đã làm, và rồi mới có thể làm được cả những việc lớn hơn nữa. Đức tin này sẽ dẫn họ đến chỗ nhận biết được rằng giống như Chúa Cứu Thế và Đức Chúa Cha là Một, họ cũng sẽ ở trong Chúa Cứu Thế và Chúa Cứu Thế sẽ ở trong họ.
 
Chính mối tương giao thuộc linh, mật thiết, và không gián đoạn này với Đức Chúa Jêsus tự hiển thị một cách đầy quyền năng trong đời sống của chúng ta, và đặc biệt là trong đời sống cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét về điều ấy để thấy được rằng tất cả mọi thuộc tính vinh hiển của Đức Chúa Trời đều có trong Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.
 
1.      Tính Toàn Tại Của Đức Chúa Trời.
 
Tính toàn tại hay tính vô sở bất tại của Đức Chúa Trời là thuộc tính giúp Đức Chúa Trời hiện diện khắp trong toàn cõi vũ trụ trong mọi thời điểm. Cũng như Đức Chúa Cha, Đức Chúa Jêsus bây giờ đang hiện diện ở tất cả mọi nơi, nhất là Ngài hiện diện với những người đã được cứu. Đây là một bài học lớn và quan trọng hơn hết mà đức tin chúng ta phải có. Chúng ta có thể hiểu về điều này một cách tỏ tường qua gương sáng của các môn đồ của Đức Chúa Jêsus. Đặc ân của các môn đồ này, những người luôn ở trong mối tương giao với Ngài, là gì? Đó là sự vui hưởng một sự hiện diện khong hề gián đoạn với Đức Chúa Jêsus. Chính vì lẽ này mà họ đã vô cùng xót xa khi nghĩ về sự thể Ngài phải chịu chết. Họ nhận biết họ sẽ bị cướp đi mất sự hiện diện ấy. Trong tình cảnh ấy, Đức Chúa Jêsus đã làm thế nào để an ủi họ? Ngài đã hứa rằng Đức Thánh Linh từ thiên đàng sẽ đến để hình thành trong họ một sự cảm thức đầy trọn về sự hiện diện của Ngài đến độ Ngài vẫn cứ gần gũi và mật thiết với họ cũng như có một mối tương giao không sao đổ vỡ được còn hơn cả những gì họ đã kinh nghiệm được trong lúc Ngài còn sống trong thân trạng trên thế gian.
 
Lời hứa tuyệt vời này hiện nay là di sản cho toàn thể mọi kẻ tin, cho dầu là có không ít người chẳng hề hiểu biết mấy về điều đó. Hiện nay Đức Chúa Jêsus Christ, trong thân vị thiên đàng của Ngài, trong tình yêu đời đời đã khiến Ngài phải treo thân trên thập tự giá để chuộc tội cho chúng ta, khát khao có được mối tương giao với chúng ta trong mỗi phút giây và giữ chúng ta trong sự vui hưởng mối tương giao ấy. Điều này cần phải được giải thích cho mọi người tiếp nhận Chúa Cứu Thế Jêsus hiểu: “Chúa yêu bạn đến độ Ngài đòi bạn phải sát gần Ngài không một chút lơi lỏng để bạn có thể nếm biết được tình yêu của Ngài”. Đó cũng chính là điều mà những ai đã rơi vào một đời sống thiếu năng lực cầu nguyện, thiếu năng lực vâng lời, thiếu thánh khiết phải học biết. Chỉ duy nhất điều ấy mới đem lại cho chúng ta quyền năng để làm người cầu thay hầu chinh phục thế giới và những linh hồn hư mất cho Cứu Chúa của chúng  ta.
 
2.      Tính Toàn Năng Của Đức Chúa Trời.
 
Quyền năng của Đức Chúa Trời thật tuyệt diệu biết bao! Chúng ta nhận ra quyền năng Ngài qua tạo vật; chúng ta nhận ra quyền năng Ngài qua Kinh Thánh Cựu Ước. Chúng ta cũng nhận ra quyền năng Đức Chúa Trời trong công nghiệp tuyệt vời của Chúa Cứu Thế mà Đức Chúa Cha đã thực hiện trong Ngài, và trên hết là qua sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Chúng ta được mời gọi đặt niềm tin nơi Đức Chúa Con như chính chúng ta tin Đức Chúa Cha. Đức Chúa Jêsus là Đấng, bằng tình yêu của Ngài, thân thiết với chúng ta không thể tưởng được và là Đấng Quyền Năng vô hạn, chẳng có sự chi là bất năng đối với Ngài cả. Cho dầu tấm lòng và xác thân của chúng ta có bất tuân chúng ta đến đâu thì Ngài cũng cứ thắng được. Tất cả mọi sự đều đã được phán hứa trong Lời Đức Chúa Trời, tất cả đều là di sản cho chúng ta là con cái của Sự Giao Ước Mới được thừa hưởng nhờ sự trao ban từ nơi Đức Chúa Jêsus Quyền Năng. Nếu nội tâm tôi biết sấp mình trước mặt Ngài, tôi sẽ được ở trong quyền năng của Đức Chúa Trời. Nếu mỗi ngày tôi chịu giao thác đời sống của tôi cho Đức Chúa Jêsus thì tôi có thể yên tâm rằng chính quyền phép toàn năng đời đời của Ngài sẽ đem tôi vào trong sự che chở và sẽ hoàn thành mọi sự cho tôi.
 
Quả thật là kỳ diệu vì chỉ cần dành thì giờ cho cuộc sống nội tâm thôi thì chúng ta sẽ nếm biết được một cách đầy trọn về thực tại của sự hiện diện của Đức Chúa Jêsus Quyền Năng! Một mối phước hạnh lớn lao biết bao qua đức tin của chúng ta: Mối tương giao không thể bị phá vỡ với một Cứu Chúa Quyền Năng Toàn Năng.
 
3.      Tình Yêu Thánh Khiết Của Đức Chúa Trời.
 
Điều này có nghĩa là, với một sự toàn tâm, Đức Chúa Trời trao ban cho chúng ta mọi thuộc tính Thiên Thượng của Ngài cho sự hầu việc của chúng ta và sửa soạn để chia sẻ chính mình Ngài cho chúng ta. Chúa Cứu Thế Jêsus là sự mặc khải của tình yêu của Ngài. Đức Chúa Jêsus là Con Độc Sanh của tình yêu của Ngài, là quà tặng của tình yêu của Ngài, là quyền năng của tình yêu của Ngài. Chính Đức Chúa Jêsus này, Đấng đã bước lên thập tự giá để bày tỏ một bằng chứng hiển nhiên cho tình yêu của Đức Chúa Trời qua sự chết và sự rải huyết của Ngài hầu cho chúng ta có thể tin nơi tình yêu ấy, là Đấng đến để giao ngộ với chúng ta trong đời sống tâm linh và ban cho chúng ta một sự bảo đảm tuyệt đối rằng mối tương giao không thể bị phá vỡ được với Ngài là di sản cho chúng ta thừa hưởng, và chúng ta thừa hưởng được nhờ Ngài. Tình yêu thánh khiết của Đức Chúa Trời đã hy sinh mọi sự để đắc thắng tội lỗi và biến nó thành vô nghĩa đã đến với chúng ta qua Chúa Cứu Thế Jêsus để cứu chúng ta thoát khỏi mọi tội.
 
Hãy dành thì giờ để suy gẫm về lời Chúa phán: “Hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa”. “Ngươi há không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, hay sao?”. Đó là bí quyết của đời sống cầu nguyện. Hãy dành thì giờ cho đời sống tâm linh để sấp mình thờ phượng; và đợi chờ cho đến lúc Ngài tỏ mình và ngự trị trên chúng ta, để rồi Ngài thể hiện qua chúng ta cho mọi người thấy được thể nào con người có thể sống và bước đi trong một mối tương giao với một Cứu Chúa không nhìn thấy được.
 
Bạn có khao khát muốn được biết làm thế nào để có thể luôn luôn kinh nghiệm được sự giải thoát khỏi tội thiếu cầu nguyện hay không? Bí quyết là như thế này: Hãy tin quyết nơi Con Độc Sanh của Đức Chúa Trời, hãy dành thì giờ cho Ngài trong đời sống tâm linh cho Ngài hiển thị chính mình qua một trạng thái thân thiết chưa bao giờ có trong vị thế của Đấng Toàn Năng, Đấng Yêu Thương Đời Đời để chăm sóc bạn. Bạn sẽ kinh nghiệm được điều mà có thể là cho đến nay bạn vẫn còn xa lạ về những gì Đức Chúa Trời có thể làm cho những kẻ yêu mến Ngài.
“1Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa…
10Ngươi há không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, hay sao?
Những lời Ta nói với các ngươi, chẳng phải Ta tự nói;
ấy là Cha ở trong Ta, chính Ngài làm trọn việc riêng của Ngài.
11Khi Ta nói rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, thì hãy tin Ta;
bằng chẳng, hãy tin bởi công việc Ta.
12Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi,
kẻ nào tin Ta, cũng sẽ làm việc Ta làm;
lại cũng làm việc lớn hơn nữa, vì Ta đi về cùng Cha.
13Các ngươi nhân danh Ta mà cầu xin điều chi mặc dầu,
Ta sẽ làm cho, để Cha được sáng danh nơi Con.
14Nếu các ngươi nhân danh Ta xin điều chi, Ta sẽ làm cho.”
(Gi. 14:1, 10-14)
7_bí_quyết.pdf
File Size: 334 kb
File Type: pdf
Download File


“LÀM THẾ NÀO…”

29/10/2018

 
Picture






​“Nếu sự e ngại và lưỡng lự vẫn cứ còn, cầu xin cho bạn được nhờ ơn thương xót của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ, và nhờ sự thành tín không kể xiết về tình yêu thương dịu dàng của Ngài, để bạn dám dâng mình trước mặt Ngài. Hãy cứ tin chắc với tất cả tấm lòng rằng từ nơi Ngài sẽ có sự giải thoát cho khỏi tội thiếu cầu nguyện.”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Chướng ngại vật lớn nhất trên đường đi đến sự đắc thắng đối với tình trạng thiếu cầu nguyện là cái cảm thức âm thầm cho rằng chúng ta sẽ không bao giờ có được mối phước hạnh được giải thoát khỏi nó. Chúng ta thường tiến hành sự nỗ lực của chúng ta theo chiều hướng ấy và chẳng gặt hái được gì. Thói quen cố cựu và sức mạnh của xác thịt, những sự cuốn hút từ môi trường sống của chúng ta,... tất cả xem chừng đều quá mạnh đối với chúng ta. Khi trong lòng cho rằng không sao với đến được thì còn cố gắng mà làm chi? Sự thay đổi có cần cho đời sống sao mà lớn lao và khó khăn quá! Mỗi khi câu hỏi được nêu lên là “Liệu có thay đổi được không?” thì câu trả lời cứ là “Ôi! Đối với tôi quả thật là không thể có được”. Bạn có biết câu trả lời ấy từ đâu đến không? Ấy là tại vì bạn đã nhận lấy sự kêu gọi về việc cầu nguyện giống như lời kêu gọi từ Môise và sự đòi hỏi của Luật Pháp. Môi-se và Luật Pháp Môise chưa hề giúp cho bất cứ ai có được quyền năng vâng lời.
 
Bạn có thực sự khát khao về lòng can đảm để tin rằng sự giải thoát khỏi một đời sống thiếu cầu nguyện là một điều khả hữu đối với bạn và nó hoàn toàn có thể trở thành một thực tại hay không? Kế đến, bạn phải học biết bài học quan trọng rằng một sự giải thoát như thế đã được gồm tóm trong Chúa Cứu Thế Jêsus, tức nó là một phước hạnh của Sự Giao Ước Mới mà chính Đức Chúa Trời sẽ san sẻ cho bạn qua Chúa Cứu Thế Jêsus. Khi bạn bắt đầu hiểu được điều ấy, bạn sẽ nhận ra lời khuyên giục rằng “Hãy... cầu nguyện không thôi” chuyển tải một sứ điệp mới mẻ hơn. Trong lòng bạn bắt đầu dấy lên một niềm hy vọng mới rằng Đức Thánh Linh – Đấng ban cho vào trong lòng bạn để cứ gọi “Aba! Cha!” - sẽ đem lại cho bạn một đời sống cầu nguyện đích thực. Thế rồi bạn sẽ nghe được, không phải trong một tình trạng nản lòng mà là trong trạng thái hân hoan của sự hy vọng, lời kêu gọi bạn đến sự ăn năn.
 
Lắm phen người ta quay về với nội tâm mình trong một tâm trạng chua chát, tự lên án mình sao cầu nguyện quá ít; và rồi đã hạ quyết tâm rằng sẽ sống theo một cách thế khác hẳn trong tương lai. Tuy thế vẫn chẳng có một phước hạnh nào đến cả là vì không phải nhờ sức mạnh mình mà người ta trung tín được, và sự kêu gọi ăn năn vẫn chưa có được quyền năng vì người ta vẫn còn chưa biết chăm chú vào Chúa Jêsus. Nếu người ta nhận thức được điều ấy, tất người ta sẽ thức với Chúa như thế này: “Chúa ôi! Ngài biết lòng con giá băng và đen tối đến thế nào; con biết rằng con phải cầu nguyện, nhưng con cảm thấy con không thể làm điều đó được; con thiếu một sự bức xúc và một niềm khát khao đối với sự cầu nguyện”.
 
Người ta không biết rằng tại lúc ấy, Chúa Cứu Thế Jêsus đang trông xuống và phán với giọng dịu êm của Ngài rằng “Con không thể cầu nguyện được; con cũng biết rằng tất cả chỉ là giá băng và đen tối; tại sao con lại không đem trao tất cả vào tay Ta? Hãy chỉ tin quyết rằng Ta sẵn sàng giúp cho con trong sự cầu nguyện; Ta khát khao được rải kín tình yêu của ta vào tấm lòng của con để rồi, trong sự nhận biết sự yếu đuối của mình, con có thể tin cậy mà dựa nương vào ta để có thể được trao ban ân điển về sự cầu nguyện. Cũng giống như Ta sẽ tẩy sạch cho con khỏi mọi tội lỗi khác, Ta sẽ giải thoát con khỏi tội thiếu cầu nguyện – miễn là con đừng đi tìm sự đắc thắng bằng sức riêng của mình. Hãy sấp mình trước mặt Ta như một người ngửa trông mọi sự trước một Cứu Chúa. Hãy để linh hồn con yên lặng trước mặt Ta cho dầu con có cảm thấy buồn rầu về thực trạng của mình đến bao nhiêu cũng vậy. Hãy chỉ chắc chắn về một điều này mà thôi: Ta sẽ dạy cho con cầu nguyện”.
 
Người ta thường thừa nhận như thế này: “Tôi biết lỗi lầm của tôi; tôi cũng không nghĩ rằng Đức Chúa Jêsus phải giải thoát tôi và tẩy sạch tôi khỏi tội lỗi này. Tôi đã không nhận thức được rằng Ngài ở cùng tôi mỗi ngày trong nội tâm tôi, và tôi ở trong tình yêu bao la của Ngài sẵn sàng gìn giữ và ban phước cho tôi dầu tôi có cảm thấy mình tội lỗi ô uế đến thế nào đi nữa. Tôi đã không nhận thấy được rằng cũng giống như Ngài sẽ ban cho mọi thứ ân điển để đáp lời sự cầu nguyện, thì trên hết, Ngài sẽ ban cho ân điển về một tấm lòng cầu nguyện. Thật là ngớ ngẩn vô cùng khi tin rằng mọi phước hạnh đều đến từ Ngài mà lại tưởng rằng sự cầu nguyện, là điều mà mọi sự đều tùy thuộc vào đó, lại phải được nắm bắt bằng chính nỗ lực của cá nhân! Cám ơn Chúa vì bây giờ thì con đã hiểu – Chính Chúa Cứu Thế Jêsus trong nội tâm con đang trông nom con và nhận lấy trách nhiệm dạy dỗ con biết làm thế nào để đến gần Đức Chúa Cha. Ngài chỉ đòi hỏi duy nhất một điều là con phải chờ đợi Ngài bằng một lòng tin của trẻ thơ và phải làm sáng danh Ngài”.
 
Anh em, chị em ơi! Phải chăng chúng ta đã quên lãng một cách tệ hại về lẽ thật này? Từ một đời sống thuộc linh khiếm khuyết, chẳng có gì khác hơn là một đời sống cầu nguyện khiếm khuyết. Với một đời sống thuộc linh khiếm khiết thì nỗ lực để cầu nguyện tốt hơn quả thật là uổng công. Đó là một điều bất khả thi. Chẳng có gì cần thiết hơn là sự kinh nghiệm rằng “Nếu ai ở trong Đấng Christ , thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới”. Đây đúng là điều xác thực đối với những ai hiểu và kinh nghiệm được thế nào là ở trong Chúa Cứu Thế Jêsus.
 
Toàn bộ mối tương giao của chúng ta với Chúa Cứu Thế Jêsus phải là một trạng thái mới. Chúng ta phải tin cậy vào tình yêu tuyệt đối của Ngài là một tình yêu thực sự khát khao được tương thông với chúng ta trong mọi lúc và giữ cho chúng ta ở trong sự vui hưởng mối tương giao với Ngài. Chúng ta phải tin cậy vào quyền năng Thiên Thượng của Ngài là một quyền năng đã từng đắc thắng đối với tội lỗi và có khả năng giữ cho chúng ta khỏi bị nó xâm hại. Chúng ta phải tin cậy vào Ngài như là Đấng cầu thay vĩ đại, nhờ Đức Thánh Linh, sẽ cảm ứng cho mọi thành viên của Hội Thánh bằng niềm vui và quyền năng để tương thông với Đức Chúa Trời qua sự cầu nguyện. Đời sống cầu nguyện của chúng ta phải được đặt trong vòng điều khiển của Chúa Cứu Thế Jêsus và tình yêu của Ngài. Nhiên hậu, sự cầu nguyện của chúng ta sẽ có được những gì nó vốn có như là nhịp thở tự nhiên và đầy vui sướng của đời sống thuộc linh để cho bầu không khí thiên đàng được hít vào và thở ra.
 
Chúng ta có thể nhận thấy rằng một khi đức tin này ngự trị trong chúng ta thì lời kêu gọi về đời sống cầu nguyện sẽ trở thành lời kêu gọi được hoan nghênh. Lời kêu gọi rằng “Hãy ăn năn về tội thiếu cầu nguyện” không phải là một lời kêu gọi để được đáp trả bằng tiếng thở dài vô vọng, hoặc bằng sự bất ứng của tính xác thịt. Lời mời của Cha Thiên Thượng sẽ được đón nhận vì Ngài có mở toang trước mặt Ngài một cánh cửa và tiếp nhận chúng ta bước vào mối thông công cùng chính Ngài. Lời cầu nguyện xin có sự cứu giúp của Đức Thánh Linh để cầu nguyện được sẽ không còn ở trong nỗi lo ngại cho rằng đó là một điều quá to tát đối với sức lực của chúng ta nữa; nỗi lo ngại ấy sẽ được trút bỏ dưới chân Chúa trong sự bất lực tuyệt đối của chúng ta để rồi chúng ta tìm ra được sự đắc thắng từ quyền năng và tình yêu tuôn tràn qua sự chấp thuận của Ngài.
 
Nếu trong trí chúng ta dấy lên câu hỏi rằng “Liệu điều ấy có được duy trì không?” thì lập tức sự lo âu lại ập đến trong chúng ta vì những thất bại quá khứ trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, sự thật là đức tin sẽ dẫn đến đức tin, đức tin sẽ đem lại sức mạnh cho đức tin. Đức tin không lấy sức mạnh cho mình trong những gì chúng ta nghĩ là sẽ xảy đến mà là trong sự thành tín và trong tình yêu không bao giờ dời đổi của Chúa Cứu Thế Jêsus là Đấng một lần nữa sẽ tiếp cứu chúng ta và bảo đảm với chúng ta rằng ai trông đợi Ngài thì sẽ chẳng phải hổ thẹn đâu.
 
Nếu sự e ngại và lưỡng lự vẫn cứ còn, cầu xin cho bạn được nhờ ơn thương xót của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ, và nhờ sự thành tín không kể xiết về tình yêu thương dịu dàng của Ngài, để bạn dám dâng mình trước mặt Ngài. Hãy cứ tin chắc với tất cả tấm lòng rằng từ nơi Ngài sẽ có sự giải thoát cho khỏi tội thiếu cầu nguyện. Trong huyết báu và quyền năng của Ngài có một sự giải thoát hoàn toàn khỏi mọi điều không công chính và khỏi cả tội thiếu cầu nguyện nữa. Đáng ngợi khen Danh Ngài cho đến đời đời!
“Nếu chúng ta xưng tội mình,
thì Ngài là thành tín công bình
để tha tội cho chúng ta,
và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác”

​(1Gi. 1:9).
6_làm_thế_nào.pdf
File Size: 272 kb
File Type: pdf
Download File


“VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM TRONG CUỘC CHIẾN CẦU NGUYỆN”

28/10/2018

 
Picture








​“Con cái của Đức Chúa Trời thắng hơn mọi sự nhờ sự cầu nguyện. Bởi vậy cho nên chẳng lạ gì việc Satan phải làm hết sức mình để giật lấy cho được món vũ khí ấy ra khỏi tay họ, hoặc ít ra thì cũng ngăn trở không cho họ biết sử dụng và giỏi sử dụng được món vũ khí lợi hại ấy.”

 (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Xin đừng tìm kiếm loanh quanh để có một sự giải thích về tình trạng thiếu cầu nguyện khiến chúng ta khốn khổ; hãy kiếm sự giải thích ấy chính ngay tại Lời Đức Chúa Trời: Chính mối ác cảm tiềm ẩn trong tấm lòng đối với một Đức Chúa Trời thánh khiết khiến cho chúng ta phải chịu một đời sống thiếu cầu nguyện.
 
Một khi Cơ Đốc Nhân không đầu phục hoàn toàn theo sự dắt dẫn của Đức Thánh Linh – và đó chính là ý muốn tỏ tường của Đức Chúa Trời mà cũng là công việc của Ân Điển Ngài – nhất định họ phải sống, mà không biết, dưới sức mạnh của “xác thịt”. Đời sống theo “xác thịt” này biểu lộ theo nhiều cách thế khác nhau. Nó có thể biểu hiện qua tinh thần nóng vội, hoặc qua sự nóng giận bộc phát bất chợt, hoặc qua việc thiếu lòng yêu thương mà lắm khi họ phải tự trách mình; nó cũng có thể biểu hiện qua việc tìm thấy sự khoái lạc đối với việc ăn nhậu là điều lắm phen lương tâm họ lên tiếng cáo trách họ; nó cũng còn biểu hiện qua việc theo đuổi ý riêng và việc tự tôn cao mình, qua việc tự tin ở sức mạnh và sự khôn ngoan riêng của mình, qua việc cảm ứng thuận với những điều vui thú trong thế gian là những điều khiến họ phải hổ thẹn trước mặt Đức Chúa Trời. Tất cả những điều như thế là đời sống “theo xác thịt”. “Anh em há chẳng phải là tánh xác thịt ăn ở như người thế gian sao?” (1Cô. 3: 3), chắc hẳn lời này lắm phen khuấy động tấm lòng chúng ta; chúng ta không thể nào hoàn toàn bình an, thanh thản trong Đức Chúa Trời được.
 
Tất cả Cơ Đốc Nhân chúng ta phải trả lời được cho câu hỏi sau đây: Liệu tôi có thể tìm thấy ở đây câu trả lời về nguyên nhân cho tình trạng thiếu cầu nguyện của tôi cũng như cho tình trạng bất năng đối với việc đem lại một sự thay đổi cho vấn đề hay không? Tôi sống trong Thánh Linh, tôi đã từng được tái sanh, nhưng tôi lại không bước đi theo Thánh Linh. “Xác thịt” vẫn còn có quyền điều động trên đời sống của tôi. Một đời sống theo “xác thịt” không thể cầu nguyện được trong Thánh Linh và trong quyền năng. Cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ cho tôi. Đời sống theo xác thịt là căn nguyên hiển nhiên của tình trạng thiếu cầu nguyện đáng buồn và đáng xấu hổ của tôi.
 
Khái niệm “vị trí chiến lược” là một khái niệm không được phép thiếu trong tư duy chiến đấu trong mọi loại chiến tranh. Khái niệm này vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh trường kỳ giữa Vương Quốc Thiên Đàng với các thế lực của bóng tối.
 
Khi một vị tướng chọn một vị trí để từ đó tấn công vào quân thù, ông dồn hết sức chú ý vào những điểm mà ông cho là quan trọng hơn hết trong chiến cuộc. Trong trận chiến Waterloo, tướng Wellington đã nhận ra ngay một nông trại nọ có vị trí chiến lược ấy. Ông đã không tiếc lực lượng để chiếm cho được vị trí ấy: Thắng lợi toàn cuộc phụ thuộc vào điều đó. Nhờ đó tướng Wellington đã chiến thắng. Cũng tương tự như thế trong cuộc chiến giữa tín hữu với các quyền lực của bóng tối. Tâm trí (nội tâm) của mỗi người là vị trí quyết định cho sự chiến thắng.
 
Kẻ thù luôn dồn mọi nỗ lực để lôi kéo các Cơ Đốc Nhân, nhất là những người chăn bầy, đi đến chỗ xao lãng sự cầu nguyện. Kẻ thù biết rằng cho dầu có hưởng ứng bài giảng đến đâu, buổi nhóm có thu hút đến đâu, chăm sóc mục vụ có trung tín đến đâu,... những điều này cũng không tác hại mấy trên lãnh địa của nó một khi sự cầu nguyện vẫn còn bị xao lãng. Khi Hội Thánh biết dấu mình trong quyền năng ở đời sống tâm linh trong nội tâm, và rồi các chiến sĩ của Chúa nhận được quyền phép từ trên cao qua việc quì gối cầu nguyện, nhất định các thế lực của bóng tối sẽ bị rúng động và rồi linh hồn tội nhân sẽ được giải thoát. Trong Hội Thánh, trên cánh đồng truyền giáo, đối với những người chăn bầy cũng như đối với các hội chúng, mọi sự đều tùy thuộc vào việc thực hành một cách trung tín quyền năng của sự cầu nguyện.
 
Có hai bên tranh chấp nhau về một vấn đề. Đó là một Cơ Đốc Nhân và một con quỷ. Con quỷ nhận ra rằng Cơ Đốc Nhân có một thứ vũ khí lợi hại giúp đem lại chiến thắng. Hai bên phải giáp mặt nhau trong một cuộc chiến quyết định, và con quỷ kiên quyết cướp cho được thứ vũ khí ấy của đối phương để phá hỏng đi. Thế là tạm thời nguyên nhân chính của cuộc tranh chiến đã trở nên phụ; vấn đề còn lại vào lúc này là ai sẽ có được thứ vũ khí mà sự chiến thắng sẽ tùy thuộc vào đó? Chính đó mới là điều quan trọng sống còn cần phải giành cho được.
 
Đó chính là điều thực hữu trong cuộc tranh đấu giữa Satan và Cơ Đốc Nhân. Con cái của Đức Chúa Trời thắng hơn mọi sự nhờ sự cầu nguyện. Bởi vậy cho nên chẳng lạ gì việc Satan phải làm hết sức mình để giật lấy cho được món vũ khí ấy ra khỏi tay họ, hoặc ít ra thì cũng ngăn trở không cho họ biết sử dụng và giỏi sử dụng được món vũ khí lợi hại ấy.
 
Thế thì Satan làm thế nào để ngăn trở sự cầu nguyện? Chính bằng việc cám dỗ hủy bỏ hoặc rút ngắn sự cầu nguyện qua việc đem lại cho tâm trí một tình trạng vô định cùng với đủ loại xao lãng; cũng như bằng sự chẳng tin và thiếu hy vọng. Hạnh phúc thay những anh hùng cầu nguyện là những người vượt qua được tất cả mọi điều trở ngại ấy để cứ chăm chắm vào việc vận dụng món vũ khí lợi hại của mình. Cũng giống như Chúa chúng ta trong vườn Ghếtsêmanê, kẻ thù càng công kích dữ dội, Chúa càng cầu nguyện một cách nghiêm túc và không ngừng nghỉ cho đến khi có được sự đắc thắng. Sau khi nêu đủ các phần vũ khí của người chiến sĩ của Đức Chúa Trời, Sứ Đồ PhaoLô nói thêm rằng “Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó” (Êph. 6:18). Thiếu sự cầu nguyện thì mão trụ của sự cứu chuộc, thuẫn của đức tin, và gươm của Thánh Linh là Lời Đức Chúa Trời sẽ thiếu quyền năng. Mọi sự đều tùy thuộc vào sự cầu nguyện. Cầu xin Đức Chúa Trời dạy cho chúng ta biết tin quyết vào điều ấy và giữ chặt lấy điều ấy!
“Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước,
hầu cho được thương xót và tìm được ơn
để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng.”

​(Hê. 4:16)
5_vấn_Đề_trọng_tâm_trong_cuộc_chiến_cầu_nguyện.pdf
File Size: 297 kb
File Type: pdf
Download File


“MỘT TRONG NHIỀU NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ THIẾU CẦU NGUYỆN”

27/10/2018

 
Picture
​






​“Sự cầu nguyện là một dạng thức thăng hoa của tấm lòng cho nên trở ngại lớn nhất đối với đời sống cầu nguyện của Cơ Đốc Nhân chính là sức ỳ của tính xác thịt trong chính con người của họ!”

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Một trong những câu hỏi cần phải được đặt ra có thể là như thế này: “Vậy, điều gì là nguyên nhân của tình trạng thiếu cầu nguyện khá phổ biến? Phải chăng đó là do việc thiếu đức tin?”
 
Câu trả lời như sau: “Tất nhiên!”. Thế nhưng lại có một câu hỏi khác được nêu lên: “Thế thì điều gì là nguyên nhân của tình trạng thiếu đức tin ấy?”. Khi các môn đồ hỏi Đức Chúa Jêsus rằng “Sao chúng tôi đuổi quỉ ấy không được?”, câu trả lời của Chúa ngầm ý là “Vì cớ các ngươi chẳng tin” và Ngài phán tỏ tường hơn rằng “Nếu không cầu nguyện và kiêng ăn, thì chẳng ai đuổi thứ quỉ ấy ra được”. Nếu một đời sống không có sự kiêng ăn – tức tách ly với thế gian, và không có sự cầu nguyện – tức gắn chặt với Thiên Thượng, thì đức tin không có chỗ thực hành. Một đời sống như thế chính là một đời sống theo xác thịt chứ không phải là theo Thánh Linh; chính từ  một đời sống như thế mà chúng ta tìm thấy được căn nguyên của sự thiếu cầu nguyện là diều đem lại sự bất hạnh cho chúng ta. Khi chúng tôi họp xong, có một người đã nói với tôi như thế này: “Tất cả sự khó khăn là ở chỗ này: Chúng ta muốn cầu nguyện trong Thánh Linh, thế nhưng đồng thời chúng ta lại sống theo xác thịt, bởi vậy cho nên điều chúng ta muốn trở thành điều bất khả thi”.
 
Nếu có một người bị ốm và mong được chữa lành thì điều cốt yếu là phải tìm biết cho được căn nguyên đích thực của bịnh chứng. Đó luôn luôn là bước thứ nhất của sự hồi phục. Nếu nguyên nhân chính yếu không được tìm ra và nếu sự chú tâm chỉ được hướng đến các nguyên nhân phụ nào đó, hoặc cứ giả định theo những nguyên nhân không thực nào đó, nhất định sự chữa lành không thể nào có được. Theo một cách thế tương tự, điều quan trọng hàng đầu đối với chúng ta là phải nắm bắt cho được một sự nội kiến chân thực về căn nguyên của thảm trạng èo uột và thất bại trong đời sống cầu nguyện của nội tâm, nhiên hậu chúng ta mới mong hồi phục được nội tâm mình thành một miền phước hạnh. Chúng ta hãy cùng nhau cố gắng nhận thực cho được một cách đầy đủ về căn nguyên của điều tai hại ấy.
 
Kinh Thánh cho chúng ta biết được rằng chỉ có hai khả năng đối với một đời sống Cơ Đốc Nhân: Một là bước đi theo Thánh Linh, hai là sống theo xác thịt. Hai thế lực này không thể nào tương nhượng nhau được. Chính vì thế cho nên điều đã diễn ra là, đối với hầu hết các Cơ Đốc Nhân, dầu họ đã được tái sinh nhờ Đức Thánh Linh và đã tiếp nhận được sự sống của Đức Chúa Trời, nhưng trong cuộc sống thường nhật họ không luôn luôn bước đi theo Thánh Linh mà vẫn cứ còn sống theo xác thịt. Sứ Đồ PhaoLô viết cho các tín hữu ở Galati rằng “Sao anh em ngu muội dường ấy? Sau khi đã khởi sự nhờ Đức Thánh Linh, nay sao lại cậy xác thịt mà làm cho trọn?” (Gal. 3:3). Sự hầu việc của họ dựa trên những sự thực hiện bên ngoài của xác thịt. Họ đã không nhận thức được rằng ở đâu có sự ảnh hưởng của xác thịt trên sự hầu việc, ở đó sẽ sớm có sự xuất hiện của tội lỗi.
 
Sứ Đồ PhaoLô không những chỉ đề cập đến những tội trọng như tà dâm, giết người, say xưa,... mà còn đề cập đến cả những tội thường mắc phải trong cuộc sống đời thường như tức giận, xung đột, mâu thuẫn. Sứ Đồ PhaoLô khuyên giục: “Vậy tôi nói rằng:  Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt... Nếu chúng ta nhờ Thánh Linh mà sống, thì cũng hãy bước theo Thánh Linh vậy” (Gal. 5:16, 25). Đức Thánh Linh phải được tôn quí chẳng những như là Tác Giả của một đời sống mới mà Ngài cũng còn phải được giữ vai trò của Đấng Lãnh Đạo và Điều Khiển toàn bộ đời sống chúng ta. Bằng chẳng được như thế, chúng ta chẳng qua chỉ là điều mà Sứ Đồ PhaoLô gọi là “xác thịt” mà thôi.
 
Phần lớn các Cơ Đốc Nhân chỉ có một sự hiểu biết hạn chế về vấn đề này mà thôi. Họ không có được một sự hiểu biết thỏa đáng đối với tính chất tội lỗi và sự bất kính trầm trọng của bản chất xác thịt ấy là điều họ còn chịu lệ thuộc và còn vô tình nộp mình cho nó. “Vì điều chi Luật Pháp không làm nổi, tại xác thịt làm cho Luật Pháp ra yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã làm rồi: Ngài đã vì cớ tội lỗi sai chính Con mình lấy xác thịt giống như xác thịt tội lỗi chúng ta, và đã đoán phạt tội lỗi trong xác thịt” (Rô. 8:3) – trên thập tự giá. “Vả, những kẻ thuộc về Đức Chúa Jêsus Christ đã đóng đinh xác thịt với tình dục và dâm dục mình trên thập tự giá rồi” (Gal. 5:24). Những sự thuộc về “xác thịt” không thể nào cải thiện hay làm cho nên thánh được. “Vì sự chăm về xác thịt nghịch với Đức Chúa Trời, bởi nó không phục dưới Luật Pháp Đức Chúa Trời, lại cũng không thể phục được” (Rô. 8:7). Chẳng còn có một cách nào khác để xử lý với những điều thuộc về “xác thịt” ngoại trừ việc Chúa Cứu Thế Jêsus xử lý với nó trên thập tự giá, treo nó trên thập tự giá. Ấy chính nhờ thế mà chúng ta “biết rõ rằng người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh trên thập tự giá với Ngài, hầu cho thân thể của tội lỗi bị tiêu diệt đi, và chúng ta không phục dưới tội lỗi nữa” (Rô. 6:6); tức là chúng ta, nhờ đức tin, cũng cùng đóng đinh tính xác thịt của con người cũ trên thập tự giá, và ứng xứ với nó mỗi ngày như với một thứ đáng nguyền rủa chỉ đáng để treo lên thập tự giá cho chết đi mà thôi.
 
Thật là một điều đáng buồn khi nhận xét thấy không có nhiều Cơ Đốc Nhân suy nghĩ hay nói một cách nghiêm túc về tính chất tội lỗi trầm trọng không dò lường hết được của tính “xác thịt” – “Tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu [tức trong thân xác tôi]” (Rô. 7:18). Những ai toàn tín về điều ấy tất phải kêu lên rằng “Tôi cảm biết trong chi thể mình có một luật khác giao chiến với luật trong trí mình, bắt mình phải làm phu tù cho luật của tội lỗi, tức là luật ở trong chi thể tôi vậy. Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi  thân thể hay chết nầy?” (Rô. 7: 23, 24). Sung sướng thay cho những ai có thể đi tiếp một cách đúng đắn bước đi quyết dịnh để rồi có thể nói lên rằng “Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!... Vì luật pháp của Thánh Linh sự sống đã nhờ Đức Chúa Jêsus Christ buông tha tôi khỏi Luật Pháp của sự tội và sự chết” (Rô. 7: 25; 8: 2).
 
Cầu mong rằng qua những điều ấy chúng ta sẽ hiểu biết được Sự Định Mạng của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta! Tính “xác thịt” của chúng ta phải bị treo trên thập tự giá, còn Đức Thánh Linh thì ngự vào tấm lòng và điều khiển cuộc đời chúng ta.
 
Sự sống thuộc linh này ít khi được nhận thức hay theo đuổi; tuy nhiên quả đúng là Đức Chúa Trời đã từng hứa và sẽ hoàn thành lời hứa Ngài với những ai, theo mục đích ấy, chịu dâng mình vô điều kiện cho Ngài.
 
Vậy là chúng ta thấy được cội rễ sâu chắc, tệ hại nhất làm thành căn nguyên của một đời sống thiếu cầu nguyện. Tính “xác thịt” trong chúng ta có thể bảo với chúng ta rằng “cầu nguyện như thế là đủ rồi”, cứ xem như thế là đủ “tôn giáo lắm rồi, “lương tâm ơi thôi cứ ngủ yên đi!”. Tính “xác thịt” không bao giờ muốn mà cũng không sao có đủ sức mạnh cho một sự cầu nguyện nhằm tím kiếm một sự hiểu biết thân mật với Đức Chúa Trời để rồi thỏa vui trong mối tương giao với Ngài, để rồi cứ tiếp tục đòi cho có được sức mạnh của Ngài. Do đó, chúng ta phải đi đến một kết luận là tính “xác thịt” phải bị khước từ, phải bị đóng đinh trên thập tự giá.
 
Những Cơ Đốc Nhân vẫn cứ còn trong tính “xác thịt” vừa không có được khuynh hướng vừa không có được sức mạnh để theo Chúa. Họ tự thỏa mãn dừng lại ở sự cầu nguyện theo thói quen, theo tập quán. Thế nhưng sự vinh quang và điều phước hạnh của một đời sống cầu nguyện riêng tư vẫn cứ là điều chưa được bày tỏ đối với họ cho đến một ngày kia mắt họ được mở ra và họ nhận thức được rằng tính “xác thịt” vốn có khuynh hướng tách ly khỏi Đức Chúa Trời, rằng chính nó là kẻ thù hàng đầu khiến cho sự cầu nguyện đầy quyền năng trở thành điều bất khả thi đối với họ.
​“Hãy vui mừng trong sự trông cậy, nhịn nhục trong sự hoạn nạn, bền lòng mà cầu nguyện.”
​(Rô. 12:12)
4_một_trong_nhiều_nguyên_nhân_của_sự_thiếu_cầu_nguyện.pdf
File Size: 367 kb
File Type: pdf
Download File


“SỰ THIẾU CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CHĂN BẦY KHIẾN DẪN ĐẾN MỘT SỰ TỔN THẤT KHỦNG KHIẾP CHO HỘI THÁNH”

26/10/2018

 
Picture






​“Tự thân nhà lãnh đạo Cơ Đốc không có năng lực dẫn dắt dân sự của Đức Chúa Trời đi theo tiếng phán của Ngài; họ chỉ có thể dẫn dắt dân sự của Đức Chúa Trời đi theo tiếng phán của Ngài khi họ đã nghe được tiếng phán của Ngài qua Lời Ngài và qua đời sống cấu nguyện của mình!”
(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Phận sự của người chăn bầy là đào tạo cho anh chị em tín hữu có được một đời sống cầu nguyện; nhưng làm thế nào có thể có được điều ấy khi mà chính bản thân người chăn bầy còn non yếu trong nghệ thuật nói chuyện với Đức Chúa Trời và nhận lãnh ân điển thiên đàng dư dật hàng ngày từ Đức Thánh Linh cho chức vụ của mình? Một người chăn bầy không thể nào tự nâng đỡ cho hội chúng lên đến một tầm cao hơn mình được. Người chăn bầy không thể nào chỉ với lòng nhiệt tình cứ bày đường vẽ lối cho mọi người còn chính bản thân lại không sống theo những gì mình thuyết giảng.
 
Có biết bao nhiêu ngàn tín hữu hầu như chẳng biết gì mấy về phước hạnh của sự tương giao qua cầu nguyện với Đức Chúa Trời! Biết bao người còn biết rất ít và có sự khát khao được biết nhiều hơn về điều ấy nhưng qua sự giảng dạy trong Hội Thánh họ không được khuyên giục thường xuyên để tiếp tục cho đến khi nắm bắt được phước hạnh này!
 
Căn nguyên thật đơn giản: Những người chăn bầy vẫn còn biết quá ít về bí quyết của sự cầu nguyện có quyền năng và vẫn còn chưa dành cho sự cầu nguyện một vị trí thỏa đáng trong sự hầu việc của mình mà theo bản chất của nó cũng như theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì đó là một sự cần thiết tất yếu. Hội Thánh của chúng ta sẽ đổi khác biết chừng nào nếu như những người chăn bầy đều nhận biết một cách đầy đủ và thỏa đáng đối với tội thiếu cầu nguyện và được đem ra khỏi tội ấy!
“15Vậy nên, sau khi tôi có nghe đức tin anh em hướng về Đức Chúa Jêsus và tình yêu thương đối với các thánh đồ,
16thì tôi vì anh em cảm tạ không thôi, thường nhắc đến anh em trong khi cầu nguyện.
17Tôi cầu Đức Chúa Trời của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha vinh hiển, ban thần trí của sự khôn sáng và của sự tỏ ra cho anh em,
để nhận biết Ngài, 18lại soi sáng con mắt của lòng anh em, hầu cho biết điều trông cậy về sự kêu gọi của Ngài là thể nào,
sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển Ngài cho các thánh đồ là làm sao, 19và biết quyền vô hạn của Ngài,
đối với chúng ta có lòng tin, là lớn dường nào, y theo phép tối thượng của năng lực mình.”

​(Êph. 1:15-19)
“​8Vả, khi đó, dân Amaléc đến khiêu chiến cùng Ysơraên tại Rêphiđim.
9Môise bèn nói cùng Giôsuê rằng: Hãy chọn lấy tráng sĩ cho chúng ta, ra chiến đấu cùng dân Amaléc;
ngày mai ta sẽ đứng nơi đầu nổng, cầm gậy của Đức Chúa Trời trong tay.
10Giôsuê bèn làm y như lời Môise nói, để cự chiến dân Amaléc;
còn Môise, Arôn và Hurơ lên trên đầu nổng.
11Vả, hễ đương khi Môise giơ tay lên, thì dân Ysơraên thắng hơn;
nhưng khi người xụi tay xuống, dân Amaléc lại thắng hơn.
12Tay Môise mỏi, Arôn và Hurơ bèn lấy đá kê cho người ngồi, rồi ở hai bên đỡ tay người lên;
tay người chẳng lay động cho đến khi mặt trời lặn.
13Giôsuê lấy lưỡi gươm đánh bại Amaléc và dân sự người.”

​(Xuất. 17:8-13)
“2Mười hai Sứ Đồ bèn gọi hết thảy môn đồ nhóm lại, mà nói rằng:
Bỏ sự dạy đạo Đức Chúa Trời mà giúp việc bàn tiệc thật chẳng xứng hợp.
3Vậy anh em hãy chọn trong bọn mình bảy người có danh tốt,
đầy dẫy Đức Thánh Linh và trí khôn, rồi chúng ta sẽ giao việc nầy cho.
4Còn chúng ta sẽ cứ chuyên lo về sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo.”

(Công. 6:2-4)
(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph. D.)
3_sự_thiếu_cầu_nguyện_của_người_chăn_bầy_khiến_dẫn_Đến_một_sự_tổn_thất_khủng_khiếp_cho_hội_thánh.pdf
File Size: 388 kb
File Type: pdf
Download File


“THIẾU SỰ CẦU NGUYỆN LÀ CĂN NGUYÊN CỦA MỘT ĐỜI SỐNG THUỘC LINH CÒM CÕI”

25/10/2018

 
Picture
​







​"Thiếu sự cầu nguyện với Đức Chúa Trời luôn luôn đồng nghĩa với việc thất dưỡng thuộc linh!"

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Tình trạng thiếu cầu nguyện là chứng cứ cho thấy rằng đời sống của chúng ta vẫn còn ở trong vòng kiềm tỏa của xác thịt. Sự cầu nguyện là nhịp đập của đời sống qua đó người ta có thể biết được thực trạng của con tim. Tội lỗi về sự thiếu cầu nguyện chính là chứng tích cho thấy một Cơ Đốc Nhân hoặc một người chăn bầy hạng xoàng, nó nói lên rằng sự sống của Đức Chúa Trời trong tâm linh người ấy đang ở trong một cơn bịnh trầm kha, trong một sự èo uột kiệt quệ.
 
Người ta nói nhiều và than phiền nhiều về tình trạng yếu đuối của Hội Thánh khiến không hoàn thành nổi sự kêu gọi của mình, không ảnh hưởng nổi trên dân sự của mình để giải thoát họ ra khỏi sự cầm buộc của thế gian, và không giúp cho họ có được một đời sống thánh khiết để tận hiến cho Đức Chúa Trời. Người ta cũng nói nhiều đến sự hờ hững của Hội Thánh đối với hàng triệu người ngoại giáo là những người mà Chúa Cứu Thế đã ủy thác cho Hội Thánh nhiệm vụ giúp cho họ biết được về tình yêu và về sự cứu rỗi của Ngài.
 
Nguyên nhân nào khiến hàng ngàn nhân sự của Đức Chúa Trời không thể có được một ảnh hưởng lớn hơn? Chẳng có nguyên nhân nào khác hơn là sự thiếu cầu nguyện cho sự hầu việc của họ. Ẩn kín bên trong tất cả những sự sốt sắng học hỏi và làm việc cho Hội Thánh, bên trong tất cả sự trung tín giảng dạy và khuyên bảo dành cho mọi người, họ thiếu một sự cầu nguyện không ngừng nghỉ là điều vốn gắn liền với lời hứa về Đức Thánh Linh và về quyền năng Thiên Thượng. Không còn gì khác hơn là tình trạng thiếu cầu nguyện, chính đó là căn nguyên khiến cho không thể có được một dời sống thuộc linh đầy quyền năng.
“1Những điều chiến đấu tranh cạnh trong anh em bởi đâu mà đến?
Há chẳng phải từ tình dục anh em vẫn hay tranh chiến trong quan thể mình sao?
2Anh em tham muốn mà chẳng được chi; anh em giết người và ghen ghét mà chẳng được việc gì hết;
anh em có sự tranh cạnh và chiến đấu; anh em chẳng được chi, vì không cầu xin.
3Anh em cầu xin mà không nhận lãnh được, vì cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục mình.”

​(Gia. 4:1-3)
2_thiếu_sự_cầu_nguyện_là_căn_nguyên_của_một_Đời_sống_thuộc_linh_còm_cõi.pdf
File Size: 279 kb
File Type: pdf
Download File


“THIẾU SỰ CẦU NGUYỆN LÀ MỘT ĐIỀU ĐÁNG CHÊ TRÁCH TRƯỚC MẶT ĐỨC CHÚA TRỜI”

24/10/2018

 
Picture





​
​"Không thể có sự giao thông khi chưa tiếp có sự giao tiếp; sự cầu nguyện là việc phải thiết lập đầu tiên trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời!"
(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

Nếu muốn lương tâm nói lên được đúng tiếng nói của nó, và nếu muốn một tấm lòng ăn năn cảm biết được nỗi khốn khổ như vốn có, thì điều không thể thiếu được là mỗi người phải xưng hết các tội lỗi của mình. Sự xưng nhận phải được thực hiện nghiêm túc nơi từng cá nhân. Đối với một người chăn bầy, có lẽ chẳng có tội lỗi nào đáng cho chúng ta thừa nhận là “tội lỗi, rất tội lỗi” hơn là tội thiếu cầu nguyện!
 
Thế thì điều gì đã làm cho sự thiếu cầu nguyện trở nên một tội nặng đến như thế? Trước hết, nó được xem như một trạng thái yếu đuối. Người ta viện cớ nhiều về việc thiếu thời gian và về nhiều lý do khiến xao lãng việc cầu nguyện để cho sự đáng trách của tình trạng ấy không còn được công nhận. Ước mong sao chúng ta sẽ có được một sự khát khao thật lòng rằng trong tương lai chúng ta sẽ nhìn nhận tội thiếu cầu nguyện thực sự là một diều tội lỗi.
 
Chính một Đức Chúa Trời thánh khiết và hiển vinh hơn hết đã mời gọi chúng ta đến với Ngài, đối thoại cùng Ngài, cầu xin nơi Ngài những gì chúng ta có cần, và nếm biết sự phước hạnh có sẵn trong mối tương giao với Ngài. Chính Ngài đã tạo dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài và đã cứu chuộc chúng ta nhờ Con Độc Sanh của Ngài nên khi tương giao cùng Ngài chúng ta sẽ tìm lại được sự vinh quang cao nhất cho chúng ta và củng cố được cho sự cứu rỗi cho chúng ta.
 
Chúng ta đã vận dụng đặc ân Thiên Thượng này như thế nào? Có biết bao nhiêu người chỉ có thể có vỏn vẹn chừng năm phút mỗi ngày cho sự cầu nguyện! Họ nói rằng họ thiếu thời gian và rằng họ không cảm thấy ham thích cầu nguyện; họ không biết làm thế nào dùng cho hết chừng khoảng nửa giờ để nói chuyện với Đức Chúa Trời! Không phải là họ không cầu nguyện; họ cầu nguyện hàng ngày nhưng không hề thấy hứng thú gì đối với  sự cầu nguyện như thể là một dấu hiệu của sự tương giao với Đức Chúa Trời để cho thấy được rằng Đức Chúa Trời là tất cả đối với họ.
 
Nếu có một người bạn đến thăm, họ sẽ có thì giờ cho người bạn ấy; họ sẽ cố xoay sở cho có được thì giờ dành cho người bạn ấy, cho dầu phải chịu hy sinh ít nhiều như thế nào đó, chỉ nhằm để nói chuyện với nhau. Quả đúng là họ có đủ thì giờ cho những gì họ thích, nhưng họ lại thiếu thì giờ để thực hiện sự tương giao với Đức Chúa Trời và thỏa vui trong Ngài! Họ cố tạo ra cho có thì giờ dành cho một vật thọ tạo là cái có thể trở thành tiện ích cho họ; thế nhưng ngày này qua ngày nọ, tháng nọ sang tháng kia họ không tài nào có thể dành được lấy một giờ cho Đức Chúa Trời.
 
Lòng chúng ta không thấy hổ thẹn, không thấy được rằng mình đã xem thường Đức Chúa Trời đến là thế nào, khi chúng ta dám nói rằng chúng ta không thể có đủ thì giờ để tương giao cùng Ngài sao? Nếu tội lỗi ấy trông như đã hiển nhiên trong chúng ta, sao chúng ta lại còn chần chờ không dám thành thật thưa với Đức Chúa Trời rằng “Khốn nạn cho con, vì con chẳng ra gì. Chúa ôi! Xin hãy thương xót con, xin hãy tha thứ cho con tội thiếu cầu nguyện cùng Ngài”.
“16Hãy vui mừng mãi mãi,
17cầu nguyện không thôi,
18phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa;
vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ
đối với anh em là như vậy.”

(1Tê. 5:16-18)
thiếu_sự_cầu_nguyện_là_một_Điều_Đáng_chê_trách_trước_mặt_Đức_chúa_trời.pdf
File Size: 276 kb
File Type: pdf
Download File


“HÃY CẦU HÒA BÌNH CHO GIÊRUSALEM” (Thi. 122:6)

19/10/2018

 
Picture




"  Hãy Cầu Hòa Bình Cho Giêrusalem"
là mệnh lệnh của Đức Chúa Trời
chứ chẳng phải là sự tùy chọn của mỗi cá nhân
để mà muốn thì làm, không muốn thì thôi.
Tôi nay đã rao ra mệnh lệnh ấy của Ngài rồi,
thế là tay tôi
​
đã được sạch máu vô tội của nhiều người rồi!

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

​Tên gọi “Giêrusalem” có nghĩa là “Thành Của Hòa Bình” và có các hình thức viết khác nhau trong Kinh Thánh…
-     Cựu Ước: Hb. םלשׁורי [Yᵉruwshalaim] (Giô. 10:1); Hb.  םלשׁורי [Yᵉruwshalem] (Exr. 4:8)
-     Tân Ước: Gr.  ʽΙεροσόλυμα [Hierosoluma] (Ma. 2:1); Gr. ʽΙεροσολυμίτης [Hierosolumites] (Mác  1:5)
 
Giêrusalem nhận được từ được Kinh Thánh khá nhiều danh xưng và danh hiệu khác nhau…
-     “Xêla” (Giô. 18:28; Phục. 19:10),
-     “Siôn” (1Vua. 8:1; Xa. 9:13),
-     “Thành Đavít” (2Sa. 5:7; Ês. 22:9),
-     “Salem” (Sáng. 14:18; Thi. 76:2),
-     “Ariên” (Ês. 29:1),
-     “Thành Đức Chúa Trời” (Thi. 46:4),
-     “Kinh Đô Của Vua Cao Cả” (Thi. 48:2),
-     “Thành Của Người Giuđa” (2Sử. 25:28),
-     “Sự Đẹp Đẽ Trọn Vẹn”, “Sự Vui Mừng Của Cả Đất” (Ca. 2:15),
-     “Ngôi Của Đức Giêhôva” (Giê. 3:17),
-     “Núi Thánh” (Đa. 9:16, 20),
-     “Thành Thánh” (Nê. 11:1, 18; Mt 4:5),
-     “Thành Của Các Lễ Trọng Thể” (Ês. 33:20),
-     “Thành Chân Thật” (Xa. 8:3),
-     “Đức Giêhôva, Sự Công Bình Chúng Ta” (Giê. 33:16),
-     “Đức Giêhôva Ở Đó” (Êxê. 48:35).
 
Trên đời này chẳng có thành nào phải trải qua nhiều thăng trầm như thành Giêrusalem…
-     Mênchixêđéc là vua và Thầy Tế Lễ của Giêrusalem thời cổ đại (Sáng. 14:18).
-     Ađônixêđéc là vua của Giêrusalem đã liên minh với bốn vua khác của người Amôrít để chống lại GiôSuê và quân đội Ysơraên (Giô. 10:1-5).
-     Liên minh của Ađônixêđéc bị GiôSuê đánh bại, cả năm vua đều bị giết (Giô. 10:15-26).
-     Đã từng là sản nghiệp của chi phái Bêngiamin trong sự phân chia lãnh thổ Canaan (Giô. 18:28).
-     Đã được Đavít chiếm (2Sa. 5:7).
-     Người Giuđa đã không đuổi hết người Giêbusít ra khỏi Giêrusalem mà đáng lẽ ra họ đã phải đuổi cho sạch (Giô. 15:63; Quan. 1:21).
-     Đã được Đavít chiếm (1Sử. 11:4-6).
-     Đã ở dưới sự trị vì của Đavít trong ba mươi năm, được gọi là “Thành Đavít” (2Sa. 5:5-9; 1Ch 11:7).
-     Hòm Giao Ước đã được đem vào Giêrusalem (2Sa. 6:12-19).
-     Đavít đã mua sân đạp lúa của Arauna để lập bàn thờ cho Đức Giêhôva ở Giêrusalem (2Sa. 24:16-25).
-     Đavít đã cho xây tường chung quanh thành Giêrusalem (1Sử. 11:8).
-     Đã được Đức Chúa Trời chỉ định theo thẩm quyền Thiên Thượng để làm thủ đô cho Vương Quốc Đavít (1Vua. 15:4; 2Vua. 19:34; 2Sử. 6:6; 12:13).
-     Đã được vua Salômôn làm cho kiên cố thêm (1Vua. 3:1; 9:15).
-     Đã bị đánh phá, cướp bóc bởi tay vua Ai Cập là Sisắc (1Vua. 14:25-26; 2Sử. 12:9), bởi tay vua Ysơraên là Giôách (2Vua. 14:13-14; 2Sử. 25:23-24), và bởi tay vua Babylôn là Nêbucátnếtsa (2Vua. 24:8-16; 25:1-17; 2Sử. 36:17-21; Giê. 1:3; 32:2; 39; 52:4-7, 12-24; Ca. 1:5-8).
-     Được vua Ôxia cho trùng tu và củng cố các (2Sử. 26:9-10), Jotham (2Sử. 27:3), Manasseh (2Sử. 33:14).
-     Được vua Êxêchia cho xây dựng hệ thống cấp thoát nước cho thành (2Vua. 18:17; 20:20; 2Sử. 32:3-4, 30; Nê. 2:13-15; Ês. 7:3; 22:9-11; 36:2).
-     Đã bị vây hãm bới vua Siri là Phêca (2Vua. 16:5), the Philistines (2Sử. 21:16-17), Sennacherib (2Vua. 18:13-37; 19:20-37; 2Sử. 32).
-     Đã được tái thiết theo lệnh vua Pherơsơ là Siru (2Sử. 36:23; Exr. 1:1-4).
-     Đã được tái thiết dưới quyền lãnh đạo của Nêhêmi theo chuẩn lệnh của vua Ạttaxétxe (Nê. 2-6).
-     Các vách thành của Giêrusalem đã được khánh thành thời Nêhêmi  (Nê. 12:27-43).
-     Đời sống trong nhân trạng và các phép lạ của Đức Chúa Jêsus đã gắn liền với Giêrusalem (Mi. 4:2; Lu. 24:47; Công. 1:4; 2:14).
-     Tại Giêrusalem các môn đồ của Đức Chúa Jêsus đã bị bắt bớ và đã từ Giêrusalem mà tản lạc (Công. 8:1-4; 11:19-21).
-     Có lời tiên tri nghịch cùng Giêrusalem (Ês. 3:1-8; Giê. 9:11; 19:6, 15; 21:10; 26:9, 11; Đa. 9:2, 27; Mi. 1:1; 3:12) về (1) Dịch tể, đói kém, và chiến tranh (Giê. 34:2; Êxê. 5:12; Giôên 3:2-3; Am. 2:5), và về (2) Sự tàn phá thành (Giê. 7:32-34; 26:18; 32:29, 31-32; Đa. 9:24-27).
-     Đức Chúa Jêsus đã nói tiên tri về sự tàn phá thành Giêrusalem (Mt 23:37-38; 24:15; Mk 13:14-23; Lk 13:35; 17:26-37; 19:41-44; 21:20-24).
-     Có lời tiên tri về việc tái thiết thành Giêrusalem (Ês. 44:28; Giê. 31:38-40; Êxê. 48:15-22; Đa. 9:25; Xa. 14:8-11).
-     Có lời tiên tri về sự phục hồi chung cuộc cho thành Giêrusalem (Giôên 3:20-21; Xa. 2:2-5; 8).
 
Thành Giêrusalem đã từng phải chịu chà đi, xát lại quá nhiều lần…
Giêrusalem, “Thành Của Hòa Bình”, trong phần lớn bề dày lịch sử hơn ba ngàn năm của mình đã luôn luôn phải chịu cảnh chiến tranh.
 
Ngay từ khi mới bắt đầu đào bới Giêrusalem thì các nhà khảo cổ học đã phải rất ngạc nhiên vì họ nhận ra được rằng thành này có quá nhiều tầng chôn vùi khác nhau: Có nơi đã từng bị tàn phá cho đến bốn mươi lần! Tầng đã bị chôn vùi sâu nhất là hơn mười tám mét dưới mặt đất.
 
Theo tác phẩm “Jerusalem Besieged: From Ancient Canaan to Modern Israel” (“Giêrusalem: Thành Bị Vây Từ Thời Mới Vào Canaan Cho Đến Nay”) của Eric Cline thì thành Giêrusalem đã phải hứng chịu ít nhất là 118 lần tranh chấp mà lần đầu tiên là vào năm 1350 TC. và điều này là phù hợp với sự trước thuật trong Giô. 10, mở ra thời kỳ Ysơraên làm chủ thành Giêrusalem.
 
Eric Cline cho rằng thành Giêrusalem đã bị hủy diệt hoàn toàn ít nhất là hai lần: Lần thứ nhất dưới thời vua Nêbucátnếtsa của đế quốc Babylôn (Sv. 2Vua. 25:8-10), và lần thứ hai là dưới thời đại đế Titus của đế quốc  La Mã vào năm 70 SC. Hoàng đế La Mã Hadrian cũng đã cho tàn phá một phần của thành vào năm 135 SC. và đến năm 1260 SC người Mông Cổ cũng đã hủy diệt mất diệt ít nhất là một phần khác của thành. Thêm vào đó là thành Giêrusalem đã 40 lần bị chiếm đoạt và 23 lần thành bị vây hãm khốn đốn.
 
Sau cuộc chiến năm 1948 phần Tây của thành Giêrusalem ở dưới sự kiểm soát của Ysơraên còn phần Đông của thành thì bị Jordan chiếm. Đến năm 1967 Ysơraên đã tái chiếm phần ấy để sáp nhập vào Giêrusalem và bị cộng đồng quốc tế xem như là một sự chiếm đóng quân sự cho đến ngày nay.
 
Còn bao nhiêu lần nữa…
Thành Giêrusalem sẽ phải còn hứng chịu bao nhiêu lần chà xát nữa thì chúng ta không sao biết được nhưng chúng ta tin chắc rằng sẽ còn (ít nhất) là một lần nữa khi Giêrusalem được giải quyết bằng chiến sự. Xa. 14:2-5 tiên tri về một trận chiến kinh hoàng khi mà mọi dân tộc sẽ vào hùa nhau vây hãm thành trong kỳ mạt thế:
 
“1 Nầy, ngày của Đức Giêhôva đến, những của cướp ngươi sẽ bị chia giữa ngươi. 2 Vậy ta sẽ nhóm mọi nước lại tranh chiến cùng Giêrusalem, và thành sẽ bị lấy, nhà sẽ bị cướp, đàn bà sẽ bị hãm, phân nửa thành sẽ đi làm phu tù; nhưng dân còn lại sẽ không bị trừ bỏ khỏi thành. 3 Bấy giờ Đức Giêhôva sẽ ra đánh cùng các nước đó, như Ngài đã đánh trong ngày chiến trận. 4 Trong ngày đó, chân Ngài sẽ đứng trên núi Ôlive, là núi đối ngang Giêrusalem về phía Đông; và núi Ôlive sẽ bị xé ra chính giữa về phía Đông và phía Tây, đến nỗi thành ra một trũng rất lớn; phân nửa núi dời qua phương Bắc, phân nửa dời qua phương Nam. 5 Các ngươi sẽ trốn trong trũng núi, vì trũng núi ấy sẽ chạy dài đến Átsan; và các ngươi sẽ đi trốn như là trốn khỏi cơn động đất đang ngày Ôxia, vua Giuđa. Bấy giờ Giêhôva Đức Chúa Trời ta sẽ đến, hết thảy các thánh sẽ ở cùng ngươi.” (Xa. 14:1-5 )
 
Trận chiến này sẽ là một trận chiến trước chưa bao giờ có, sau không bao giờ còn và chính Chúa sẽ tái lâm chiến đấu cho Thành Của Ngài, giải quyết cách triệt để mọi vấn đề trên thế gian này…
 
“14 Đoàn đông dường nào, đoàn đông dường nào tại trong trũng đoán định! Vì trong trũng đoán định, ngày Đức Giêhôva đã gần. 15 Mặt trời và mặt trăng tối tăm, các ngôi sao thâu sự sáng lại. 16 Đức Giêhôva gầm thét từ Siôn; Ngài làm cho vang tiếng mình ra từ Giêrusalem; các từng trời và đất đều rúng động. Nhưng Đức Giêhôva là nơi ẩn náu cho dân mình, là đồn lũy cho con cái Ysơraên. 17 Như vậy các ngươi sẽ biết Ta là Giêhôva Đức Chúa Trời các ngươi, ở tại Siôn, là Núi Thánh Ta. Bấy giờ Giêrusalem sẽ là thánh, và những người ngoại sẽ không đi qua trong đó nữa. 18 Trong ngày đó, các núi nhỏ rượu ngọt ra; sữa chảy ra từ các đồi, hết thảy các khe Giuđa sẽ có nước chảy. Một cái suối sẽ ra từ nhà Đức Giêhôva và tưới trũng Sitim. 19 Êdíptô sẽ trở nên hoang vu, Êđôm thành ra đồng vắng hoang vu, vì cớ chúng nó lấy sự bạo ngược đãi con cái Giuđa, và làm đổ máu vô tội ra trong đất mình. 20 Nhưng Giuđa sẽ còn đời đời, Giêrusalem sẽ còn đời nầy qua đời khác. 21 Ta sẽ làm sạch máu chúng nó mà ta chưa từng làm sạch; vì Đức Giêhôva ngự trong Siôn.” (Giôên 3:16-20)
 
“14 Hỡi con gái Siôn, hãy hát! Hỡi Ysơraên, hãy kêu la! Hỡi con gái Giêrusalem, hãy hết lòng mừng rỡ và vui thích! 15 Đức Giêhôva đã trừ bỏ sự phán xét ngươi, khiến kẻ thù nghịch cách xa ngươi; Vua của Ysơraên, tức là Đức Giêhôva, ở giữa ngươi, ngươi sẽ không gặp tai vạ nữa. 16 Trong ngày đó, người ta sẽ nói cùng Giêrusalem rằng: Hỡi Siôn! Chớ sợ, tay ngươi chớ yếu đuối! 17 Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi ở giữa ngươi; Ngài là Đấng quyền năng sẽ giải cứu ngươi: Ngài sẽ vui mừng cả thể vì cớ ngươi; vì lòng yêu thương mình, Ngài sẽ nín lặng; và vì cớ ngươi Ngài sẽ ca hát mừng rỡ. 18 Ta sẽ nhóm lại những kẻ đương buồn rầu, vì cớ hội lớn; chúng nó đã ra từ ngươi, lấy sự xấu hổ làm gánh nặng. 19 Nầy, trong lúc đó, Ta sẽ diệt mọi kẻ làm cho ngươi buồn rầu; Ta sẽ cứu kẻ què, thâu kẻ đã bị đuổi, làm cho chúng nó được khen ngợi và nổi danh tiếng, tức là những kẻ đã bị sỉ nhục trong cả đất. 20 Trong lúc đó, Ta sẽ đem các ngươi trở về, trong lúc đó Ta sẽ nhóm các ngươi lại; vì Ta sẽ làm cho các ngươi nổi danh tiếng và được khen lao giữa mọi dân trên đất, khi Ta đem phu tù các ngươi về trước mặt các ngươi, Đức Giêhôva có phán vậy.” (Sôphôni 3:14-20)
 
“6 Trong ngày đó, Ta sẽ làm cho các trưởng Giuđa giống như một bếp lửa ở giữa đám củi, và như một đuốc lửa ở giữa những bó lúa, chúng nó sẽ thiêu nuốt bên hữu và bên tả hết thảy các dân tộc xung quanh; và dân cư Giêrusalem sẽ lại còn ở chỗ mình, tức là Giêrusalem. 7 Đức Giêhôva trước hết sẽ cứu những trại của Giuđa, hầu cho sự vinh hiển của nhà Đavít và sự vinh hiển của dân cư Giêrusalem không dấy lên trên Giuđa được. 8 Trong ngày đó, Đức Giêhôva sẽ làm Đấng Bảo Hộ của dân cư Giêrusalem, và trong ngày đó kẻ rất yếu trong chúng nó sẽ như Đavít, nhà Đavít sẽ như Đức Chúa Trời, sẽ như thiên sứ của Đức Giêhôva ở trước mặt chúng nó. 9 Xảy ra trong ngày đó ta sẽ tìm cách hủy diệt hết thảy những nước nào đến đánh Giêrusalem. 10 Ta sẽ đổ thần của ơn phước và của sự nài xin ra trên nhà Đavít, và trên dân cư Giêrusalem; chúng nó sẽ nhìn xem ta là Đấng chúng nó đã đâm; và chúng nó sẽ thương khóc, như là thương khóc con trai một, sẽ ở trong sự cay đắng, như khi người ta ở trong sự cay đắng vì cớ con đầu lòng.” (Xa. 12:6-10)
 
Rồi sao nữa…
Chính Đức Chúa Jêsus Christ sẽ tái lâm để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù của Dân Ngài và để thiết lập nên một nền hòa bình chân chính và vĩnh cửu trên thế gian này. Từ giờ cho đến ngày ấy chúng ta đã được lệnh truyền rằng phải cầu nguyện cho thành Giêrusalem, “Thành Của Hòa Bình”, “Thành Đức Chúa Trời”…
 
“Hãy cầu hòa bình cho Giêrusalem;_Phàm kẻ nào yêu mến ngươi sẽ được thới thạnh.” (Thi. 122:6)
 
Xin đừng hờ hững nữa!
Rất có thể chúng ta sẽ là những người may mắn được chứng kiến ngày vinh quang ấy của Đức Chúa Trời chúng ta!
haycauhoabinhchogierusalem.pdf
File Size: 680 kb
File Type: pdf
Download File


“ORDO SALUTIS LÀ GÌ?”

14/10/2018

 
Picture









​“Ordo Salutis” (Tiến Trình Cứu Rỗi”) là trật tự của những sự vận động của Đức Chúa Trời hoặc khởi xuất bới Đức Chúa Trời tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời của một người đã được Đức Chúa Trời tiền định cho sự cứu rỗi của Ngài trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ.
(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

“29Vì những kẻ Ngài đã biết trước,
 thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài,
hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em;
30còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi,
những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình,
và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển.”
(Rô. 8:29-30)
“Tiến Trình Cứu Rỗi” xuất phát từ một phạm trù thần trong Tiếng LaTinh là “Ordo Salutis” nói về các “bước” (hay “giai đoạn”) của việc một người “đi vào” (hay “nhận được”, “có được”) sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua và trong công nghiệp đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ trên Thập Tự Giá mà Ngài đã hoàn tất cho nhân loại.

Các “bước” của phạm trù này này, xuất phát từ sự dạy dỗ của Rô. 8:29-30, có tên gọi như sau: “Sự Tuyển Định”[1] (Election), “Sự Tiên Kiến” (Foreknowledge), “Sự Tiền Định” (Predestination), “Sự Cứu Chuộc” (Redemption), “Sự Tái Sanh” (Regeneration), “Sự Xưng Công Nghĩa” (Justification), “Sự Thánh Hóa” (Sanctification), “Sự Tôn Vinh” (Glorification). Việc các khái niệm này được đề cập trong Rô. 8:29-30 là điều ai cũng thấy, nhưng có sự khác nhau trong cách hiểu về thứ tự (điều gì đến trước, điều gì đến sau) của các “bước” này, tức quan hệ thứ tự của các khái niệm này. Trước hết, cần nên nắm vững định nghĩa của một số khái niệm quan trọng liên quan.
 
1.    “Sự Tiên Kiến” (Foreknowledge)
Sự biết trước của Đức Chúa Trời về việc ai sẽ có được sự cứu rỗi.
 
2.    “Sự Tiền Định” (Predestination)
ViệcĐức Chúa Trời định sẵn những ai sẽ được chọn cho sự cứu rỗi.
 
3.    “Sự Tuyển Định”, “Sự Lựa Chọn”, “Sự Chọn Lựa” (Election)
Việc Đức Chúa Trời chọn sẵn những người sẽ có được sự cứu rỗi.
 
4.    “Sự Tái Sanh” (Regeneration)
Việc Đức Chúa Trời làm cho một người được sống lại trên phương diện thuộc linh (là phương diện vốn ở trạng thái chết ngay từ khi một người được sinh ra - Sv. Tít 3:5)
 
5.    “Sự Truyền Giáo” (Evangelism)
Việc rao Tin Lành để giúp cho người nghe đáp ứng thuận đối với Tin Lành. “Sự Truyền Giáo” chính là một (trong những) phương thức kêu gọi của Đức Chúa Trời để giúp nhân loại có được sự cứu rỗi của Ngài (Sv. Ma. 28:19).
 
6.    “Đức Tin” (Faith)
 Việc một người tin và làm theo sứ điệp của Tin Lành (Sv. Êph. 2:8-9)
 
7.    “Biến Cải” (Conversion)
Việc một người quay về với Đức Chúa Trời dựa theo nội dung của Tin Lành (Sv. Công. 26:18)
 
8.    “Sự Bảo Tồn”, “Sự Bền Đỗ”, “Sự Kiên Tín” (Perseverance)
Trạng thái một người có có niềm tin chân thật ở trong sự duy trì đối với sự cứu rỗi mà bản thân đã có (Sv. Giu. 1:24)
 
9.    “Sự Ăn Năn” (Repentance)
Việc một người nhận thức được nhu cần cứu rỗi cho bản thân và thay đổi từ chỗ không có đến chỗ có đức tin đặt nơi Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. Công. 26:20)
 
10. “Sự Xưng Công Nghĩa”, “Sự Xưng Công Bình” (Justification)
Việc Đức Chúa Trời tha một người khỏi án phạt dành cho tội lỗi và nhìn nhận người ấy là đã được sạch tội (Sv. Rô. 5:9)
 
11.  “Sự Thánh Hóa”, “Sự Nên Thánh” (Sanctification)
Sự để riêng của Đức Chúa Trời để một người được đứng vững trước các sự réo gọi của tội lỗi (2Ti. 2:21)
 
12. “Sự Tôn Vinh”, “Sự Tôn Vinh Hiển” (Glorification)
Sự trừ bỏ chung cuộc của Đức Chúa Trời để một người thôi không thể còn phạm tội được nữa và thôi không còn phải đối diện với tội lỗi nữa (Sv. Rô. 8:18; 2Cô. 4:17)
 
Theo cách hiểu của người Tin Lành theo Phong Trào Cải Chánh, các “bước” của sự cứu rỗi diễn ra từ trước khi có dòng thời gian cho đến một người hiện diện trong dòng thời gian theo sơ đồ sau đây:

--
​
[1] Loài người “lựa” để “chọn”, hoặc “lựa” khi “chọn”, nên chúng ta vẫn thường nói “lựa chọn” hay “chọn lựa”. Khác với loài người, Đức Chúa Trời “chọn” mà không cần phải “lựa” vì Ngài không hề bị bất cứ yếu tố nào chi phối. Vì vậy, gọi “sự lựa chọn” (hay “sự chọn lựa”) của Đức Chúa Trời là “sự tuyển định” sẽ hợp lí hơn.
Picture

“KHEN NGỢI & KHÍCH LỆ”

12/10/2018

 
Picture






​…Khi một người thực sự ở trong công việc của Đức Chúa Trời thì người ấy chỉ nên tìm kiếm sự khích lệ từ Ngài qua Lời Ngài mà thôi vì chỉ duy nhất một mình Ngài là Đấng thực sự khích lệ kẻ hầu việc Ngài, còn lại tất cả mọi người chỉ biết khen ngợi nhau là chính…

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

“Các ngươi vẫn chịu vinh hiển lẫn của nhau,
 không tìm kiếm vinh hiển bởi một mình Đức Chúa Trời đến,
thì thể nào các ngươi tin được?”
(Gi. 5:44)
​Chúng ta thường ngộ nhận “khen ngợi” là “khích lệ” vì lời khen của người khác giúp đem lại xúc cảm dương tính tích cực cho chúng ta. Tuy nhiên, phản ứng dương tính tích cực đối với sự tiêu cực được Đức Chúa Trời kể là tiêu cực. Khi một người thực sự ở trong công việc của Đức Chúa Trời thì người ấy chỉ nên tìm kiếm sự khích lệ từ Ngài qua Lời Ngài mà thôi vì chỉ duy nhất một mình Ngài là Đấng thực sự khích lệ kẻ hầu việc Ngài, còn lại tất cả mọi người chỉ biết khen ngợi nhau là chính.
 
Thế nhưng, hễ khi nào chúng ta được khen thì phải nhớ Lu. 6:26 (“Khốn cho các ngươi, khi mọi người sẽ khen các ngươi, vì tổ phụ họ cũng xử với các tiên tri giả như vậy!” [Gr. ουαι υμιν οταν καλως υμας ειπωσιν παντες ανθρωποι κατα ταυτα γαρ εποιουν τοις ψευδοπροφηταις οι πατερες αυτων]) và hễ khi nào chúng ta cảm thấy muốn được khen thì hãy nhớ Gi. 5:44
 
“Các ngươi vẫn chịu vinh hiển lẫn của nhau, không tìm kiếm vinh hiển bởi một mình Đức Chúa Trời đến, thì thể nào các ngươi tin được?” [Gr. πως δυνασθε υμεις πιστευσαι δοξαν παρα αλληλων λαμβανοντες και την δοξαν την].
 
Cần chú ý cách đặc biệt đối với tiền trí ngữ "πῶς δύναμαι" trong câu Kinh Thánh này. Các lẽ thật này từ Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ khích lệ được cho nhiều người, nhưng đồng thời cũng không khỏi làm cho nhiều người “đau đầu” - nếu như họ còn may mắn biết đau đầu. Còn nếu họ đã hết biết đau đầu rồi thì - nói như các bạn trẻ vẫn hay nói - “bótay.com”!
khenngoivakhichle.pdf
File Size: 289 kb
File Type: pdf
Download File


“SỰ ĂN NĂN, SỰ CỨU RỖI, VÀ ĐỜI SỐNG CÔNG NGHĨA THỰC HÀNH”

11/10/2018

 
Picture







​… Sự ăn năn, sự cứu rỗi, và đời sống công nghĩa thực hành luôn gắn bó chặt chẽ với nhau thành một tổng thể bất khả phân ly và đó là chuẩn mực để Cơ Đốc Nhân có thể phân biệt ai là ai và cái gì là cái gì!

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

“8Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn,
9và đừng tự khoe rằng: Ápraham là Tổ chúng ta;
vì Ta nói cho các ngươi rằng
Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Ápraham được.
10Bây giờ cái búa đã để kề rễ cây;
vậy hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ phải đốn và chụm”
(Ma. 3:8-10)
​Có rất nhiều người hiểu rằng “sự ăn năn” chỉ thuần là việc “từ bỏ tội lỗi” nhưng hiểu như vậy thì chưa hết nghĩa theo Kinh Thánh được. Về cơ bản, theo Kinh Thánh, sự ăn năn là việc thay đổi “về nếp nghĩ” tức là “sự nhận thức”. Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết rằng sự ăn năn thật phải kết quả ở “việc làm” tức là “hành vi” nữa…
 
“8Thế thì, hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn; và đừng tự nói rằng: Ápraham là Tổ Phụ chúng ta; vì ta nói cùng các ngươi, Đức Chúa Trời có thể khiến từ những đá nầy sanh ra con cái cho Ápraham được. 9Cái búa đã để kề gốc cây; hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ bị đốn và chụm. 10Chúng bèn hỏi Giăng rằng: Vậy thì chúng tôi phải làm gì? 11Người đáp rằng: Ai có hai áo, hãy lấy một cái cho người không có; và ai có đồ ăn cũng nên làm như vậy. 12Cũng có những người thâu thuế đến để chịu Phép Báptêm; họ hỏi rằng: Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? 13Người nói rằng: Đừng đòi chi ngoài số luật định. 14Quân lính cũng hỏi rằng: Còn chúng tôi phải làm gì? Người nói rằng: Đừng hà hiếp, đừng phỉnh gạt ai hết, nhưng hãy bằng lòng về lương hướng mình” (Lu. 3:8-14)
 
“Vậy, các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi” (Công. 3:19)
 
Đó là Lẽ Thật Kinh Thánh và cho dầu ở trong hoàn cảnh khó khăn, các vị Sứ Đồ cũng vẫn cứ nói thật về sự ăn năn:
 
“19Tâu vua Ạcrípba, từ đó, tôi chẳng hề dám chống cự với sự hiện thấy trên trời; 20nhưng đầu hết tôi khuyên dỗ người thành Đamách, kế đến người thành Giêrusalem và cả xứ Giuđê, rồi đến các Dân Ngoại rằng phải ăn năn và trở lại cùng Đức Chúa Trời, làm công việc xứng đáng với sự ăn năn” (Công. 26:19-20)
 
Vậy, sự ăn năn có liên quan với sự cứu rỗi và đời sống công nghĩa thực hành ra sao? Sách Công Vụ Các Sứ Đồ nhấn mạnh nhiều đến mối liên quan giữa sự ăn năn và sự cứu rỗi (Công. 2:38; 3:19; 11:18; 17:30; 20:21; 26:20). Trong mối liên quan với sự cứu rỗi thì sự ăn năn chính là việc thay đổi “về nếp nghĩ” về Đức Chúa Jêsus, tức là về sự nhận thức về Đức Chúa Jêsus. Chính vì vậy mà Sứ Đồ Phierơ đã kết thúc bài giảng của mình trong Ngày Lễ Ngũ Tuần bằng việc kêu gọi hãy ăn năn:
 
“Phierơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Đức Chúa Jêsus chịu Phép Báptêm, để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh” (Công. 2:38)
 
Sứ Đồ Phierơ đã kêu gọi hãy ăn năn về điều gì? Sự ăn năn mà Sứ Đồ Phierơ kêu gọi ở đây đồng nghĩa với sự thay đổi trong nhận thức về Đức Chúa Jêsus:
 
“Vậy, cả nhà Ysơraên khá biết chắc rằng Đức Chúa Trời đã tôn Jêsus nầy, mà các ngươi đã đóng đinh trên thập tự giá, làm Chúa và Đấng Christ” (Công. 2:36)
 
Sự Ăn Năn và Đức Tin có thể được xem như là hai mặt của cùng một vấn đề: Sự Ăn Năn và Đức Tin chính là điều kiện cần và đủ của sự cứu rỗi. Không thể có việc một người đặt niềm tin của mình trong Đức Chúa Jêsus mà trước đó không thay đổi về nhận thức về Thân Vị và Công Nghiệp của Ngài. Cho dầu sự nhận thức ấy được thay đổi từ việc không biết Ngài cho đến việc biết Ngài, từ việc không quan tâm về Ngài đến việc quan tâm về Ngài, từ việc bất kính Ngài đến việc tôn kính Ngài thì tất cả cũng đều là sự thay đổi về nhận thức, sự thay đổi thuộc lĩnh vực trí năng. Như vậy, xét trong mối quan hệ với sự cứu rỗi, sự ăn năn hợp Kinh Thánh là việc thay đổi nhận thức từ chỗ khước từ Ngài đến chỗ tiếp nhận Ngài bằng Đức Tin.
 
Thế nhưng chúng ta nhất thiết không được phép nghĩ rằng sự ăn năn là một việc chúng ta phải làm để có được sự cứu rỗi. Không một ai tự có năng lực ăn năn mà tất cả đều phải được Đức Chúa Trời ban cho:
 
“Ví bằng Cha, là Đấng sai Ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng Ta, và Ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt” (Gi. 6:44)
 
Phương diện Ân Điển của sự ăn năn cũng được Sách Công Vụ Các Sứ Đồ khẳng định rất rõ: Không thể có sự ăn năn ngoài Ân Điển của Đức Chúa Trời!
 
“Đức Chúa Trời đã đem Đấng ấy lên bên hữu Ngài, làm Vua và Cứu Chúa, để ban lòng ăn năn và sự tha tội cho dân Ysơraên” (Công. 5:31)
 
“Tín đồ nghe bấy nhiêu lời xong, đều thỏa thuận và ngợi khen Đức Chúa Trời, rằng: Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho Người Ngoại để họ được sự sống!” (Công. 11:18)
 
Thật ra tất cả mọi sự có liên quan đến sự cứu rỗi đều là kết quả của việc Đức Chúa Trời đem người được cứu trở về với Ngài. Để con người có được sự ăn năn thì Đức Chúa Trời đã phải di bước trước bằng sự nhịn nhục và nhân từ của Ngài…
 
“Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (2Phi. 3:9)
 
“Hay là ngươi khinh dể sự dư dật của lòng nhân từ, nhịn nhục, khoan dung Ngài, mà không nhận biết lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đem ngươi đến sự ăn năn sao?” (Rô. 2:4)
 
Cũng còn một phương diện khác không thể bỏ qua được. Mặc dầu sự ăn năn không phải là một việc làm giúp đem lại sự cứu rỗi nhưng Ân Điển Ăn Năn cùng với Ân Điển Đức Tin dẫn đến Ân Điển Cứu Rỗi khiến cho một người thực sự có sự ăn năn phải có đời sống công nghĩa thực hành. Kinh Thánh đòi hỏi sự ăn năn của một người phải kết quả qua hành vi của họ. Chính vì thế mà Giăng Báp Tít đã đưa ra lời kêu gọi và cảnh báo này:
 
“8Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, 9và đừng tự khoe rằng: Ápraham là Tổ chúng ta; vì Ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Ápraham được. 10Bây giờ cái búa đã để kề rễ cây; vậy hễ cây nào không sanh trái tốt thì sẽ phải đốn và chụm” (Ma. 3:8-10)
 
Một người đã thực sự ăn năn, tức là đã từ chỗ phủ nhận Đức Chúa Jêsus đến chỗ đặt đức tin nơi Ngài, phải được minh thị qua việc đời sống của mình được thay đổi…
 
“Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2Cô. 5:17)
 
“19Vả, các việc làm của xác thịt là rõ ràng lắm: Ấy là gian dâm, ô uế, luông tuồng, 20thờ hình tượng, phù phép, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, buồn giận, cãi lẫy, bất bình, bè đảng, 21ganh gổ, say sưa, mê ăn uống, cùng các sự khác giống như vậy. Tôi nói trước cho anh em, như tôi đã nói rồi: Hễ ai phạm những việc thể ấy thì không được hưởng nước Đức Chúa Trời. 22Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ: 23Không có Luật Pháp nào cấm các sự đó” (Gal. 5:19-23)
 
“14Hỡi anh em, nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? 15Ví thử có anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hằng ngày, 16mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng? 17Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết” (Gia. 2:14-17)
 
Sự ăn năn, sự cứu rỗi, và đời sống công nghĩa thực hành luôn gắn bó chặt chẽ với nhau thành một tổng thể bất khả phân ly và đó là chuẩn mực để Cơ Đốc Nhân có thể phân biệt ai là ai và cái gì là cái gì!
sự_Ăn_năn_sự_cứu_rỗi_và_Đời_sống_công_nghĩa_thực_hành.pdf
File Size: 481 kb
File Type: pdf
Download File


“KINH THÁNH DẠY GÌ VỀ SỰ TỰ DO CƠ ĐỐC?”

10/10/2018

 
Picture








​… Bằng chứng hùng hồn nhất của sự tự do Cơ Đốc là đời sống dấn thân phục vụ chứ không phải là đời sống tìm kiếm sự phục vụ cho bản thân…

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

“Hỡi anh em, anh em đã được gọi đến sự tự do,
song chớ lấy sự tự do đó làm dịp cho anh em ăn ở theo tánh xác thịt,
nhưng hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau”
(Gal. 5:13)
​Khái niệm “Sự Tự Do Cơ Đốc” được tìm thấy trong một số phạm trù Kinh Thánh khác nhau. Chẳng hạn, đó là sự tự do mà Cơ Đốc Nhân có được khi  họ được tha khỏi án phạt dành cho tội lỗi khi họ đặt đức tin của mình nơi Đức Chúa Jêsus Christ (Sv. Gi. 8:31-36; Rô. 6:23). Sự tự do Cơ Đốc cũng có thể đực hiểu là sự tự do của Cơ Đốc Nhân khi họ được giải thoát khỏi ách của tội lỗi nhờ hàng ngày họ chịu sống trong đức tin đặt nơi Chúa và Cứu Chúa của mình (Sv. Rô. 6:5-6,14). Trên một phương diện khác, sự tự do Cơ Đốc cũng có thể được hiểu là sự tự do của Cơ Đốc Nhân trong việc họ không còn chịu sự ràng buộc của Luật Pháp Môise là Luật Pháp chỉ khiến cho người ta biết là mình phạm tội chứ không tha tội cho họ được (Sv. Rô. 3:20-22).
 
Rộng hơn, sự tự do Cơ Đốc có thể hàm ý là Cơ Đốc Nhân được tự do đối với những gì không bị cấm đoán tỏ tường trong Kinh Thánh. Trong cách hiểu này, Cơ Đốc Nhân được tự do cho đến khi nào họ chưa tự làm tổn hại bản thân (Sv. 1Cô. 6:12), chưa gây vấp phạm cho tha nhân (Sv. 1Cô. 10:23), và chưa khiến cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời bị xem nhẹ (Sv. 1Cô. 10:31). Người ta thường có khuynh hướng muốn xác định một việc cụ thể nào đó là “nên làm” hay “nên tránh”, đó là một khuynh hướng tốt nhưng việc nắm vững các nguyên tắc vừa kể sẽ tạo nên một qui chuẩn tổng quát cho hành vi. Cần chú ý thêm rằng Rô. 14:12-16 có dạy cho chúng ta biết rằng có những điều dầu Kinh Thánh không cấm chỉ nghiêm ngặt nhưng chúng có thể khiến cho đời sống thuộc linh của chúng ta trở nên trục trặc, và trở thành cớ vấp phạm đối với tha nhân. Quyền tự do của Cơ Đốc Nhân lắm khi lại là quyền từ chối tự do cho bản thân vì lợi ích của tha nhân.
 
Có một điều khác cần nên chú ý là, một mặt, lắm khi các Cơ Đốc Nhân có khuynh hướng đấu tranh mạnh mẽ cho tự do của bản thân chính là những Cơ Đốc Nhân tự đánh mất bản thân trong những lối sống thiếu kỷ cương. Nhưng mặt khác, các Cơ Đốc Nhân có khuynh hướng khắc kỷ cứng rắn thường dễ trở nên những Cơ Đốc Nhân của “chủ nghĩa luật pháp” với đặc trưng là một lối sống chỉ toàn những điều “chống và tránh” một cách máy móc. Cơ Đốc Nhân khôn ngoan là những người biết tìm cầu ý chỉ của Đức Chúa Trời qua các nguyên tắc hợp Kinh Thánh trong một đời sống cầu nguyện mật thiết với Ngài. Đây là một đời sống giữ được sự cân bằng giữa ba nguyên tắc then chốt của sự tự do Cơ Đốc hợp Kinh Thánh: Nguyên tắc có ích (Sv. 1Cô. 6:12), nguyên tắc gây dựng (Sv. 1Cô. 10:23), và nguyên tắc tôn vinh hiển (Sv. 1Cô. 10:31).
 
Ba nguyên tắc kể trên là mục tiêu tối hậu của đời sống Cơ Đốc. Khi nào các nguyên tắc ấy được giữ vững, Cơ Đốc Nhân có sự tự do Cơ Đốc (Sv. 2Phi. 2:19b). Chỉ trong một chừng mực như vậy Cơ Đốc Nhân mới có thể sống một đời sống làm chứng tốt cho Đức Chúa Trời đối với thế giới hư mất này (Sv. Thi. 19:14; Rô. 15:1-2; 2Cô. 2:15-16; 1Phi. 2:11-12).
 
Bằng chứng hùng hồn nhất của sự tự do Cơ Đốc là đời sống dấn thân phục vụ chứ không phải là đời sống tìm kiếm sự phục vụ cho bản thân:
 
“Hỡi anh em, anh em đã được gọi đến sự tự do, song chớ lấy sự tự do đó làm dịp cho anh em ăn ở theo tánh xác thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau” (Gal. 5:13)

“XU HƯỚNG ĐỊNH KỲ TRONG THẦN HỌC HỆ THỐNG”

9/10/2018

 
Picture


​Từ liệu “Xu Hướng Định Kỳ” xuất phát từ cách hiểu về các “Sự Định Kỳ” của Đức Chúa Trời được tìm thấy qua Kinh Thánh. Đó là các sự định kỳ sau đây: [1] “Sự Định Kỳ Vô Tội” (Sv. Sáng. 1:1 - 3:7), [2] “Sự Định Kỳ Lương Tâm” (Sv. Sáng. 3:8 - 8:22), [3] “Sự Định Kỳ Qui Chế” (Sv. Sáng. 9:1 - 11:32), [4] “Sự Định Kỳ Hứa Ngôn” (Sv. Sáng. 12:1 - Xuất. 19:25), [5] “Sự Định Kỳ Luật Pháp” (Sv. Xuất. 20:1 - Công. 2:4), [6] “Sự Định Kỳ Ân Điển” (Sv. Công. 2:4 - Khải. 20:3), và [7] “Sự Định Kỳ Thiên Hi Niên” (Sv. Khải. 20:4-6). Điều đáng chú ý là tên gọi cho các sự định kỳ này không thể tìm thấy qua Kinh Thánh, nhưng nội dung của các sự định ấy lại đúng theo các tên gọi này chứ chẳng sai. Từ sự phân tích này về các Sự Định Kỳ của Đức Chúa Trời, người ta vững tin rằng Đức Chúa Trời hành sử với nhân loại theo các cách thế của Ngài suốt dòng lịch sử, và rằng Hội Thánh và Ysơraên là hai thực thể phân biệt là điều hữu lý. Đó là cách hiểu căn bản của Xu Hướng Định Kỳ trong Thần Học Hệ Thống.

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

“Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình.
Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em,
song phải hiền hòa và kính sợ”
(1Phi. 3:15)
Trong việc nghiên cứu một bộ tuyển tập gồm 66 Sách Kinh Thánh khác nhau được trước thuật bởi 40 Trước Giả khác nhau trong suốt một thời gian dài hơn 1500 năm, việc định cho được một qui chuẩn thông giải chung là một việc rất thiết yếu. Sách cuối cùng của Kinh Thánh đã được hoàn tất gần 2000 năm trước đây. Cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều đã được trước thuật trong những khác biệt sâu sắc về văn hóa và ngôn ngữ. Quả thật phần lớn các Sách Kinh Thánh mang tính chất lịch sử nhưng vẫn có các Sách khác mang tính phúng dụ và biểu tượng, lại cũng còn có các Sách thơ văn và tiên tri nữa. Việc làm thế nào để hợp nhất các văn thể, văn thái khác nhau của các Sách Kinh Thánh và xác định được sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả Kinh Thánh của Đức Chúa Trời là một việc làm đòi hỏi một phương pháp luận uyển chuyển, công phu như một phương pháp khoa học thực thụ: Đưa ra một sự giả định, tra xét xem các chứng cứ có hỗ trợ cho sự giả định ấy không, từng bước chỉnh lý cho sự giả định ban đầu sao cho đến khi không còn các nghịch chứng nữa, nhiên hậu mới sử dụng sự giả định đã thiết lập như một qui chuẩn để thông giải các bản văn Kinh Thánh chưa rõ nghĩa. Qui chuẩn đã được thiết lập và kế thừa của những người theo xu hướng định kỳ cho rằng bản văn Kinh Thánh phải được hiểu theo tự nghĩa khi nào vẫn còn có thể hiểu như thế được, và rằng Hội Thánh và Ysơraên là hai thực thể khác nhau được Đức Chúa Trời điều khiển theo các kế hoạch khác nhau của Ngài.

Sự thông giải Kinh Thánh theo Xu Hướng Định Kỳ (cũng còn được gọi là “Thần Học Định Kỳ”) nhìn nhận sự thông giải theo phép ẩn dụ (Metaphor), theo các phép hình văn (Figures of Speech), và theo phép phúng dụ (Allegory). Đức Chúa Jêsus đã lắm khi sử dụng phép phúng dụ qua việc đưa ra các ngụ ngôn (Parables) trong sự giảng dạy của Ngài (Vd., Ma. 13:10-17). Đức Chúa Trời đã lắm lần cho phép các Trước Giả sử dụng các hình tượng văn học để khải thị các nét mỹ đức của Ngài cho dầu là về tính quan phòng (Vd., Ma. 23:37) hay là về tính quyền năng (Vd., Ôs. 5:14) cũng thế. Thế nhưng ý nghĩa có được từ ẩn dụ luôn luôn mang tính tự nghĩa chứ không bao giờ có thể thoát li tự nghĩa được. Điều này là hiển nhiên qua Kinh Thánh: Đức Chúa Trời sử dụng cả các đoạn văn phải được hiểu theo nghĩa tường minh lẫn các đoạn văn phải được hiểu theo ẩn nghĩa. Phận sự của chúng ta là phải xem xét cách thận trọng chứ không được phép suy đoán cách vô nguyên tắc. Ngay cả trong những sự kiện lạ lùng như cuộc sáng tạo vũ trụ của Đức Chúa Trời, Ngài vẫn sử dụng ngôn từ theo tự nghĩa để khải thị công việc của Ngài. Chẳng hạn, cho dầu có nhiều người cố công biến bản văn Kinh Thánh hàm ý Đức Chúa Trời đã tạo dựng vũ trụ trong một khoảng thời gian dài, lời Kinh Thánh vẫn cứ là “vậy, có buổi chiều và buổi mai…” (Sv. Sáng. 1:5, 8, 13, 19, 23, 31). Việc thông giải sự trước thuật này theo ẩn nghĩa là không có tiền lệ vì suốt cả Kinh Thánh chẳng có thể tìm thấy một nơi nào khác Đức Chúa Trời sử dụng tổ hợp từ “buổi chiều và buổi mai…” để hàm ý bóng gió về một thời kỳ dài. Trong Kinh Thánh, những tổ hợp từ tương tự như thế luôn luôn liên quan đến nghĩa tường minh của “ngày 24 giờ”.

Đức Chúa Trời cũng sử dụng dòng lịch sử để minh chứng cho tính hợp lý của việc thông giải bản văn Kinh Thánh theo tự nghĩa. Tất cả những lời tiên tri đã được ứng nghiệm đều đã được ứng nghiệm theo tự nghĩa. Đức Chúa Jêsus đã được giáng sinh đồng trinh theo tự nghĩa (Sv. Ês. 7:14) tại Bếtlêhem (Sv. Mi. 5:2) theo tự nghĩa, và đã vào thành Giêrusalem (Sv. Xa. 9:9) trên lưng lừa con theo tự nghĩa. Chẳng có gì có thể bắt Đức Chúa Trời làm cho những lời tiên tri của Ngài phải ứng nghiệm theo tự nghĩa cả, nhưng vì Ngài đã cho phép việc đã xảy ra như thế nên chúng ta có phận sự phải ưu tiên xem xét việc thông giải các lời tiên tri trong Kinh Thánh theo tự nghĩa. Việc Đức Chúa Trời muốn Lời Ngài phải được thông giải theo tự nghĩa là một việc hữu lý. Nếu cứ để cho Lời Ngài luôn được thông giải theo ẩn nghĩa, nhất định các ẩn nghĩa tùy tiện sẽ thâm nhập vào Lời Ngài và Lời Ngài sẽ không còn là Lời Ngài nữa. Tiếc thay, đây lại là điều có thật giữa vòng Hội Thánh của Đức Chúa Trời hiện nay.

Việc thông giải bản văn Kinh Thánh theo tự nghĩa có thể dẫn đến tác dụng tạo phân rẽ cao độ trong việc thông giải các giáo lý Kinh Thánh về Kỳ Mạt Thế. Xu Hướng Định Kỳ tin rằng Hội Thánh và Ysơraên là hai thực thể phân biệt và Đức Chúa Trời có hai phương pháp tương tác khác nhau với hai thực thể ấy. Khác với Thần Học Giao Ước (hay Xu Hướng Giao Ước), Thần Học Định Kỳ dạy rằng Hội Thánh sẽ không hưởng các lời hứa Đức Chúa Trời đã hứa với Ysơraên. Dầu rằng cả Hội Thánh và Ysơraên đều được nhận sự cứu rỗi qua công nghiệp đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ, sự định mạng của Đức Chúa Trời là Hội Thánh không được định để trở thành một thực thể chính trị và quốc gia để thực thi các tiêu chuẩn chính trị_quốc gia trên qui mô quốc gia và quốc tế. Với cách hiểu này, chương trình của Đức Chúa Trời dành cho Ysơraên vẫn chưa được hoàn thành. Ysơraên vẫn còn đóng một vai trò quyết định trong Kỳ Mạt Thế là điều sẽ diễn ra trong Kỳ Vương Quốc Ngàn Năm (Sv. Khải. 20). Sự ưu ái hiện có của Đức Chúa Trời trên Hội Thánh là hữu hạn, sự ưu ái này sẽ được chuyển sang cho Ysơraên khi Hội Thánh được cất lên Thiên Đàng vào Kỳ Đón Nhận sẽ diễn ra trước Kỳ Khổ Nạn trên thế gian.

Từ liệu “Xu Hướng Định Kỳ” xuất phát từ cách hiểu về các “Sự Định Kỳ” của Đức Chúa Trời được tìm thấy qua Kinh Thánh. Đó là các sự định kỳ sau đây: [1] “Sự Định Kỳ Vô Tội” (Sv. Sáng. 1:1 - 3:7), [2] “Sự Định Kỳ Lương Tâm” (Sv. Sáng. 3:8 - 8:22), [3] “Sự Định Kỳ Qui Chế” (Sv. Sáng. 9:1 - 11:32), [4] “Sự Định Kỳ Hứa Ngôn” (Sv. Sáng. 12:1 - Xuất. 19:25), [5] “Sự Định Kỳ Luật Pháp” (Sv. Xuất. 20:1 - Công. 2:4), [6] “Sự Định Kỳ Ân Điển” (Sv. Công. 2:4 - Khải. 20:3), và [7] “Sự Định Kỳ Thiên Hi Niên” (Sv. Khải. 20:4-6). Điều đáng chú ý là tên gọi cho các sự định kỳ này không thể tìm thấy qua Kinh Thánh, nhưng nội dung của các sự định ấy lại đúng theo các tên gọi này chứ chẳng sai. Từ sự phân tích này về các Sự Định Kỳ của Đức Chúa Trời, người ta vững tin rằng Đức Chúa Trời hành sử với nhân loại theo các cách thế của Ngài suốt dòng lịch sử, và rằng Hội Thánh và Ysơraên là hai thực thể phân biệt là điều hữu lý. Đó là cách hiểu căn bản của Xu Hướng Định Kỳ trong Thần Học Hệ Thống.
​

“THUẬT TUYÊN KINH THEO KINH THÁNH”

8/10/2018

 
Picture
​




... Có một số người nhận thức sai rằng Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh làm hạn chế sự thông biết Lời Đức Chúa Trời bằng việc “bóp nghẹt” mất sự “khải thị” của Đức Thánh Linh qua việc tuân thủ theo các nguyên tắc tuyên kinh. Một sự nhận thức như vậy là một sự sai lầm lớn! Mục tiêu của Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh, và tác dụng của các nguyên tắc tuyên kinh theo Kinh Thánh là giúp cho chúng ta tiến gần nhất đến sự khải thị đã được thiết lập sẵn trong bản văn Kinh Thánh. Mục đích của Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh là giúp bảo vệ chúng ta khỏi các sự áp dụng vô nguyên tắc Lời Kinh Thánh là những sự áp dụng phi, phản Kinh Thánh...

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

“Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời
như người làm công không chỗ trách được,
lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật.”
(2Ti. 2:15)

Có lẽ là lời sau đây là sự khái quát hóa tốt nhất cho Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh:

“Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (2Ti. 2:15)

Thuật Tuyên Đạo theo Kinh Thánh là một khoa học giúp thông giải Kinh Thánh theo các bước thích hợp đối với các loại hình văn chương Kinh Thánh khác nhau trong Kinh Thánh. Chẳng hạn, Thi Thiên phải được thông giải khác với cách thông giải Tiên Tri, và Châm Ngôn phải được thông giải khác với cách thông giải Luật Pháp trong Ngũ Kinh. Mục đích của Thuật Tuyên Kinh là giúp cho chúng ta biết làm cách nào để quan sát, thông giải, và áp dụng Kinh Thánh.

Nguyên tắc quan trọng hàng đầu của Thuật Tuyên Kinh là “Kinh Thánh Phải Được Thông Giải Theo Tự Nghĩa[1]”. “Thông Giải Theo Tự Nghĩa” hàm ý rằng Lời Kinh Thánh phải được hiểu theo nghĩa tường minh của chữ đã được bản văn Kinh Thánh sử dụng. Kinh Thánh phán theo như đã chép, và Kinh Thánh đã chép theo như Kinh Thánh phán. Có nhiều người mắc lỗi không đọc Kinh Thánh theo như Kinh Thánh đã được chép và vì vậy mà dẫn đến việc đưa ra những nghĩa không thực sự có trong bản văn Kinh Thánh. Tất nhiên là vẫn có những ý nghĩa thuộc linh ẩn sau nghĩa tường minh của bản văn Kinh Thánh nhưng điều ấy không có nghĩa là Lời Kinh Thánh luôn mang ẩn nghĩa, và cũng không có nghĩa là việc tìm kiếm ẩn nghĩa là mục tiêu duy nhất (hoặc chính) của việc thông giải Kinh Thánh. Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh giúp chúng ta giữ được sự trung tín trong việc tìm hiểu ý nghĩa khách quan ban đầu (vốn có) của bản văn Kinh Thánh, tránh được lỗi biểu tượng hóa, phúng dụ hóa bản văn Kinh Thánh là sự gán ghép ý nghĩa chủ quan của người thông giải, phủ định tính khải thị thành văn của Đức Chúa Trời trong (và qua) bản văn Kinh Thánh.

Nguyên tắc sống còn thứ hai của Thuật Tuyên Kinh là “Bản Văn Kinh Thánh Phải Được Thông Giải Hợp Bối Cảnh Lịch Sử, Hợp Cấu Trúc Ngữ Pháp, Và Hợp Nội Hàm Của Bản Văn”. “Thông Giải Hợp Bối Cảnh Lịch Sử” hàm ý rằng việc thông giải một bản văn Kinh Thánh phải có sự thông hiểu về bối cảnh văn hóa của bản văn, về bối cảnh lịch sử khiến dẫn đến sự ra đời của bản văn. “Thông Giải Hợp Cấu Trúc Ngữ Pháp” hàm ý rằng việc thông giải phải có sự hiểu biết về các qui luật ngôn ngữ của ngôn ngữ nguyên thủy của bản bản văn Kinh Thánh (Hêbơrơ, HyLạp) để hiểu được văn phạm, văn thái của bản văn. “thông giải hợp nội hàm của bản văn” hàm ý rằng việc thông giải một bản văn Kinh Thánh phải được tiến hành trong sự chú ý về văn mạch của đoạn văn đang được nghiên cứu (tại văn) với văn mạch của các đoạn văn đi trước đó (thượng văn), và với văn mạch của các đoạn văn đi sau đó (hạ văn) để xác định ý nghĩa nào là hợp luận lý (lôgích) nhất cho bản văn đang được nghiên cứu.

Có một số người nhận thức sai rằng Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh làm hạn chế sự thông biết Lời Đức Chúa Trời bằng việc “bóp nghẹt” mất sự “khải thị” của Đức Thánh Linh qua việc tuân thủ theo các nguyên tắc tuyên kinh. Một sự nhận thức như vậy là một sự sai lầm lớn! Mục tiêu của Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh, và tác dụng của các nguyên tắc tuyên kinh theo Kinh Thánh là giúp cho chúng ta tiến gần nhất đến sự khải thị đã được thiết lập sẵn trong bản văn Kinh Thánh. Mục đích của Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh là giúp bảo vệ chúng ta khỏi các sự áp dụng vô nguyên tắc Lời Kinh Thánh là những sự áp dụng phi, phản Kinh Thánh. Lời Kinh Thánh phán:

“Lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng” (Hê. 4:12)
​
Thuật Tuyên Kinh theo Kinh Thánh là một khoa học giàu tính nghệ thuật có tác dụng giúp cho chúng ta giữ cho “gươm hai lưỡi” của Lời Đức Chúa Trời luôn luôn sắc bén, không bị hoen rỉ bởi các sự thông giải bừa bãi, vô nguyên tắc.

--

[1] “Tự Nghĩa”: Nghĩa của chữ. Tự nghĩa phải là nghĩa tường minh, tức nghĩa đã từng được nhận biết một cách phổ cập. Tự nghĩa bao gồm cả nghĩa tường minh (nghĩa theo chữ) và ẩn nghĩa (nghĩa mà chữ ám chỉ đến).
thuật_tuyên_kinh_theo_kinh_thánh.pdf
File Size: 393 kb
File Type: pdf
Download File


“CALVIN VÀ ARMINIUS TRÊN VẤN ĐỀ SỰ CỨU RỖI”

7/10/2018

 
Picture



​… Việc đào sâu tìm hiểu sự khác biệt giữa hệ tư tưởng của Calvin và hệ tư tưởng của Arminius trên vấn đề sự cứu rỗi là một điều đáng quí nhưng chúng ta cần nên biết rằng cả hai cũng đều chỉ là sự nổ lực của con người để giải thích các phạm trù Thiên Thượng. Đức Chúa Trời có hoàn toàn tể trị trên công nghiệp cứu rỗi của Ngài cho nhân loại không? Có! Con người có phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ hay không? Có! Làm sao hai lẽ thật cơ bản ấy dung hợp nhau trong sự cứu rỗi dành cho người được cứu là điều mà cả Calvin và Arminius cùng trăn trở. Thế nhưng, cho dầu Calvin đúng hay Arminius đúng, hoặc có những dung hợp nào đó giữa hai hệ tư tưởng này, trách nhiệm cá nhân của mỗi chúng ta đối với công nghiệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ vẫn không thay đổi: Chúng ta phải rao Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ cho khắp thế gian (Ma. 28:19-20; Công. 1:8)!

 (Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

“Hãy tấn tới trong ân điển
và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta
là Đức Chúa Jêsus Christ.”
(2Phi. 3:18)
Hệ tư tưởng của Calvin và hệ tư tưởng của Arminius trên vấn đề sự cứu rỗi là hai nổ lực thần học chính nhằm giải thích mối quan hệ giữa quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời với ý chí (và trách nhiệm) tự do của cá nhân trong lĩnh vực sự cứu rỗi. Các nổ lực này là đáng trân trọng, nhưng chung qui thì sự giải thích nào cũng bị giới hạn vì sự cao sâu của ý tưởng của Đức Chúa Trời luôn vượt lên trên mọi suy tưởng của loài người khiến không ai có thể hoàn toàn hiểu được sự vận hành của Ngài trong sự cứu rỗi dành cho nhân loại.

Trong gáo lý Kinh Thánh bằng Tiếng Anh, những người theo tư tưởng của Calvin tách vạch tư tưởng thần học của mình thành năm điểm được viết tắt bằng năm chữ cái mà khi ghép với nhau theo đúng thứ tự thì thành tên của một loài hoa, đó là “TULIP”. Calvin cho rằng tình trạng suy đồi của con người là “Sự Suy Đồi Toàn Diện” (Total Depravity), sự lựa chọn của Đức Chúa Trời cho sự cứu rỗi của Ngài là “Sự Lựa Chọn Vô Điều Kiện” (Unconditional Election), sự đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ là “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement), ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời là “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistable Grace), và sự bảo tồn cho sự cứu rỗi của các tín hữu thật là “Sự Bảo Tồn Các Thánh Đồ” (Perseverance of the Saints) bởi ân điển của Đức Chúa Trời.
 
Sự khác biệt giữa hai hệ tư tưởng này xoay quanh vấn đề mức độ trách nhiệm cá nhân trong sự cứu rỗi của mình dưới quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Trong năm phạm trù liên quan đến sự cứu rỗi theo sơ đồ “TULIP”, tư tưởng của Calvin và Arminius trong các phạm trù đầu tiên và cuối cùng (ở hai đầu của sơ đồ “TULIP”, tức “T” và “P”) khác nhau nhưng không gay gắt lắm. Đối với các phạm trù còn lại (ở giữa sơ đồ “TULIP”, tức “U”, “L”, và “I”), tư tưởng của họ hoàn toàn trái ngược nhau.

Sự khác biệt đối kháng giữa hai quan điểm là sự khác biệt “ULI”: “Sự Lựa Chọn Vô Điều Kiện” (Unconditional Election) mà Calvin tin đối nghịch với “Sự Lựa Chọn Theo Điều Kiện” (Conditional Election) mà Arminius tin; “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement) mà Calvin tin đối nghịch với “Sự Đền Tội Thay Vô Hạn” (Unlimited Atonement) mà Arminius tin; “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistible Grace) mà Calvin tin đối nghịch với “Ân Điển Khả Kháng” (Resistible Grace) mà Arminius tin.
Picture
“U” nói về “Sự Lựa Chọn Vô Điều Kiện” (Unconditional Election). Calvin cho rằng chỉ duy nhất Đức Chúa Trời là Đấng lựa chọn người sẽ được cứu thể theo ân điển tối cao của Ngài. Chúng ta vốn được sinh ra trong trạng thái chết thuộc linh, hoàn toàn không có khả năng đáp ứng Đức Chúa Trời. Vì vậy, sự tiền định của Đức Chúa Trời về việc người nào sẽ được cứu không thể phụ thuộc chút nào vào người ấy cả. Arminius lập luận rằng Đức Chúa Trời chọn lựa người sẽ được cứu dựa theo sự biết trước của Ngài là ai sẽ chọn Ngài.

“L” nói về “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement). Calvin tin rằng huyết đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ trên Thập Tự Giá của Ngài là để đền tội thay cho người được tiền định cho sự cứu rỗi trong Ngài. Arminius tin rằng Đức Chúa Jêsus Christ chịu chết trên Thập Tự Giá là để đền tội thay cho tất cả mọi tội của tất cả mọi người trên thế gian.

“I” nói về “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistible Grace). Calvin tin rằng ví Đức Chúa Trời tiền định người được cứu nên người ấy không có khả năng chống lại sự lựa chọn của Ngài. Ngược lại, Arminius cho rằng người được chọn cho sự cứu rỗi vẫn có ý chí cá nhân để khước từ sự chọn lựa của Đức Chúa Trời.

Đối với hai phạm trù còn lại, “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistable Grace) và “Sự Bảo Tồn Các Thánh Đồ” (Perseverance of the Saints) Arminius và những người theo lập trường của Arminius ít kiên định hơn. Về “Ân Điển Bất Khả Kháng” (Irresistable Grace), Calvin cho rằng trạng thái tự nhiên của con người (sau Ađam) là họ được sinh ra trong tội lỗi, hoàn toàn chết về thuộc linh, không thể tự cứu mình được. Một số người theo Arminius đồng ý với Calvin về điểm này trong khi những người khác thì tin rằng sự suy đồi ấy là không toàn diện, tội nhân vẫn còn khả năng chọn lựa Đức Chúa Trời cho mình. Về “Sự Bảo Tồn Các Thánh Đồ” (Perseverance of the Saints), cả người theo Calvin lẫn người theo Arminius đều tin rằng “một khi đã được cứu sự cứu rỗi sẽ được bảo tồn”, người đã được cứu sẽ không bao giờ bị mất sự cứu rỗi được. Tuy nhiên, vẫn có một số người theo lập trường của Arminius cho rằng người được cứu vẫn còn chịu ảnh hưởng của thế gian chi phối nên hành vi (phạm tội) của họ có thể khiến cho Đức Chúa Trời thu hồi sự cứu rỗi mà Ngài đã từng ban cho họ.

Tư tưởng của Calvin là hợp Kinh Thánh hơn tư tưởng của Arminius. Kinh Thánh phán rất rõ về trạng thái suy đồi toàn diện của mỗi cá nhân được sinh ra trong thế gian này (Sáng. 6:5; Giê. 17:9; Rô. 3:10-18). Do tình trạng suy đồi toàn diện của nhân loại, sự lựa chọn vô điều kiện là tất yếu để có được sự cứu rỗi cho con người (Rô. 8:29-30, 9-11; Êph. 1:4-6, 11-12). Trong trạng thái ô tội, con người không thể tự động nhận ân điển cứu chuộc cho mình được mà phải cần đến sự thu dung vô điều kiện của Đức Chúa Trời. Tương tự như thực trạng con người không thể tự đến với sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, sự ban cho ân điển cứu chuộc của Đức Chúa Trời mang tính bất khả kháng đối với con người khiến họ không thể khước từ ân điển Ngài được (Gi. 6:37, 44, 10:16). Đồng thời, cũng giống như việc con người không thể khước từ ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời được, con người không thể trả lại sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ, giáo lý về sự bảo tồn các thánh đồ là hoàn toàn hợp Kinh Thánh (Gi. 10:27-29; Rô. 8:29-30; Êph. 1:3-14). Giáo lý về “Sự Đền Tội Thay Hữu Hạn” (Limited Atonement) là phạm trù duy nhất trong tư tưởng của Calvin mà người ta có thể đưa ra được các sự phản bác có hậu thuẫn Kinh Thánh. Cho dầu Kinh Thánh phán tỏ tường rằng Đức Chúa Trời tiền định người được cứu, vẫn có vẻ như Kinh Thánh ám chỉ rằng sự hy sinh đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ là giá chuộc cho tất cả mọi tội của toàn thể thế gian chứ không phải chỉ riêng cho tội lỗi của những người được cứu chuộc (1Gi. 2:2; Gi. 1:29, 3:16; 1Ti. 2:6; 2Phi. 2:1). Sự đáp trả của những người theo tư tưởng của Calvin cho vấn đề này như sau: Trên phương diện tiềm năng, sự hy sinh đền tội thay của Đức Chúa Jêsus Christ có quyền năng cứu rỗi cho cả thế gian; trên phương diện tác dụng, quyền năng ấy chỉ hiệu nghiệm riêng trên những người được chọn của Đức Chúa Trời mà thôi. Nếu không như thế, hóa ra có một nghịch lý là những người đi Địa Ngục cũng đã được Đức Chúa Jêsus Christ đền tội thay rồi!

Việc đào sâu tìm hiểu sự khác biệt giữa hệ tư tưởng của Calvin và hệ tư tưởng của Arminius trên vấn đề sự cứu rỗi là một điều đáng quí nhưng chúng ta cần nên biết rằng cả hai cũng đều chỉ là sự nổ lực của con người để giải thích các phạm trù Thiên Thượng. Đức Chúa Trời có hoàn toàn tể trị trên công nghiệp cứu rỗi của Ngài cho nhân loại không? Có! Con người có phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ hay không? Có! Làm sao hai lẽ thật cơ bản ấy dung hợp nhau trong sự cứu rỗi dành cho người được cứu là điều mà cả Calvin và Arminius cùng trăn trở. Thế nhưng, cho dầu Calvin đúng hay Arminius đúng, hoặc có những dung hợp nào đó giữa hai hệ tư tưởng này, trách nhiệm cá nhân của mỗi chúng ta đối với công nghiệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ vẫn không thay đổi: Chúng ta phải rao Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ cho khắp thế gian (Ma. 28:19-20; Công. 1:8)!
​
calvin_và_arminius_trên_vấn_Đề_sự_cứu_rỗi.pdf
File Size: 406 kb
File Type: pdf
Download File


“VÀI ĐIỀU VỀ CHỦ TRƯƠNG TƯƠNG ĐỐI VĂN HÓA”

6/10/2018

 
Picture

​… Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có phận sự phải xem trọng tha nhân bất kể họ là người của một nền văn hóa như thế nào vì họ cũng là con người là chủng loại duy nhất được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Thượng của Đức Chúa Trời (Sv. Sáng. 1:27). Chúng ta cũng phải nhận thức rằng sự đa dạng về văn hóa trong xã hội loài người là một điều đáng quí cần phải được trân trọng và bảo tồn. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đồng thời hiểu rằng vì cớ hậu quả của tội lỗi trong thế giới đã bị sa bại vì tội lỗi này mà không phải tất cả các tín ngưỡng, tôn giáo cùng với các sự thực hành tín ngưỡng, tôn giáo cặp theo đều đẹp ý Đức Chúa Trời và đếu có ích cho đời sống văn minh trong một thế giới đang tiến bộ…

(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

“Hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình.
Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em,
song phải hiền hòa và kính sợ”
(1Phi. 3:15)
​Muốn kết quả cho Đức Chúa Trời chúng ta phải biết làm cho con người mình nhỏ lại để sự vĩ đại của Ngài được hiển thị rõ nét hơn. Chúng ta chỉ có thể nhỏ lại khi chúng ta nhận thức được Đức Chúa Trời, thế giới tự nhiên, thực tiễn khách quan, tha nhân, và ngay chính chúng ta. Một trong những điều thuộc về thực tiễn khách quan là chủ trương “tương đối văn hóa” (cultural relativism) mà các biến tướng của chủ trương này luôn là một trở ngại cho việc chia sẻ Tin Lành của Cơ Đốc Nhân chúng ta, nhất là trong những dịp như Lễ, Tết, Hội Hè,… theo văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam chúng ta.
 
Chủ trương “tương đối văn hóa” là một quan điểm cho rằng mọi tín ngưỡng, phong tục, đạo đức học đều chỉ có giá trị tương đối đối với từng cá nhân tùy theo xã hội mà họ sống. Quan điểm này chủ trương rằng “cái đúng” cũng như “cái sai” chỉ đúng và sai tùy theo cách quan niệm của từng nền văn hóa nhất định mà thôi. Theo quan điểm này, cái “đạo đức” trong một nền văn hóa này vẫn rất có thể bị xem là “vô đạo đức” trong một nền văn hóa khác như thường. Với một cách tiếp cận vấn đề như vậy những người theo thuyết “tương đối văn hóa” nhấn mạnh rằng vì cớ không thể có một tiêu chuẩn đạo đức duy nhất cho toàn thế giới cho nên không ai có quyền bình phẩm đúng, sai gì hết về tín ngưỡng tôn giáo, phong tục văn hóa, và tập quán đạo đức của bất cứ ai cả.
 
Đối với khoa nhân chủng học hiện đại thì thuyết “tương đối văn hóa” là một học thuyết tốt. Những người theo thuyết “tương đối văn hóa” cho rằng mọi nền văn hóa đều có giá trị vốn có của mình và đều có giá trị như nhau. Theo họ, sự khác biệt nhau giữa các nền văn hóa, cho dầu các sự khác biệt ấy mâu thuẫn nhau, người ta cũng không được quyền phán xét đúng, sai hay tốt, xấu gì cả. Các nhà nhân chủng học ngày nay có khuynh hướng cho rằng tất cả mọi nền văn hóa đều phải được xem như đồng đẳng một cách chánh đáng, đếu phải được nghiên cứu với một quan điểm hoàn toàn trung dung.
 
Tư tưởng của thuyết “tương đối văn hóa” có một sự liên quan mật thiết với tư tưởng “tương đối đạo đức” là một dòng tư tưởng cho rằng “chân lý” là cái khả biến chứ không thường hằng. Theo dòng tư tưởng này thì “đúng” và “sai” chỉ tùy thuộc vào quan niệm cá nhân hoặc theo một xã hội nhất định nào đó mà thôi vì “chân lý” luôn mang tính chủ quan chứ chẳng hề có một hệ thống tiêu chuẩn khách quan nào ràng buộc đối với mọi nền văn hóa cả. Tóm lại, theo quan điểm “tương đối đạo đức”, chẳng ai có quyền nói ai đúng hay ai sai gì cả; cũng chẳng có xã hội nào có thể phê phán xã hội nào cả.
 
Thuyết “tương đối văn hóa” cho rằng trên đời này chẳng có cái gì tự nó vốn đúng hay vốn sai, vốn tốt hay vốn xấu. Vì vậy, các lề thói cổ đại của người Mayan như tự làm cho mình tổn thương thân thể hay sử dụng con người làm vật tế thần tự nó không tốt mà cũng không xấu, không đúng mà cũng chẳng sai mà chỉ thuần túy là những sự thực hành tôn giáo, tín ngưỡng vô tội cũng như người Việt làm cỗ để cúng giỗ ông bà của mình hay đốt pháo nổ hoặc bắn pháo hoa để mừng năm mới âm lịch vào mỗi dịp Tết mà thôi; mỗi nền văn hóa đều có các sự thực hành mang tính tín ngưỡng, phong tục, đạo đức học riêng cho mình.
 
Vào Tháng Giêng năm 2002 khi Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush gọi một nhóm các nước là “trục ma quỉ” (axis of evil) thì các nhà chủ trương “tương đối văn hóa” cảm thấy mình bị xúc phạm nặng nề: Khi một xã hội xem một xã hội khác là “ma quỉ” thì, đối với các nhà  “tương đối văn hóa”, điều ấy là một sự rủa sả nặng nề. Chính từ một dòng tư tưởng như vậy mà hiện nay đang có sự thắng thế của một trào lưu chủ trương rằng thế giới phải “thông cảm” cho những người Hồi Giáo cực đoan chứ không được chống lại họ. Những người chủ trương “tương đối văn hóa” đòi hỏi các nước Phương Tây không được áp đặt quan niệm của họ về Hồi Giáo cho thế giới Hồi Giáo, chẳng hạn họ không có quyền xem việc người Hồi Giáo cực đoan đánh bom tự sát là một việc ác! Theo các nhà chủ trương “tương đối văn hóa” thì phong trào thánh chiến của người Hồi Giáo cũng chỉ là một sự thực hành tôn giáo giống y như bao nhiêu sự thực hành tôn giáo khác của thế giới Tây Phương mà thôi, và vì vậy mà người Mỹ không được quyền gọi sự kiện tấn công tòa tháp Trung Tâm Thương Mại Thế Giới vào ngày 11. 09. 2001 ở thành phố New York là một cuộc tấn công “khủng bố”!
 
Các nhà hoạt động của chủ trương “tương đối văn hóa” luôn chống đối các hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ Cơ Đốc vì họ nhận ra rằng khi người ta tin Tin Lành thì các sự thực hành về văn hóa của họ cũng sẽ thay đổi theo; chẳng hạn người ta sẽ thôi không còn ăn thịt người nữa, sẽ thôi không còn thiêu sống vợ theo cùng với chồng khi chồng chết, sẽ thôi không đâm trâu, chém lợn nữa,… Đối với các nhà hoạt động cho chủ trương “tương đối văn hóa” thì những điều ấy làm tổn hại truyền thống văn hóa cho nên cần phải được nghiêm cấm cho dầu các ích lợi mang giá trị dân tộc, nhân bản, khoa học, khai phóng của các sự thay đối ấy có lớn đến đâu cũng mặc.
 
Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có phận sự phải xem trọng tha nhân bất kể họ là người của một nền văn hóa như thế nào vì họ cũng là con người là chủng loại duy nhất được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Thượng của Đức Chúa Trời (Sv. Sáng. 1:27). Chúng ta cũng phải nhận thức rằng sự đa dạng về văn hóa trong xã hội loài người là một điều đáng quí cần phải được trân trọng và bảo tồn. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đồng thời hiểu rằng vì cớ hậu quả của tội lỗi trong thế giới đã bị sa bại vì tội lỗi này mà không phải tất cả các tín ngưỡng, tôn giáo cùng với các sự thực hành tín ngưỡng, tôn giáo cặp theo đều đẹp ý Đức Chúa Trời và đếu có ích cho đời sống văn minh trong một thế giới đang tiến bộ. Chân Lý nếu đúng là Chân Lý chân chính thì phải xuất phát từ Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo Và Tể Trị. Chân Lý chân chính mang tính khách quan chứ không phải chỉ có giá trị chủ quan (Sv. Gi. 17:17). Lẽ Thật chân chính mang tính tuyệt đối và quả là có một hệ thống tiêu chuẩn khách quan ràng buộc cả xã hội loài người trên mặt địa cầu này (Sv. Khải. 20:11-12).
 
Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta cũng có phận sự phải biết rằng hoạt động truyền giáo của chúng ta không được phép áp đặt cách máy móc các giá trị Tây Phương ngoại lai mà phải tập trung vào việc rao ra Lẽ Thật Kinh Thánh về sự cứu rỗi trong và qua Đức Chúa Jêsus Christ theo Tin Lành cứu rỗi của Ngài trong Kinh Thánh. Chính Tin Lành theo Kinh Thánh sẽ nhen lên ngọn lửa thay đổi theo thánh ý của Đức Chúa Trời chứ không phải bằng các nổ lực thô thiển và thô bạo của chúng ta. Công việc của Đức Chúa Trời phải được diễn biến theo các bước của Ngài, trong thời điểm của Ngài, và bằng cách thế của Ngài (Sv. Công. 19) chứ không phải bằng nổ lực chủ quan, duy ý chí của những con người lếu láo có đời sống chẳng ra sao mà chỉ giỏi to mồm như chúng ta vẫn thường thấy!
vài_Điều_về_chủ_trương_tương_Đối_văn_hóa.pdf
File Size: 340 kb
File Type: pdf
Download File


“PHẬN SỰ PHỤ HUYNH CƠ ĐỐC”

5/10/2018

 
Picture



​… “16Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, 17hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (2Ti. 3:16-17). Phụ huynh phải là phụ huynh theo Kinh Thánh và con cái cũng phải là con cái theo Kinh Thánh. Các bậc phụ huynh trước hết phải giữ mình theo Lời Kinh Thánh để có thể trưởng dưỡng con cái của họ theo Lời Kinh Thánh.
(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)

​Đối với tất cả mọi người, mệnh lệnh hệ trọng nhất của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh phải là mệnh lệnh này: “Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi” (Phục. 6:5). Thế nhưng trước đó, ở câu 2, Lời Chúa phán rằng “hầu cho ngươi kính sợ Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, trọn đời, ngươi và con cháu ngươi vâng giữ các luật lệ và điều răn của Ngài mà ta truyền cho ngươi, để ngươi được sống lâu ngày” (Phục. 6:2). Và, sau câu 5, Lời Chúa lại phán rằng “6Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; 7khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi, và phải nói đến, hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chỗi dậy” (Phục. 6:6-7). Lời của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh luôn bao trùm mọi lĩnh vực sống Cơ Đốc, trong đó có phận sự phụ huynh Cơ Đốc.
 
Suốt chiều dài lịch sử của dân Ysơraên các bậc phụ huynh luôn được chỉ dạy là phải chỉ dạy cho con cái họ Lời Chúa và đường lối của Chúa cho sự phát triển thuộc linh và cho cuộc an sinh suốt đời của chúng. Tất cả những gì mà mỗi bậc phụ huynh trung tín nhất thiết phải làm cho được là họ phải “Dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo;_Dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó” (Châm. 22:6). “Dạy” là phận sự đầu tiên mà các bậc phụ huynh được Đức Chúa Trời đòi hỏi phải hoàn thành và đó chính là phận sự trang bị cho con cái một nền giáo dục gia đình cơ bản theo đường lối của Đức Chúa Trời. Chính từ việc dạy dỗ này mà con cái được chỉ cho biết một cách đại cương là chúng phải sống như thế nào cho đẹp ý Ngài. Nền giáo dục căn bản này cho con cái có một tầm quan trọng hết sức đặc biệt.
 
Êph. 6:4 là một sự tóm tắt Tân Ước về các sự hướng dẫn thực hành cho các bậc phụ huynh: “Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó” (Êph. 6:4). Phần cấm chỉ đối với các bậc phụ huynh theo câu Kinh Thánh này là đừng tạo ra cho con cái các xúc cảm tiêu cực đối với sự hà khắc, bất công, thiên vị, vô lý trong khi thi hành phụ quyền. Trong quan hệ với con trẻ sự hà khắc, bất công, thiên vị, vô lý chỉ khiến tạo ra trên đời sống chúng những thương tật trên tấm lòng mà thôi. Trong Êph. 6:4, “chọc” (παροργίζω [parorgizo]) có nghĩa là khiến dấy lên và “giận dữ” (παροργίζω [parorgizo]) nói về các phản ứng tiêu cực được tạo ra do bị ức chế bởi sự hà khắc, bất công, thiên vị, vô lý,… Dưới ánh sáng Kinh Thánh, phụ quyền là một phạm trù được Thiên Thượng công nhận nhưng việc sử dụng phụ quyền phải sao cho không hình thành trong con trẻ các thương tật tâm lý, thần kinh có hại cho sự trưởng thành của chúng theo Kinh Thánh.
 
Phần huấn thị đối với các bậc phụ huynh theo câu Kinh Thánh này đi theo hướng ngược lại là họ phải dùng các sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh mà dạy dỗ cho con cái của mình. Ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với việc trưởng dưỡng con cái thật rõ ràng, đó là vừa “sửa phạt” (παιδεία [paideia] - “giáo hóa”), vừa “khuyên bảo” (νουθεσία [nouthesia] - “trưởng dưỡng”) nhằm hoàn thành trọn vẹn qui trình giáo dưỡng để giúp trẻ trưởng thành về nhân cách theo thánh ý của Đức Chúa Trời.
 
Mỗi bậc phụ huynh Cơ Đốc là một khí cụ trong tay Đức Chúa Trời cho ý chỉ đời đời của Ngài. Chính vì vậy mà toàn bộ qui trình giáo dưỡng phải được diễn ra đúng theo các mệnh lệnh của Ngài, ở dưới sự dắt dẫn của Ngài, tôn trọng đầy đủ thẩm quyền của Ngài hầu cho lý trí, ý chí, và tình cảm của con cái được thấm nhuần mọi điều dạy dỗ của Ngài. Với một bức tranh toàn cảnh như vậy quyền của các bậc phụ huynh sẽ không khi nào là một thứ quyền theo ý riêng của họ được. Phụ quyền chỉ đúng nghĩa khi phụ huynh biết đặt mình dưới sự dắt dẫn của Đức Chúa Trời. Hễ khi nào phụ huynh vi phạm mệnh lệnh của Đức Chúa Trời về phụ quyền thì phụ quyền của họ bị xâm hại bởi chính họ.
 
Sự giáo hóa và trưởng dưỡng con cái của các bậc phụ huynh phải được thực hành trong sự cầu nguyện cách tỉnh thức. Các bậc phụ huynh có phận sự giáo hóa (“sửa phạt”) nhưng sự giáo hóa của họ phải theo khuôn khổ của Đức Chúa Trời. Các bậc phụ huynh có phận sự trưởng dưỡng (“khuyên bảo”) nhưng sự trưởng dưỡng của họ cũng phải theo khuôn khổ của Đức Chúa Trời. Bất kể là phụ huynh đã sống như thế nào và đã làm gì đối với con cái của họ nhưng nếu họ thiếu một ý thức thường xuyên về việc giáo dưỡng cho con cái của họ biết kính sợ Đức Chúa Trời và thuận phục phụ quyền để sống tự chủ theo các phẩm hạnh Cơ Đốc thì họ vẫn chưa hoàn thành phận sự phụ huynh của mình.
 
“16Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, 17hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (2Ti. 3:16-17). Phụ huynh phải là phụ huynh theo Kinh Thánh và con cái cũng phải là con cái theo Kinh Thánh. Các bậc phụ huynh trước hết phải giữ mình theo Lời Kinh Thánh để có thể trưởng dưỡng con cái của họ theo Lời Kinh Thánh.
 
(Rev. Đoàn Nhật Tân, Ph.D.)
phận_sự_phụ_huynh_cơ_Đốc.pdf
File Size: 383 kb
File Type: pdf
Download File


<<Previous

    ​THỂ LOẠI

    All

    ​​​THƯ KHỐ

    July 2019
    June 2019
    January 2019
    November 2018
    October 2018
    September 2018
    August 2018

Picture
  • About Me
  • My Argument
    • Nhận Diện
    • Nhận Thực
    • Nhận Định
    • Nhận Thức
  • My Presentation
    • Góp Nhặt
    • Chắt Lọc
    • Giảng Dạy
    • Truyền Bá
  • My Exhortation
    • Kinh Truyện
    • Sử Tích
    • Mục Ngữ
    • Nhân Thân